Vi Yên
Vi Yên
đã nêu cô đọng, chính xác "bốn ngộ nhận thường thấy về dân chủ".
BVN muốn bổ sung một ngộ nhận nữa, bằng ý kiến của ông Trần Xuân
Bách: "Dân chủ không phải là ban ơn, không phải là mở rộng dân
chủ hay dân chủ mở rộng. Đó là quyền của dân, với tư cách là người
làm nên lịch sử, không phải là ban phát, do tấm lòng của người lãnh đạo này
hay người lãnh đạo kia", và tóm tắt ý kiến này như sau: Dân chủ, phải
đấu tranh đòi thì mới có.
Bauxite Việt Nam
|
Nhắc tới "dân
chủ", hầu hết mọi người liên tưởng về những xứ sở mà ở đó con người sống
trong cảnh giàu có, các quyền của họ được bảo vệ, xã hội thì thịnh vượng, việc
quản trị quốc gia lại chẳng có gì để phàn nàn. Nhiều cái tên được xướng lên như
minh chứng cho giấc mơ ấy: một nước Mỹ tự do, một Tây Âu phồn thịnh, hay một
nước Nhật văn minh.
Dĩ nhiên người ta không thể tìm ra nổi một quốc
gia độc tài nào đáp ứng được những kì vọng ấy. Singapore có thể đem tới cho
người dân một cuộc sống sung túc nhưng lại kém tự do. Trung Quốc hùng mạnh
nhưng đầy rẫy các vụ bắt bớ, đàn áp và thông tin bị kiểm duyệt đến mức đáng sợ.
Bắc Triều Tiên dẫu có là siêu cường hạt nhân song dân chúng phải sống trong
cảnh cơ hàn. Những ví dụ ấy càng củng cố thêm niềm tin rằng không có dân chủ
thì những giấc mơ kia cũng không thành hiện thực.
Nhưng mặt khác, chúng ta cũng có thể kể ra một
loạt vấn đề tồi tệ của các quốc gia dân chủ. Ấn Độ với nền kinh tế trì trệ và
nạn tham nhũng nằm ở mức báo động. Philippines nghèo nàn và quản trị kém. Thậm
chí cả nước Mỹ cũng có đó những vụ khủng bố triền miên. Rốt cuộc, tại sao những
quốc gia được gọi là dân chủ ấy lại chẳng tuyệt vời như ta tưởng?
May thay, vấn đề không nằm ở dân chủ mà do chúng
ta đã kì vọng quá mức về nó.
Dân chủ không phải là tấm
thảm thần
Rõ ràng, để đạt được những kết quả đáng mơ ước, các
nền dân chủ như Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản đã phải đi qua một con đường dài với những
nỗ lực cải cách liên tục. Dân chủ thôi thì chưa đủ.
Dân chủ phải được hiểu như một thủ tục. Trong
thủ tục này, người dân có thể bầu chọn, kiểm soát và thay thế người lãnh đạo.
Thông qua đó, người dân sẽ tự mình tạo nên một định chế chính quyền mà họ mong
muốn.
Như vậy, dân chủ đơn giản là một phương tiện cho
phép chúng ta đạt được thành tựu chứ nó không tự động mang đến thành tựu. Chính
những nỗ lực của người dân mới có thể giúp lèo lái "tấm thảm không tự
bay" ấy đến đích. Bằng không, rất có thể họ sẽ đáp xuống những miền hỗn
loạn như Mùa Xuân Ả Rập.
Do đó, ta không nên dành quá nhiều kì vọng cho
dân chủ, đặc biệt đối với các quốc gia vừa mới dân chủ hóa. Đòi hỏi nó ngay lập
tức phải mang đến tự do, thịnh vượng, nhân quyền là điều không tưởng. Rồi ta sẽ
sớm thất vọng, chán nản khi dân chủ không thể đem lại ngay những chuyện tốt
lành.
Dân chủ không đồng nghĩa
với tăng trưởng kinh tế
Thực tế cho thấy thành tích kinh tế thần kì thường
xảy ra vào giai đoạn độc tài, như Đài Loan thời Chiang Ching-Kuo, Hàn Quốc thời
Park Chung Hee hay Singapore thời Lee Kuan Yew.
Khi một quốc gia vừa chuyển đổi sang dân chủ,
tăng trưởng kinh tế có thể bị trì hoãn trong một giai đoạn tạm thời. Đứng trước
những biến chuyển của thể chế, các thành phần kinh tế chưa kịp thích nghi và vì
vậy họ cần có thời gian để điều chỉnh. Thậm chí, các nền dân chủ mới chuyển đổi
có khi gặp phải cảnh tăng trưởng ì ạch. Những nhóm người giàu có, vốn được
hưởng lợi từ giai đoạn cai trị độc tài trước đó, rất có thể sẽ xù lông lên
trước những mối đe dọa mà dân chủ đem tới. Họ sẽ tẩu tán tài sản, cắt giảm đầu
tư hoặc phá hoại ngầm. Tiêu biểu, tăng trưởng kinh tế của các nước như Hàn
Quốc, Đài Loan đã sụt giảm trong và sau giai đoạn chuyển đổi dân chủ hồi cuối
những năm 1980. Nhưng tất cả những chuyện ấy chỉ là tạm thời và bất cứ ai cũng
cần phải chuẩn bị sẵn tinh thần cho cái giai đoạn khó khăn đã được tiên liệu.
Về lâu dài, mức phát triển kinh tế dưới chế độ
dân chủ sẽ được cải thiện theo thời gian. Xét tổng thể thì thể chế dân chủ thúc
đẩy tăng trưởng cao hơn hẳn so với thể chế độc tài, tuy nhiên không nên quá kì
vọng rằng điều này sẽ xảy ra ngay lập tức. Bạn có thể đọc thêm bài "Dân chủ hay độc
tài, chế độ nào thành công hơn về kinh tế" để hiểu rõ vấn đề
này hơn.
Dân chủ không có nghĩa là
quản trị tốt
Đặc trưng của dân chủ là sẽ có nhiều lực lượng
tham gia quá trình ra quyết định. Điều này dẫn tới nhiều hệ quả dễ làm buồn
lòng những ai nóng vội.
Thứ nhất, để ra được một chính sách, cần phải
chấp nhận mức độ chậm trễ nhất định để các bên có thời gian cân nhắc, thỏa hiệp
và tìm kiếm đồng thuận.
Thứ hai, dân chủ khiến cho các chính sách ở quy
mô lớn khó được thực thi. Các đảng phái phải phục tùng ý chí của nhiều nhóm cử
tri đa dạng mà chính sách càng lớn thì càng dễ bị phản đối bởi nhóm này hay
nhóm khác. Khi quyền lực không tập trung vào tay một cá nhân hay một đảng phái
thì không thể sử dụng theo cái cách quyết liệt nhát gừng.
Và thứ ba, thể nào cũng có lúc xảy ra bế tắc
chính trị khi các bên không thể thống nhất với nhau về chính sách. Chính phủ
kém cỏi sẽ nảy sinh từ đây, nếu họ không đủ sức đối phó với những hệ quả hiển
nhiên đi kèm theo dân chủ.
Chế độ độc tài có điểm lợi là nó không chịu áp
lực của công luận khi làm chính sách, do đó nó có triển vọng đạt được thành
công cao hơn so với chế độ dân chủ. Tâm lí so sánh dễ nảy sinh khi chính quyền
dân chủ không đạt được hiệu quả như chế độ độc tài cầm quyền trước đó hoặc như
các quốc gia độc tài lân cận (chẳng hạn người ta vẫn quen so Ấn Độ với Trung
Quốc). Điều này có thể khiến người dân mất niềm tin vào dân chủ rồi quay lại
ủng hộ lối cai trị độc tài.
Tuy nhiên, lựa chọn như vậy lại quá dễ dàng.
Những ai yêu mến dân chủ hẳn sẽ hiểu rằng bản chất của dân chủ đến từ sự đồng
thuận. Chính vì vậy, để chuẩn bị cho dân chủ hóa, cần phải gạt bỏ cái niềm hi
vọng rằng chế độ dân chủ quản trị hiệu quả hơn chế độ độc tài.
Dân chủ không hẳn mang lại
ổn định
Không phải lúc nào dân chủ cũng mang lại ổn định
và trật tự mà có khi lại còn kém hơn so với cả chế độ độc tài trước đó.
Trong các chế độ độc tài, những tiếng nói khác
biệt thường bị đàn áp, do đó nó tạo ra ổn định trong một chừng mực nào đó. Còn
trong nền dân chủ, các quyền tự do biểu đạt, hội họp, biểu tình được bảo vệ. Đi
cùng với chúng có thể là các khuynh hướng tiêu cực và nguy cơ bất ổn như xung
đột tôn giáo và sắc tộc - điều ít khi xảy ra trong các chế độ độc tài. Có thể
kể tới trường hợp của các nhóm cực đoan như Ku Klux Klan ở Mỹ hay các bất ổn và
phong trào li khai của người Kurd ở Iraq thời hậu Saddam Hussein.
Bên cạnh đó, đối với các nước mới chuyển đổi qua
nền dân chủ, bất đồng sẽ liên tục xảy ra giữa các nhóm khác nhau, như lực lượng
của chế độ độc tài cũ và lực lượng dân chủ mới, khi bàn về các quy tắc và thiết
chế dân chủ của quốc gia. Nếu không giải quyết ổn thỏa thì chúng có thể đẩy
quốc gia đến bất ổn, tiêu biểu như câu chuyện về người tị nạn Rohingya ở
Myanmar.
Một lần nữa, thời gian là yếu tố tiên quyết. Cần
có thời gian để các lực lượng khác nhau làm quen với các thủ tục dân chủ, học
cách thỏa hiệp và đi tới đồng thuận thì dân chủ mới có thể dần dà bước vào ổn
định.
Chúng ta có thể kì vọng gì
ở dân chủ?
Vậy rốt cuộc dân chủ đem lại cho ta điều gì?
Giữa nhiều ưu điểm, có thể kể ra ba mối lợi
chính mà thiết chế chính trị dân chủ mang lại: Thứ nhất, nó cho phép cạnh tranh
hòa bình trong việc hình thành chính phủ và ảnh hưởng đến chính sách công; Thứ
hai, nó có thể giải quyết các xung đột kinh tế và xã hội thông qua các thủ tục
thông thường (tranh luận, thỏa hiệp, biểu quyết và bầu cử chứ không phải là bạo
lực hay đảo chính); Và thứ ba, trong một nền dân chủ thì chính quyền đại diện
cho lợi ích rộng rãi của người dân.
Không như chế độ độc tài, chế độ dân chủ có khả
năng điều chỉnh các quy tắc và thiết chế của nó thông qua đồng thuận khi hoàn
cảnh đòi hỏi. Nó có thể không tạo ra tất cả các kết quả tốt ngay lập tức nhưng
nó để ngỏ mọi cơ hội để thay đổi. Đó là điều mà không chế độ độc tài nào làm
được.
V.Y
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét