Đôi lời: hình như lâu rồi mới có một bài viết trên báo quốc doanh có lời lẽ rành rẽ, mạnh mẽ như vậy về cuộc chiến Trung-Việt 1979, trong đó nhắc tới kẻ thủ ác Đặng Tiểu Bình, đến “giới cầm quyền Trung Quốc“, với hành động “phi nghĩa“, “xâm lược“, “sát hại“, “cướp bóc“, …. Tựa bài được BS sửa lại, nhưng vẫn bám sát nội dung bài viết. BS
·
3122. Tại
sao Việt Nam không dạy lịch sử cuộc chiến tranh Trung-Việt?
·
3120.
Nguyên nhân của chiến tranh biên giới Việt-Trung
Chiến tranh biên giới: Nhìn lại để
trân quý nền hòa bình hiện tại
17/02/2022 06:00 GMT+7
TS Phạm Minh Thế (Khoa Lịch sử, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc
gia Hà Nội)
Bài viết cung cấp cho độc giả cách nhìn nhận về nguyên nhân của
cuộc chiến tranh từ tư liệu hồi ức của các cựu quân nhân Việt Nam.
Tuyên bố của Trung Quốc
Ông Đặng Tiểu Bình – lãnh đạo Trung Quốc đã có những phát biểu,
tuyên bố trước về một cuộc chiến tranh đối với Việt Nam.
Trong chuyến đi thăm Mỹ vào cuối tháng 1, đầu tháng 2/1979, ông
Đặng Tiểu Bình trao đổi với Tổng thống Jimmy Carter về một số chính sách của
Trung Quốc, trong đó nhấn mạnh: “Trung Quốc vẫn phải dạy cho Việt Nam một bài
học. Liên Xô có thể sử dụng Cuba, Việt Nam, và sau đó Afghanistan phát triển
thành một nước ủy nhiệm. Trung Quốc đang tiếp cận vấn đề này từ một thế mạnh.
Hành động sẽ rất hạn chế”.
Khi trao đổi với báo chí Mỹ, ông Đặng Tiểu Bình nhấn mạnh: “Vai
trò của người Việt Nam sẽ còn tồi tệ hơn người Cuba”. Và rằng: “Chúng tôi gọi
người Việt Nam là những người Cuba của Phương Đông. Nếu bạn không dạy họ những
bài học cần thiết, thì điều đó sẽ chẳng xảy ra”.
Rời nước Mỹ, ông Đặng Tiểu Bình qua Nhật nhằm lôi kéo nước này
vào “mặt trận” cô lập Việt Nam. Trong cuộc trao đổi với Thủ tướng Masayoshi
Ohira, ông nhắc lại quan điểm của Trung Quốc: Việt Nam phải bị “trừng
phạt” vì Campuchia và cam kết: “Duy trì phát triển lâu dài của hòa bình và ổn
định quốc tế… [nhân dân Trung Quốc] sẽ quyết định hoàn thành các nhiệm vụ của chúng
ta, và sẽ không vô ngại những điều cần thiết”.
Đó chính là những lời rào trước, đón sau hay nói cách khác là
tuyên bố về việc sẽ tiến hành cuộc chiến tranh phi
nghĩa mà lãnh đạo Trung Quốc quyết ý thực hiện đối với Việt Nam.
Ngày 17/2/1979, giới cầm quyền Trung Quốc huy động 60 vạn quân chủ lực tấn công quân sự đối với Việt Nam trên toàn tuyến phía Bắc từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Móng Cái (Quảng Ninh) với chiều dài hơn 1.400km.
Ngay từ những ngày đầu của cuộc chiến, Trung Quốc đã đánh thọc
sâu vào lãnh thổ Việt Nam (có những nơi quân đội Trung Quốc vào sâu từ 15 đến
20 km) ở nhiều tỉnh như Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai, tiến hành các cuộc sát hại
nhân dân, đốt phá và cướp bóc các thành phố, thị xã, làng mạc. Với hành
động đó, Trung Quốc tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, một
quốc gia độc lập, có chủ quyền và được quốc tế công nhận.
Đáp lại hành động của Trung Quốc, Đảng lãnh đạo quân dân Việt
Nam thực hiện quyền tự vệ chính đáng, tiến hành cuộc chiến tranh chống
quân Trung Quốc xâm lược ở vùng biên giới phía Bắc.
Trước tinh thần chiến đấu anh dũng, quả cảm của quân dân Việt
Nam, ngày 5/3/1979, giới cầm quyền Trung Quốc tuyên bố bắt đầu rút quân.
Thể hiện thiện chí hòa bình, khi Trung Quốc rút quân, Đảng và Nhà nước Việt Nam
tuyên bố không truy kích.
Từ ngày 6/3/1979, phía Trung Quốc vừa rút quân, vừa đánh phá,
gây thiệt hại về người và của đối với đồng bào các dân tộc ở một số vùng giáp
biên giới.
Đến ngày 18/3, Trung Quốc mới rút hầu hết quân khỏi Việt Nam.
Tuy nhiên, một bộ phận quân chủ lực Trung Quốc “vẫn chiếm đóng trái phép một số
nơi thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên, có nơi sâu trong nội địa Việt
Nam từ 200-600m; thường xuyên gây xung đột vũ trang, làm cho tình hình trên
tuyến biên giới tiếp tục căng thẳng kéo dài”.
Từ năm 1980, quân Trung Quốc tiếp tục sử dụng pháo, súng cối bắn
phá trên toàn tuyến biên giới; đồng thời, tổ chức nhiều đợt tấn công lấn chiếm
nhiều điểm trên khu vực biên giới thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Trung Quốc lựa chọn Hà Tuyên và lấy Vị Xuyên làm điểm tấn công
lấn chiếm sau ngày 18/3/1979. “Từ một địa bàn được xác định là hướng thứ yếu,
Vị Xuyên nhanh chóng trở thành một điểm nóng, một mặt trận điểm trong chính
sách gặm nhấm, gây xung đột biên giới của nhà cầm quyền Bắc Kinh”.
Cuối năm 1988, giới cầm quyền Trung Quốc cho quân dừng hoạt động
pháo kích sang đất Việt Nam. Đầu năm 1989, quân Trung Quốc rút khỏi các điểm
lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở Bắc Vị Xuyên và dừng hoạt động lấn chiếm trên
toàn bộ tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam.
Đến tháng 10/1989, Trung Quốc rút toàn bộ quân khỏi lãnh thổ
Việt Nam. Đến đây, cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung mới thật sự chấm
dứt.
Ý đồ gây chiến của Trung Quốc
Bên cạnh việc khai thác các tư liệu hồi ký và phỏng vấn về hồi
ức của các cán bộ, cựu quân nhân Việt Nam đã được công bố trên các sách báo,
chúng tôi còn trực tiếp phỏng vấn 3 người từng tham gia chiến đấu chống quân
Trung Quốc xâm lược trên tuyến biên giới phía Bắc trong những năm 1979-1989.
Một người là đại tá, nguyên Trung đoàn trưởng, tác chiến ở
mặt trận Lạng Sơn năm 1979; một đại tá, nguyên chiến sĩ đồn công an vũ
trang, tác chiến ở mặt trận Cao Bằng, từ năm 1979-1981; và một thượng sĩ,
cựu binh trung đoàn, chiến đấu ở mặt trận Cao Bằng, từ năm 1986-1988.
Các cựu binh Việt Nam cho rằng có 5 nguyên nhân cơ bản dẫn đến
sự bùng nổ của cuộc chiến:
Thứ nhất, xuất
phát từ tham vọng bá quyền, bành trướng, xâm lược Việt Nam của giới cầm
quyền Trung Quốc. Đại tá N.C.N. – nguyên là Trung đoàn trưởng Trung đoàn
540, Sư đoàn 338, Quân đoàn 14, tác chiến ở mặt trận Lạng Sơn năm
1979, nói: “Họ muốn thôn tính mình. Họ muốn mua chuộc mình không nổi, nên
họ xâm lược mình. Họ bắt buộc mình theo họ”.
Đại tá N.C.S. nguyên là chiến sĩ đồn công an vũ trang Bí Hà (nay
là đồn biên phòng Bí Hà), huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng, tham gia chiến đấu bảo
vệ biên giới phía Bắc ở mặt trận Cao Bằng cho rằng: “Trung Quốc có âm mưu
đánh chiếm vào biên giới của ta. Xâm phạm chủ quyền biên giới. Mục đích của họ
là đánh chiếm thị xã Cao Bằng. Theo Trung Quốc là ‘chiến tranh tự vệ’, nhưng họ
đánh sâu vào lãnh thổ của ta như vậy thì rõ ràng là họ đã tiến hành một cuộc
‘chiến tranh xâm lược’”.
Nguyên nhân thứ hai của cuộc
chiến được các cựu binh Việt Nam lý giải là Trung Quốc muốn đỡ đòn cho tập đoàn
Khmer Đỏ trên chiến trường Campuchia nên đã tấn công Việt Nam ở vùng biên giới
phía Bắc.
Ông N.T.Đ. nguyên là chiến sĩ Trung đoàn 427, Sư đoàn 392, Quân
khu 1, tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc ở mặt trận Cao Bằng
nói: “Khi tôi tham gia trên chiến trường, mình vẫn nghe đài bên kia phát, là lũ
‘tiểu bá’ vô ơn, đánh các đồng chí Campuchia… Phải dạy cho Việt Nam một bài
học… Từ ‘tiểu bá’ chính là ám chỉ Việt Nam đánh Campuchia. Về chính thức, Trung
Quốc không nói đỡ đòn cho Campuchia. Còn thực tế là như vậy (Việt Nam buộc phải
rút một bộ phận quân đội từ Campuchia về hỗ trợ)”.
Thứ ba, theo các
cựu binh Việt Nam, Trung Quốc phát động chiến tranh là để tranh thủ sự ủng
hộ của các nước đang chống phá Việt Nam lúc đó, qua đó tập trung nguồn lực phục
vụ cho việc thực hiện kế hoạch “4 hiện đại hóa” ở trong nước.
Thứ tư, việc gây
ra cuộc chiến còn là hành động trả đũa của Trung Quốc đối với các động
thái ngoại giao của Việt Nam với Liên Xô. Đại tá N.C.N. cũng cho rằng: “Họ đánh
mình để làm mình hoang mang, để mình không quan hệ với Liên Xô nữa. Trung Quốc ý
đồ thế”.
Và đây cũng là cách mà ông N.T.Đ. lý giải về nguyên nhân của
cuộc chiến tranh. Ông nói: “Theo cá nhân tôi được biết, thế giới lúc
bấy giờ, hệ thống chủ nghĩa xã hội có sự rạn nứt. Vị trí của Việt Nam rất quan
trọng, nắm được Việt Nam sẽ ảnh hưởng lớn đến Đông Nam Á. Liên Xô có quân đội
đóng tại cảng Cam Ranh của Việt Nam.
Do đó, Việt Nam trở thành một mắt xích cực kỳ quan trọng. Trung
Quốc chưa thuyết phục Việt Nam bằng nhiều thứ và chưa thuyết phục được ai bằng
kinh tế. Trung Quốc chỉ còn cách sử dụng quân sự.
Đặng Tiểu Bình nói “dạy cho Việt Nam một bài học” tức là đánh để
Việt Nam biết ai là quan trọng. Đặng Tiểu Bình nói “Chổi ngắn không quét được
nhện xa” là như thế.
Nguyên nhân thứ năm được các
cựu binh Việt Nam nhắc đến là Trung Quốc muốn phá hoại tiềm lực của Việt Nam.
Có thể thấy rằng mục tiêu kìm hãm sự phát triển, muốn Việt Nam
bất ổn cả về kinh tế, chính trị, quân sự và đối ngoại, hòng tách và cô lập Việt
Nam ra khỏi các liên minh đối ngoại, hợp tác để phát triển đất nước sau cuộc kháng
chiến chống Mỹ cũng là một trong nhiều lý do quan trọng để Trung Quốc tiến hành
cuộc chiến tranh.
10 năm ròng rã đầy hy sinh
Sẽ còn có nhiều những lý giải khác nhau nữa về nguyên nhân của
cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung (1979-1989), song qua khảo cứu tư liệu
hồi ký và phỏng vấn một số cán bộ, quân nhân Việt Nam, có thể thấy hầu hết
thông tin đều cho rằng người gây ra cuộc chiến này là Trung Quốc và đây là một
cuộc chiến tranh phi nghĩa của Trung Quốc đối với Việt Nam.
Từ 5 nguyên nhân được các cựu binh Việt Nam đưa ra thì có
thể thấy, đó đều là những nguyên nhân, lý do vô lý xuất phát từ lợi ích của
Trung Quốc, bất chấp đạo lý và luật pháp quốc tế.
Đương nhiên, tư liệu hồi ký và phỏng vấn của quân nhân Việt Nam
mà chúng tôi đã đề cập ở trên là chưa nhiều; những thông tin trong hồi ức về
nguyên nhân bùng nổ cuộc chiến tranh còn ít, chưa phản ánh đầy đủ về nguyên
nhân bùng nổ cuộc chiến tranh biên giới 1979-1989. Thêm vào đó, tư liệu
hồi ký và phỏng vấn là những ghi chép lại bằng trí nhớ về những sự việc đã xảy
ra đối với bản thân trong quá khứ, do đó mang đậm tính chủ quan và phụ thuộc độ
lãng quên thông tin của tác giả cung cấp.
Vì vậy, để nghiên cứu khách quan, toàn diện về cuộc chiến tranh
biên giới Việt – Trung, cần tiếp tục nghiên cứu và phải nghiên cứu nghiêm
túc, đa chiều với nhiều phía, nhiều phương pháp tiếp cận, xóa bỏ những “e ngại”
về chính trị – đối ngoại.
Nghiên cứu về cuộc chiến tranh này không phải để khơi
lại, gây chia rẽ thù hằn giữa hai dân tộc Việt Nam và Trung Quốc, mà nhằm tôn
vinh những quân nhân Việt Nam đã tham gia chiến đấu và trân quý nền hòa bình
hiện tại.
Tại nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên năm 2019, nguyên Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang đã viết trong Sổ tưởng niệm: “Ngày 17/2/2019. Đời đời nhớ ơn
các anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh vì đất nước. Đảng, Tổ quốc, nhân dân đời đời
ghi nhớ công lao của các anh hùng, liệt sĩ đã chiến đấu anh dũng, bảo vệ biên
cương Tổ quốc trong giai đoạn tháng 2/1979 ở biên giới phía Bắc và kéo dài cả
10 năm ròng rã; đầy hy sinh nhưng cũng đầy khí phách Việt Nam! Kính cẩn nghiêng
mình tưởng nhớ các đồng chí!”.
–
Tài liệu
trích dẫn |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét