(Thanh Ngang Trên Thập Tự Giá)
(Bài viết của Phùng Quán)
(THẰNG KHÙNG trong tù này là Cha Chính
Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn
Hà Nội. Bài viết của Phùng Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày
cuối trong ngục tù của Ngài. Phùng Quán viết lại theo lời kể của nhà thơ Nguyễn
Tuân - không phải là nhà văn có cùng tên - khi cùng ở trong tù).
"… Anh ta vào trại trước
mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm
tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy
khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong
độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có
cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về,
trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn
anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt
anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống
rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn
da, gân với xương.
Trên người, tứ thời một mớ
giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh ta bị câm vì suốt ngày ít
khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười. Thật ra anh ta chỉ là
người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta
đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu
sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm
quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất
lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính.
Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.
Ở trại, anh ta có một đặc
quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù
chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi "thằng khùng"
(tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết
nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu
đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét
trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho
đứa con nhỏ.
Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh
ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu
lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo
quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan
được đóng bằng gỗ tạp sơ sài.
Anh ta cuộn những bộ áo quần
khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết. Nếu người tù không có
áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất những việc
trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc.
Anh ta khóc đau đớn và thống
thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là anh em máu
mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một
lần giám thị trại gọi anh ta lên:
- Thằng tù chết ấy là cái gì
với mày mà mày khóc như cha chết vậy?
Anh ta chấp tay khúm núm thưa:
- Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy
mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong
trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng
trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.
Thằng khùng nói có lý. Giám
thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc. Nhưng mình không tin là anh
ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước
mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ
rách khoác trên người anh ta cũng khóc…
Trong tiếng khóc và nước mắt
của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những
trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, "đầu chày, đít thớt, mặt bù
loong" cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả
năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta.
Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậc
đại hiền?…
Thế rồi, một lần, mình và anh
ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội
lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc
độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng
chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc
đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới
gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên
hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay
lại:
- Anh Tuân này - không rõ anh
ta biết tên mình lúc nào - sống ở đây anh thèm cái gì nhất?
- Thèm được đọc sách - mình
buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ,
có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.
- Nếu bây giờ có sách thì anh
thích đọc ai? - anh ta hỏi.
- Voltaire! - một lần nữa
mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng chẳng
khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang ngồi dựa lưng.
Nhưng nhu cầu được chuyện trò
bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc
chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay không. Đó chính là tâm trạng của
anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung
nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà
Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và Trừng phạt”.
Anh ta ngồi bó gối, mắt không
rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:
- Trong các tác phẩm của
Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?
Mình sửng sốt nhìn anh ta, và
tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đã ngồi thay vào
chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài
phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho
Pin.
Mình trả lời anh ta:
- Tôi thích nhất là Candide.
- Anh có thích đọc Candide
ngay bây giờ không?
Không đợi mình trả lời, anh
ta nói tiếp:
- Không phải đọc mà nghe… Tôi
sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.
Rồi anh ta cất giọng đều đều
đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm chuẩn và hay như mấy cha cố
người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình trân trân nhìn cái miệng
rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn
không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện
Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…
Anh đọc đến câu cuối cùng thì
kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người lính
gác trên bờ cao nói vọng xuống: "Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!".
- Chúng mình lùa trâu lên bờ
đi! - anh nói.
Lội ra đến giữa sông, mình
hỏi anh ta:
- Anh là ai vậy?
Anh ta cỡi lên lưng một con
trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:
- Tôi là cái thanh ngang trên
cây thập tự đóng đinh Chúa.
Rồi anh ta tiếp:
- Đừng nói với bất cứ ai
chuyện vừa rồi…
Giáp mặt người lính canh, bộ
mặt anh ta thay đổi hẳn - ngu ngơ, đần độn như thường ngày.
Cuối mùa đông năm đó, anh ta
ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau mình mới biết.
Thằng chuyên gia khâm liệm e
đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn được khâm liệm tử tế và chẳng
có ai khóc tống tiễn vong hồn… - những người tù nói, giọng buồn.
Mình gặp giám thị trại, xin
được thăm anh ta.
Giám thị hỏi:
- Trước kia anh có quen biết
gì thằng này không?
Mình nói:
- Thưa cán bộ, không. Chúng
tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.
Giám thị đồng ý cho mình đến
thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng.
Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền,
chốc chốc lại lên cơn co giật…
Mình cúi xuống sát người anh
ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm
ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt
anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều
thào nói:
- Tuân ở lại, mình đi đây…
Đưa bàn tay đây cho mình…
Anh ta nắm chặt bàn tay mình
hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than
củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh
ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN.
Viết xong, anh ta hoàn toàn
kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.
Người lính canh dẫn mình lên
giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng đó
là một ám hiệu.
Giám thị hỏi:
- Cái hình nguệch ngoạc này
có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức
vào biệt giam.
Mình nói:
- Thưa cán bộ, thật tình tôi
không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và
tà khí.
Nghe ra cũng có lý, giám thị
trại tha cho mình về lán…
Phùng Quán
________
Ghi Chú:
(*) THẰNG KHÙNG trong tù này
là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của
Nhà thờ lớn Hà Nội. Bài viết của Phùng Quán đã kể lại chuyện thật những năm,
những ngày cuối trong ngục tù của Ngài.
Xin mời đọc thêm (bài kèm theo
dưới đây) tiểu sử của Cha Vinh để chúng ta biết thêm nhiều chi tiết về cuộc đời
Ngài; và cũng để hiểu thêm gương phụng sự Chúa của Ngài….
Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN
VĂN VINH,
Cha chính Hà Nội, (1912 –
1971).
Tấm gương can trường.
Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH*
Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn
Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại làng Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh
Hà Nam.
Cậu Vinh, một thiếu niên vui
vẻ, thông minh, có năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh về âm nhạc, ca hát. Cậu biết
kính trên, nhường dưới, trong xứ đạo, ai cũng quý yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó
là Cố Hương, một cha người Pháp tên là Dépaulis giới thiệu cậu lên học tại
trường Puginier Hà Nội. Năm 1928, cậu học Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, Phú
Xuyên, Hà Tây.
Năm 1930, thầy Vinh được cố
Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935, thầy vào Đại Chủng viện St Sulpice,
Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ phong linh mục ở Limoges.
Chiến tranh thế giới xảy ra,
cha Vinh phải ở lại Pháp và tiếp tục học tập.
Ngài học Văn Khoa - Triết tại
Đại Học Sorbone, học sáng tác và hòa âm tại Nhạc viện Quốc Gia. Ngài phải vừa
học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ thương của ngài đã làm cho nhiều người Pháp
tưởng lầm ngài là phụ nữ nên cứ chào: “Bonjour Madame!”
Nhưng ẩn trong cái dáng vóc
nhỏ bé đó là một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng là tính cương trực, dưới nụ
cười là ý chí sắt son.
Sau khi tốt nghiệp cử nhân
Văn Triết ở Sorbone, ngài gia nhập dòng khổ tu Biển Đức tại Đan Viện Ste Marie.
Sau 17 năm du học, năm 1947
cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vững mạnh
về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize - Thịnh, Bề trên Giáo phận đã bổ
nhiệm ngài làm cha xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài xin Bề trên lập dòng Biển Đức ở
Việt Nam, nhưng không thành.
Cha Vinh, dù tu học ở Pháp
nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc lập, không nệ Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn
Hà Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai tướng De Lattre de Tassigni.
Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu căng đòi đặt ghế của ông trên cung thánh
và bắt chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam xuống dưới lòng nhà thờ.
Vì lòng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh cương quyết không chịu.
Tướng De Lattre rất tức giận,
gọi cha Vinh tới, đập bàn quát tháo, đe dọa. Cha Vinh cũng đập bàn, lớn tiếng
đáp lại, quyết không nhượng bộ, nhưng Thủ Tướng ngại khó nên tự nguyện rút lui.
Sau vụ đó, để tránh căng thẳng, Đức Cha Khuê đã chuyển cha Vinh làm giáo sư của
Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh văn, Pháp văn, âm nhạc, triết học; ngài
khiêm tốn vâng lời. Ngài cũng giảng dạy Văn Triết ở trường Chu Văn An.
Năm 1954, Đức cha Trịnh Như
Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân đưa chủng sinh đi Nam, nhưng cả hai đều xin
ở lại sống chết với giáo phận Hà Nội, dù biết hoàn cảnh đầy khó khăn, nguy
hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm ngài làm Cha Chính, kiêm Hiệu Trưởng trường Dũng
Lạc.
Ngài tổ chức lớp học giáo lý
cho các giới, có những linh mục trẻ thông minh, đạo đức cộng tác, như cha
Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân Quynh. Lúc đầu, lớp học
được tổ chức thành nhóm nhỏ tại phòng khách Tòa Giám Mục, về sau, con số người
tham dự tăng dần, lớp học được chuyển tới nhà préau, và ngồi ra cả ngoài sân.
Lớp học hiệu quả rất lớn, những tín hữu khô khan trở thành đạo đức nhiệt thành,
ảnh hưởng lan tới cả giới sinh viên và giáo sư đại học, nhiều người gia nhập
đạo. Sau chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động vì lý do an ninh.
Khi cha Vinh đang làm Hiệu
Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ ra chỉ thị phải treo ảnh lãnh tụ thay vào ảnh Thánh
Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên đọc chỉ thị cũng không tháo bỏ Thánh giá,
nên năm 1957, trường bị đóng cửa.
Thời bấy giờ, Đại học Y khoa
Hà Nội thiếu giáo sư, nên đã đề nghị Đức Cha Khuê cử cha Vinh đến trường dạy La
tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ngài. Một hôm, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc
đến thăm trường, thấy bóng dáng chiếc áo chùng thâm linh mục, ông nói với đoàn
tháp tùng: “Đến giờ này mà còn có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?” Ít lâu
sau trường Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.
Biết tài năng và kiến thức âm
nhạc của ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội tìm cha Vinh tham khảo ý kiến và nhờ xem
lại những bản nhạc, bài ca họ mới viết.
Cha Vinh, một trong những
nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam, và là một nhạc sĩ toàn tài. Ngài
chơi vĩ cầm và dương cầm thật tuyệt, chính ngài là người Việt Nam đầu tiên chơi
vĩ cầm ở Hà Nội.
Ngài có năng khiếu đặc biệt
về âm nhạc, lại được học tập chu đáo nên đã sáng tác và để lại nhiều nhạc phẩm
thánh ca tuyệt vời. Cha Vinh trình bày bản hợp tấu “Ở Dưới Vực Sâu” nhân cuộc
đón tiếp phái đoàn Việt Nam do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị
Fontainebleau năm 1946.
Ngài cộng tác với Hùng Lân
sáng tác “Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-Vít.” Sáng tác nhiều nhạc phẩm lớn: “Mở Đường
Phúc Thật,” “Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi,” “Ôi GiaVi,” “Lạy Mừng Thánh Tử Đạo.”
Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8, Ca vịnh 16, Ca vịnh 23, Ca vịnh 41, Ca vịnh
115 và nhiều bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh Tâm Giêsu. Ngài còn viết
những bài ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc bài “Bước Tới Đèo Ngang”
của Bà Huyện Thanh Quan.
Hằng tuần ngài đến dạy nhạc,
xướng âm và tập hát bên chủng viện Gioan. Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng
thanh thoát, lôi cuốn. Ngài tổ chức và chỉ huy dàn đồng ca trong nhiều cuộc lễ
và rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh Thể từ Hàm Long về Nhà Thờ Lớn Hà
Nội.
Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ
cho dân chúng trong nước và thế giới thấy là ở Việt Nam đạo Công giáo vẫn được
tự do hành đạo và tổ chức được những lễ nghi long trọng, tưng bừng. Dịp Lễ
Noel, chính quyền tự động cho người đến chăng dây, kết đèn quanh Nhà Thờ Lớn,
sau lễ họ vào đòi nhà xứ Hà Nội phải thanh toán một số tiền chi phí lớn về vật
liệu và tiền công.
Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ
Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số người của Nhà nước ngang nhiên đưa xe
ô tô chuyển vật liệu, tự động bắc thang, chăng dây treo bóng điện màu trang trí
ở mặt tiền và trên hai tháp Nhà Thờ Lớn. Cha xứ thời đó là cha Trịnh Văn Căn
bảo vệ chủ quyền Giáo Hội trong khuôn viên cơ sở tôn giáo, không đồng ý, nhưng
họ cứ làm. Để phản đối, cha Căn liền cho kéo chuông nhà thờ cấp báo, giáo dân
kéo đến quảng trường nhà thờ rất đông ủng hộ cha xứ, hai bên to tiếng.
Cha Căn gọi Cha Vinh ra can
thiệp, sau một hồi tranh luận không kết quả, cha Vinh kéo những người của Nhà
nước đang leo thang chăng đèn xuống, rồi chính ngài leo lên thang, hai tay đưa
cao trước mặt, hai bàn tay nắm lại, hai cườm tay đặt lên nhau, làm dấu hiệu
còng tay số 8, và nói lớn:
“Tự do thế này à!”
Vụ giằng co lộn xộn kéo dài
suốt buổi sáng, công cuộc trang trí không thành. Cha Căn, cha Vinh cùng một số
giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét xử. Tòa án Hà Nội tuyên án:
Cha Trịnh Văn Căn, Chính xứ Nhà Thờ Lớn, người chịu trách nhiệm tổ chức lễ Noel
năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo.
Cha Chính Nguyễn Văn Vinh
chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ tập hợp quần chúng trái phép,
phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân”
(!).
Sau phiên tòa, cha Vinh bị
đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau bị chuyển đi nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên
Bái, cuối cùng là trại “Cổng Trời”, nơi dành riêng cho các tù nhân tử tội.
Khi cha Vinh mới đến trại Yên
Bái, ngài còn được ở chung với các tù nhân khác, nhiều giáo dân, chủng sinh, tu
sĩ đến xin cha giải tội, vì thế ngài bị kỷ luật, phải biệt giam, bị cùm chân
trong xà lim tối. Mấy tháng sau được ra, ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ
hỏi:
“Tại sao bị cùm, bị kỷ luật,
được ra, anh tiếp tục phạm quy?”
Ngài đáp:
“Cấm là việc của các ông,
giải tội là việc của tôi, còn sống ngày nào, tôi phải làm bổn phận mình!”
Ở tù đói rét là đương nhiên,
lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi bữa một bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải già
nấu muối, khi chia cơm phải cân đong từng chút một... Một lần cha Vinh nhận
được gói bưu kiện do cha Cương, quản lý Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có
ít thức ăn, lương khô và vài đồ dùng cá nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong
nhóm, cả Công giáo lẫn lương dân, ăn chung, dùng chung. Anh em tù hình sự thân
thương gọi ngài là “Bố.”
Ngay trong nhà tù, cha Vinh
vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có lần một tổ trưởng đánh đập tù nhân, ngài
lên tiếng bênh vực, liền bị người tổ trưởng này xông đến giang tay đánh, ngài
đưa tay gạt, anh ta ngã khụy. Từ đó trong trại có tiếng đồn cha Vinh giỏi võ,
mọi người phải nể vì.
Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội
lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ muốn anh được tha về, nhưng
với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên
Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi”.
Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của
tôi”.
Vì không khuất phục được
ngài, nên bản án từ 18 tháng tù giam, không qua một thủ tục pháp lý án lệnh
nào, đã biến thành 12 năm tù kiên giam, xà lim, biệt giam và án tử.
Năm 1971, khi ngài từ trần
không ai được biết, một năm sau, chính quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và cha
Cương quản lý Nhà Chung: “Ông Vinh đã chết. Không được làm lễ áo đỏ cho ông
Vinh!”
Suốt đời mình, trong mọi tình
huống cha Chính Vinh làm tròn trách vụ của mình. Ngài đã mạnh mẽ rao giảng Tin
Mừng và làm chứng cho đức tin, khi thuận tiện cũng như khó khăn. Vượt mọi thử
thách gian khó, không chịu khuất phục trước cường quyền, luôn trung kiên với
Thiên Chúa và Giáo Hội.
Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn
Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh mục Công Giáo Việt Nam can
trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.
TGP Hà Nội
Nguồn: Vietcatholic.net và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (http://hdgmvietnam.org)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét