Ngày 13 tháng Bảy năm 2020, Ngoại
trưởng Hoa Kỳ Michael R. Pompeo chính thức đưa ra bản Tuyên cáo lập trường của chính phủ liên
bang Hoa Kỳ về các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở biển Đông (tên tiếng Anh
là South China Sea). Đây là một tài liệu quan trọng để tiếp tục đánh giá, tranh
thủ sự ủng hộ của quốc tế dành cho các quốc gia nhỏ tại biển Đông. Do có nhiều
tranh luận và ý kiến trái chiều liên quan đến văn bản này, dưới đây là bốn câu
hỏi giúp bạn hiểu cơ bản về bản Tuyên cáo.
Lập trường của Hoa
Kỳ là gì?
Lập trường được tuyên bố khá ngắn,
người viết tạm chia ra làm ba vấn đề chính.
Trước hết, họ lên án thái độ đe dọa
và khả năng sử dụng vũ lực phi pháp của Trung Quốc tại biển Đông. Bản Tuyên cáo
có nhắc lại lời bình luận của Ngoại trưởng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là ông
Yang Jiechi (Dương Khiết Trì): “Trung Quốc là đại quốc, các quốc gia còn lại
trong Đông Nam Á là tiểu quốc. Đó là sự thật.”
Bản Tuyên cáo dẫn chứng những hành vi
vũ lực đơn phương của Trung Quốc như dọa nạt các nước láng giềng khiến họ không
thể khai thác thủy hải sản và các tài nguyên xa bờ, xem thường chủ quyền và
quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển khác trong khu vực. Từ đó, Hoa Kỳ
khẳng định thói hung hăng của Trung Quốc là không phù hợp với pháp luật quốc tế
thế kỷ 21.
Điểm thứ hai, Hoa Kỳ khẳng định lập
trường của mình về “Đường chín đoạn”, cho rằng nó không có bất kỳ căn cứ nào từ
pháp luật quốc tế.
Thứ ba, chính phủ Hoa Kỳ bác bỏ hoàn
toàn một số yêu sách hàng hải của Trung Quốc liên quan đến:
·
Vùng biển tại bãi cạn Scarborough và các vùng của quần đảo
Trường Sa mà Trung Quốc có tranh chấp với Philippines; vốn đã được phán quyết
của Tòa Trọng tài Luật Biển phủ nhận hồi năm 2016.
·
Vùng biển tại Vanguard Bank (Bãi Tư Chính, ngoài khơi Việt
Nam), Luconia Shoals (cụm bãi cạn Luconia, ngoài khơi Malaysia),
vùng đặc quyền kinh tế của Brunei, và tại đảo Natuna Besar (ngoài khơi
Indonesia).
·
Vùng biển xung quanh James Shoal (Bãi ngầm James, ngoài khơi
Malaysia). Khu vực này cách Malaysia 50 hải lý nhưng cách Trung Quốc đến
1.000 hải lý.
Từ đó, Washington đi đến kết luận mọi
hành vi gia tăng căng thẳng của Trung Quốc tại những vùng này đều là vô pháp.
Phía Hoa Kỳ khẳng định họ sẽ hết mình ủng hộ đồng minh của mình và các quốc gia
Đông Nam Á có liên quan, theo đúng pháp luật quốc tế.
Vì sao bản Tuyên
cáo lập trường này đáng chú ý?
Kể từ năm 2009, khi chính phủ Trung
Quốc chính thức tuyên bố chủ quyền của mình tại biển Đông với yêu sách “đường
chín đoạn”, Hoa Kỳ chưa từng đưa ra bất kỳ tuyên bố pháp lý nào phủ nhận hoàn
toàn các yêu sách của Trung Quốc tại biển Đông.
Trong căng thẳng đỉnh điểm có khả
năng leo thang quân sự tại bãi cạn Scarborough hồi năm 2016, ông Obama
chỉ gặp riêng Tập Cận Bình để lên án hành vi
và gây sức ép buộc quân đội Trung Quốc phải tạm rút khỏi bãi cạn.
Trước đó, ví dụ như ngay sau khi yêu
sách “đường chín đoạn” ra đời, chính phủ Hoa Kỳ chỉ mới nhấn mạnh rằng họ ủng hộ tự do hàng hải,
sự ổn định của biển Đông và các biện pháp giải quyết tranh chấp hòa bình.
Sau hơn 10 năm theo dõi, đây là lần
đầu tiên một chính quyền Hoa Kỳ phủ nhận các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc
một cách thẳng thắn, rõ ràng và chính thức như lần này. Tuy nhiên, liệu tuyên
bố này giá trị thực tiễn nào không thì cần thời gian kiểm chứng.
Hoa Kỳ có công nhận
chủ quyền của Trung Quốc ở Trường Sa?
Có nhiều thông tin bất ngờ cho rằng Hoa
Kỳ, thông qua bản Tuyên cáo lập trường này, công nhận chủ quyền của Trung Quốc
ở Trường Sa.
Tuy nhiên, chúng tôi khẳng định đây
chỉ là thông tin giả, và hoàn toàn không thể tìm thấy điều này trong Tuyên cáo.
Tuyên cáo nói như sau:
“As Beijing has failed to put forth a
lawful, coherent maritime claim in the South China Sea, the United States
rejects any PRC claim to waters beyond a 12-nautical mile territorial sea
derived from islands it claims in the Spratly Islands (without
prejudice to other states’ sovereignty claims over such islands).”
Xin hết sức lưu ý đoạn trong ngoặc.
Toàn văn đoạn tuyên cáo trên có thể
được dịch như sau: Bởi vì Bắc Kinh không thể đưa ra bất kỳ tuyên bố hàng hải
nào thuyết phục và hợp pháp tại vùng biển Đông, Hoa Kỳ phủ nhận bất kỳ tuyên bố
chủ quyền nào của Trung Quốc nằm ngoài phạm vi 12 hải lý của các đảo mà Trung
Quốc cho rằng mình sở hữu tại Trường Sa (nhưng không gây ảnh hưởng đến
yêu sách chủ quyền chồng lấn của các quốc gia khác).
Như vậy, Hoa Kỳ tuân theo nguyên tắc
của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 rằng
các đảo tự nhiên sẽ có thể tạo ra vùng lãnh hải 12 hải lý, cho rằng Trung Quốc
có thể sẽ có những quyền hợp pháp tại đây. Tuy nhiên, tuyên bố này cũng đi kèm
ngay với phần mở ngoặc diễn giải miễn là nó không gây ảnh hưởng đến tuyên bố
chủ quyền của các quốc gia khác.
Tinh thần nói chung của bản Tuyên cáo
lập trường vẫn là phủ nhận hoàn toàn tính pháp lý của “đường chín đoạn”, với
một số nhấn mạnh liên quan đến Bãi Tư chính của Việt Nam.
Hoa Kỳ lấy quyền gì
phản đối tuyên bố chủ quyền của một quốc gia tại một vùng biển cách họ hàng
ngàn dặm?
Những người phản đối Hoa Kỳ can thiệp
vào tranh chấp giữa Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á liên quan hiện đang
dùng lập luận cho rằng vì Hoa Kỳ không có “mảnh đất cắm dùi” ở khu vực biển
Đông, việc đưa ra các tuyên bố lập trường, chính sách liên quan đến vùng này
đồng nghĩa Hoa Kỳ đã can dự vào công việc nội bộ của các bên.
Tuy nhiên, đây là lập luận hoàn toàn
đi ngược lại các nguyên tắc được đặt ra trong Công ước Luật Biển 1982 cũng như
các tập quán hàng hải lâu đời trên thế giới.
Trong phần mở đầu và các nguyên tắc
chỉ đạo của Công ước Luật Biển có đoạn:
·
“tính đến các lợi ích và nhu cầu của toàn thể loài người và đặc
biệt là các lợi ích và nhu cầu riêng […] dù có biển hay không có biển;”
và
·
“khu vực đáy biển và đại dương, cũng như lòng đất dưới đáy các
khu vực nằm ngoài thẩm quyền quốc gia đều là di sản chung của loài người và
việc thăm dò, khai thác khu vực này sẽ được tiến hành vì lợi ích của toàn thể
loài người, không phụ thuộc vào vị trí địa lý của các quốc gia…”
Với tinh thần của Công ước, có thể
thấy dù quốc gia ven biển có những đặc quyền không thể chối cãi, bất kỳ quốc
gia nào trên thế giới đều có quyền khai thác, sử dụng các vùng biển trên thế
giới một cách hợp pháp và hợp lý.
Các quyền này nằm trong nhóm quyền tự
do biển cả (freedom of the seas – quy định tại Điều 87) bao gồm các quyền như
tự do hàng hải, tự do hàng không, quyền tự do đặt dây cáp hay ống dẫn ngầm cũng
như quyền thực hiện các nghiên cứu khoa học…
Ngoài ra, cơ chế vùng biển bao gồm
lãnh hải (territorial sea), vùng tiếp giáp lãnh hải (contiguous zone), vùng đặc
quyền kinh tế (exclusive economic zone) hay vùng thềm lục địa (continental
shelf) đều chỉ cho phép quốc gia ven biển thực hiện quyền chủ quyền của
mình một cách giới hạn theo đúng quy định của pháp luật quốc tế.
Ví dụ, quốc gia ven biển sẽ không thể
tùy tiện bắt giữ người trên một tàu nước ngoài đi ngang qua vùng lãnh hải để
thực hiện các thủ tục tố tụng hình sự theo pháp luật của quốc gia mình (Điều
27); hay quốc gia ven biển cũng không thể tùy tiện bắt giữ, thay đổi hải trình
của tàu nước ngoài để thực hiện các quyền tài phán dân sự của mình đối với một
người trên tàu hay chính con tàu đó…
Vì những quyền lợi quan trọng này,
bất kỳ quốc gia nào có lợi ích hàng hải tại biển Đông đều có quyền phản đối
những yêu sách mà Trung Quốc đặt ra đối với đường chín đoạn.
Trung Quốc, bằng việc cho rằng mình
có chủ quyền tuyệt đối không thể tranh chấp
tại biển Đông dựa trên các “chứng cứ lịch sử” mà không cần phân biệt vùng biển
hay cân nhắc giới hạn của vùng biển theo Công ước Luật Biển, đang loại trừ các
quyền lợi chung của cộng đồng quốc tế tại biển Đông cũng như các giới hạn chủ
quyền đặt ra đối với các quốc gia ven biển. Nói thẳng ra, họ đang tự mình viết
lại pháp luật thế giới.
Hoa Kỳ, với tư cách là một trong
những quốc gia vận chuyển đường biển lớn nhất trên thế giới, một cường quốc hải
quân, và là người đi đầu trong các chiến dịch chống cướp biển, bảo vệ tự do
hàng hải… rõ ràng có quyền và lợi ích hợp pháp để lên tiếng phản đối các yêu
sách mà Bắc Kinh đưa ra.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét