Xuân Trường • 07:37, 06/08/20
Cách nay tròn 75 năm, vào ngày 6/8/1945, lần đầu tiên thế giới
chứng kiến sức hủy diệt của bom nguyên tử được thả xuống hai thành phố Nhật
Bản. Thứ vũ khí “tối thượng” này của quân đội Mỹ đã giúp nhanh chóng kết thúc
Thế chiến II, và bắt đầu một kỷ nguyên mới trong lịch sử thế giới: Chạy đua và
Răn đe hạt nhân.
Đã có rất nhiều ý kiến chỉ trích vụ
ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, bởi hậu quả và những di chứng
khủng khiếp mà nó đã gây ra cho các thế hệ người Nhật. Các nhà phê bình không
chỉ tranh luận hai vụ thả bom nguyên tử là vô nhân đạo và không cần thiết mà
còn khiến hình ảnh nước Mỹ trở nên tệ hại.
Năm 1986, con người lại phải hứng
chịu thêm một thảm họa nguyên tử với mức độ còn kinh hoàng hơn: Nổ nhà máy điện
hạt nhân nguyên tử Chernobyl tại Ukraine (Liên Xô cũ). Cùng chịu thảm họa
hạt nhân, nhưng ngày nay hơn 3,3 triệu người đang sinh sống tại hai thành phố
Hiroshima và Nagasaki, trong khi một khu vực rộng lớn quanh nhà máy Chernobyl
vẫn hoang vắng bóng người. Vì sao lại như vậy?
Hiroshima –
Nagasaki: Phát xít Nhật kháng cự đến cùng
Việc Mỹ thả hai quả bom nguyên tử
xuống Hiroshima và Nagasaki đã khiến chính phủ quân phiệt Nhật Bản phải đầu
hàng vô điều kiện, và Thế chiến Thứ II kết thúc. Tuy nhiên, quyết định ném bom
nguyên tử của Tổng thống Mỹ Harry Truman đã gây khá nhiều tranh cãi.
Dù vậy nhiều chuyên gia trong đó có
Charles Maier, Giáo sư Lịch sử tại Đại học Harvard cho rằng, cần phải xét đến
bối cảnh khi ấy. Thời điểm đó, có một niềm tin phổ biến tại Nhà Trắng rằng,
người Nhật sẽ chiến đấu cho tới người đàn ông cuối cùng.
Kinh nghiệm mất mát về thương vong
của Mỹ tại hai trận chiến đẫm máu Iwo Jima và Okinawa, cùng với việc Nhật tăng
cường sử dụng dàn phi cơ Kamikaze tấn công tự sát đã tạo ra những tác động tâm
lý mạnh mẽ đối với các nhà hoạch định quân sự Hoa Kỳ.
Nhiều nhà quân sự nhận định rằng,
quyết định thả bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki đã có tác dụng ngăn chặn
đội quân tài phiệt Nhật Bản quyết kháng cự đến cùng, và có thể sẽ gây thương
vong về nhân mạng lớn cho người Mỹ (ước tính 1 triệu người) và khoảng vài triệu
người Nhật. Các trận chiến đẫm máu trên đảo Iwo Jima và Okinawa đã khiến hơn
88.000 lính Mỹ và hơn 200.000 lính cùng thường dân Nhật Bản thiệt mạng.
Sau khi biết tin Nhật không sẵn sàng
đầu hàng vô điều kiện, một số các nhà khoa học và trợ lý Bộ trưởng Chiến tranh
John McCloy khi ấy đã ủng hộ phương án kích nổ vũ khí hạt nhân ở một số khu vực
ít người để buộc Nhật Bản đầu hàng.
Thảm họa Chernobyl:
Sai lầm nghiêm trọng
Đối với thảm họa Chernobyl, buồn thay khả năng này có thể phòng ngừa được nếu những người có trách nhiệm tại nhà máy không tắc trách. Nhiều chuyên gia nhận định rằng, sai sót của con người chính là nguyên nhân dẫn tới thảm họa. Thiết kế không chính xác trong hệ thống làm mát của lò phản ứng đã dẫn đến vụ nổ phá huỷ lò.
Vào rạng sáng ngày 26/4/1986, các kỹ
sư Liên Xô bắt đầu chạy thử nghiệm một tuốc bin ở lò số 4 ngày trước khi tắt
máy phát điện để bảo trì. Để thực hiện cuộc thử nghiệm, họ đã dại dột vô hiệu
hoá hệ thống làm mát lõi khẩn cấp và các thiết bị an toàn quan trọng khác.
Một chuỗi các sai lầm sau đó đã xảy
ra, dẫn đến sự tích tụ hơi nước khiến cho lò phản ứng quá nóng. Lúc 1h23 phút
sáng, hai vụ nổ phát lửa đã nhanh chóng dẫn tới sự khởi đầu của một thảm họa
hạt nhân khủng khiếp nhất trong lịch sử.
Những sai lầm nghiêm trọng của các
nhân viên điều hành nhà máy cũng là tác nhân dẫn đến tai nạn. Họ đã vi phạm các
nguyên tắc an toàn sản xuất và thực hiện một số động tác không được phép trong
quá trình thử nghiệm thiết bị điện tại lò phản ứng số 4.
Phép so sánh khởi
đầu của thảm họa
·
Thảm họa Hiroshima và Nagashaki:
Trong tuyên bố Potsdam ngày
26/7/1945, Tổng thống Mỹ Harry Truman và các lãnh đạo phe Đồng minh kêu gọi
Nhật Bản đầu hàng, đồng thời cảnh báo nước Nhật sẽ bị hủy diệt nếu không thực
hiện yêu cầu đó.
5 ngày trước vụ ném bom nguyên tử đầu
tiên, Mỹ đã thả hơn 5 triệu tờ rơi xuống Hiroshima và
Nagashaki và 33 mục tiêu tiềm năng khác thông báo sắp
có một cuộc tấn công xảy ra và cảnh báo người dân di tản.
Nội dung tờ rơi được viết bằng tiếng
Nhật như sau:“Mong mọi người hãy đọc kỹ nội dung trong tờ đơn này, nó có thể
giúp bảo toàn mạng sống của bạn cùng bạn bè thân quyến xung quanh. Vài ngày
tới, bom Mỹ sẽ phá hủy trang bị vũ khí của quân đội Nhật Bản, bởi vì họ đang
lợi dụng các vũ khí đó để tiến hành cuộc chiến vô nghĩa này. Hành động này của
Mỹ không phải là nhắm vào người dân vô tội Nhật Bản, mà là tấn công không
thương tiếc đối với những phần tử chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản, những người đã
biến người dân thành nô lệ, và Mỹ sẽ mang lại hoà bình thế giới, người dân sẽ
không phải chịu cực khổ nữa, Nhật Bản cũng sẽ có tương lai tốt đẹp hơn. Mọi
người hãy đọc nghiêm túc cảnh báo này, và sơ tán khỏi thành phố này ngay lập
tức.“
Kèm theo đó, một đài phát thanh do Mỹ
kiểm soát trên đảo Saipan đã phát đi một thông điệp tương tự cảnh báo người
Nhật mỗi 15 phút một lần. Tiếc thay, chính phủ và người dân
Nhật Bản đã không tin và phớt lờ.
·
Thảm họa Chernobyl:
41 năm sau, một thảm họa nguyên tử
khác đã xảy ra. 1h23 phút rạng sáng ngày 26/4/1986 đã trở thành ngày định mệnh
không những của người dân Liên Xô mà với nhiều nước châu Âu lân cận. Lò phản
ứng số 4 của nhà máy điện Chernobyl phát nổ, đã “gửi” một chùm vật liệu phóng
xạ cực cao vào bầu khí quyển.
Khoảng 55 tiếng sau thảm họa, những
bằng chứng đầu tiên về một vụ rò rỉ phóng xạ cỡ lớn xuất phát từ nhà máy điện
hạt nhân Forsmark của Thụy Điển. Nhà máy này nằm cách Chernobyl khoảng 1.100km đã
ghi nhận bụi phóng xạ tại khu vực của họ. Thụy Điển đã ngay lập tức cho di tản
nhân viên vì lo ngại rò rỉ xuất phát từ lò phản ứng của nhà máy.
Chính việc người Thụy Điển tìm kiếm
nguồn gốc phát tán phóng xạ và xác định rằng nhà máy điện nguyên tử của họ
không bị rò rỉ đã khiến mọi lo ngại đổ dồn về một tai nạn hạt nhân nghiêm trọng
xảy ra ở phía tây Liên Xô. Đến chiều ngày 28/4, sự việc này đã được loan báo
trên các kênh thông tin thế giới.
Dù vậy, Liên Xô vẫn bưng bít không
chịu công nhận xảy ra sự cố tại Chernobyl. Dưới sức ép dữ dội của Thụy Điển, 65
giờ sau thảm họa, chính quyền Xô Viết mới chịu ra một bản tuyên bố vắn tắt
trong 20 giây đề cập đến thảm hoạ trên bản tin thời sự: “Một tai nạn đã
xảy ra tại nhà máy điện hạt nhân Chernobyl. Một trong các lò phản ứng bị hư
hại. Các biện pháp đang được thực hiện để giải quyết hậu quả. Những
nạn nhân đang được cứu trợ. Chính phủ thành lập một uỷ ban về tai nạn này”.
Video thông báo đầu tiên về vụ nổ nhà
máy Chernobyl của Liên Xô (~20 giây):
Từ “hư hại” không
phản ánh đúng sự thật về việc một lõi lò phản ứng hạt nhân đang tan chảy, phát
tán vô số chất phóng xạ vào khí quyển. Trong khi đó, cuộc sống của gia đình các
công nhân nhà máy tại thành phố Pripyat, cách vụ nổ khoảng 2km vẫn diễn ra bình
thường và họ chỉ nhận được lệnh sơ tán sau khi thảm họa xảy ra được 36 giờ.
Chernobyl: Vùng đất
chết
Có khá nhiều lý do khiến Chernobyl
trờ thành “vùng chết” và một trong những lý do đầu tiên được liệt kê là do lò
phản ứng không có lớp tường che chắn. Thay vì có một cấu trúc ngăn chặn hàng
đầu bao gồm một lớp lót thép và lớp bê tông dự ứng lực, các nhà thiết kế lò
phản ứng Chernobyl chỉ sử dụng cấu trúc bê tông nặng. Cú nổ đã thổi bay nắp lò
nặng 16 tấn và bắn vào không trung một quả cầu lửa khổng lồ.
Khi ấy trong lò phản ứng số 4 của nhà
máy Chernobyl chứa khoảng 180-190 tấn nhiên liệu và các sản phẩm phân rã hạt
nhân dioxit urani. Các nhà khoa học ước tính rằng khoảng 7-10 tấn nhiên liệu
hạt nhân đã được phát tán ra không trung. Hơn 90.000 km vuông đất đã bị ô nhiễm
nặng với những tác động tồi tệ nhất được cảm nhận ở Ukraine, Belarus và Nga.
Không dừng ở đó, đám mây bụi phóng xạ theo gió lan rộng theo dải bán cầu bắc
tới Tây Âu, Anh, Scotland và xứ Wales.
Trong nỗ lực vô vọng nhằm làm nguội
lò phản ứng số 4 và khống chế hỏa hoạn không cho lan sang lò phản ứng số 3,
những người lính cứu hỏa Xô Viết đã vội vã bơm một khối lượng nước khổng lồ vào
lò phản ứng, đã khiến lượng lớn phóng xạ theo đó ngấm xuống mặt đất bên dưới
lò.
Ngoài ra, các chuyên gia đều nhận
định, trong vòng khu vực bán kính 30 km quanh nhà máy hạt nhân Chernobyl, đã bị
ô nhiễm nặng bởi các đồng vị phóng xạ dễ bay hơi như Caesium-137, Iodine-131,
Strontim-90, giải phóng năng lượng hạt nhân trong đó có 100% khí hiếm xenon và
kryton, 55% chất phóng xạ i-ốt và khoảng 20-40% lượng xezi bị phóng thích dưới
dạng dung khí.
Tổng cộng lượng phóng xạ thoát ra
ngoài do sự cố này nhiều gấp 400 lần so với vụ nổ bom nguyên tử ở Hiroshima.
Ngoại trừ khu vực Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, trên toàn lãnh thổ châu Âu, người
ta đều phát hiện ra bụi phóng xạ. Hơn nữa, ô nhiễm tại Chernobyl bao gồm nhiều
loại hạt phóng xạ khác nhau hơn so với ô nhiễm ở Hiroshima và Nagasaki, và
nhiều hạt trong số này có chu kỳ bán rã rất lâu dài. Do đó Chernobyl không còn
là khu vực an toàn cho việc cư trú của con người.
Hiroshima –
Nagasaki: Thành phố hòa bình
Không giống như Chernobyl, lượng vật
liệu hạt nhân được sử dụng để hủy diệt hai thành phố Hiroshima và Nagasaki là
tương đối nhỏ. Quả bom mang tên Little Boy “được” thả xuống Hiroshima chỉ chứa
khoảng 6,04 kg uranium, trong đó có khoảng 1 kg uranium tham gia phản ứng hạt
nhân. Tương tự, quả bom Fat Man hủy diệt Nagashaki chứa khoảng 7 kg Plutonium,
nhưng chỉ có khoảng 1 kg Plutonium trải qua sự phân hạch hạt nhân.
Với lượng vật liệu hạt nhân thấp hơn
nhiều, lại trải rộng trên một diện tích lớn hơn – phát nổ trên không
trung – là yếu tố khiến nồng độ ô nhiễm ở hai thành phố Hiroshima và Nagasaki
thấp hơn nhiều so với Chernobyl. Cả Fat Man và Little Boy đều được kích nổ trên
không trung, cách mặt đất hàng trăm mét, do vậy chất phóng xạ được phân tán bởi
đám mây hình nấm thay vì ngấm vào lòng đất như vụ nổ Chernobyl.
Theo thời gian, vật liệu hạt nhân
được phóng thích và trải rộng trên hai thành phố Hiroshima và Nagasaki cuối
cùng đã bị loại bỏ thông qua việc tái thiết thành phố và dưới tác động của thời
tiết. Bằng cách xây dựng lại Hiroshima và Nagasaki, trong đó bao gồm việc phá
sập và chôn vùi các tòa nhà bị bom nguyên tử phá hủy, người Nhật đã loại bỏ một
lượng lớn chất phóng xạ bám trên đó. Ngoài ra, mưa và tuyết tan đã cuốn trôi và
rửa sạch chất phóng xạ bám trên mặt đất, rồi đổ vào các con sông cuốn ra đại
dương, khiến nồng độ phóng xạ được pha loãng đến mức rất khó đo được sự hiện
diện của chúng trên bức xạ nền.
Hệ quả khác biệt
Trường hợp Chernobyl, sau nhiều năm
mức bức xạ môi trường xung quanh cũng sẽ tiếp tục phân rã như Hiroshima và
Nagasaki, nhưng vì vụ nổ thải ra một lượng vật liệu hạt nhân quá lớn, trong đó
bao gồm những chất đồng vị phân rã lâu hơn nên Chernobyl không thể hồi sinh như
hai thành phố Nhật Bản.
Một yếu tố nữa là ở Chernobyl, không
chỉ có “quan tài” lò phản ứng đã trở nên cũ nát, có nguy cơ đổ sập, và rò rỉ
phóng xạ, mà còn có những “nghĩa địa” lộ thiên của rất nhiều phương tiện cứu hộ
– đã từng lao đến nhà máy điện làm nhiệm vụ đúng đêm xảy ra vụ nổ – vẫn nằm
chỏng chơ trên mặt đất mà chưa được chôn. Rất nhiều xe tăng, máy bay, cần cẩu,
xe vận tải cứu hộ bị nhiễm xạ nặng, từng được sử dụng trong chiến dịch dọn dẹp
hậu quả vẫn đang phơi mình trong khu vực cách ly quanh lò phản ứng. Những tòa
nhà bị bỏ hoang sau cuộc sơ tán khẩn cấp cùng nhiều đồ đạc nhiễm xạ đã góp phần
cộng thêm yếu tố làm cho vùng đất này trở thành nơi nhiễm phóng xạ đậm đặc nhất
trên thế giới.
Tròn 75 năm sau ngày Mỹ ném hai quả
bom xuống Hiroshima và Nagasaki, cả hai thành phố đã hồi sinh một cách ngoạn
mục. Với những nỗ lực tái thiết thần kỳ của người Nhật, nơi từng là đống đổ nát
hoang tàn với 90% cơ sở hạ tầng bị tàn phá bởi Little Boy và Fat man xưa kia,
nay đã đổi mình thành những thành phố phát triển xanh tuyệt đẹp.
Thống kê cho thấy, tỉ lệ mắc ung thư
hiện nay ở cả hai thành phố Hiroshima và Nagasaki không có sự cách biệt là mấy
so với các thành phố khác của Nhật Bản nói riêng và các nơi trên thế giới nói
chung.
Với Chernobyl, sau 34 năm xảy ra thảm
họa hạt nhân tồi tệ nhất trong lịch sử loài người, cùng với chi phí dọn dẹp rác
thải hạt nhân đắt đỏ đứng hàng thứ hai thế giới (52 tỉ đôla), nơi đây hiện vẫn
là một khu vực điêu tàn hoang phế. Và giả dụ nếu bạn muốn cư ngụ tại đó, các
nhà khoa học cảnh báo rằng, bạn sẽ có nguy cơ bị ung thư cao tới mức không thể
đo đếm được.
3.000, 20.000 hay
100.000 năm nữa, chúng ta có thể sống ở Chernobyl?
Quan tài bê tông được xây phủ lên lò
phản ứng số 4 trong điều kiện thi công vội vàng, giờ đã hư hại nặng tới mức chỉ
cần một rung động nhẹ của Trái Đất hay những trận bão cũng có thể khiến trần
của nó sụp đổ. Ước tính khoảng 95% nhiên liệu hạt nhân (khoảng 180 tấn) trong
lò phản ứng tại thời điểm xảy ra vụ nổ vẫn còn lại bên trong quan tài này.
Để có thể “giam giữ” lượng phóng xạ
có thời gian phân rã tới 100.000 năm này, việc xây dựng một quan tài có khả
năng chôn vùi vĩnh viễn những thứ bên trong lò phản ứng số 4 rõ ràng là một
thách thức cho nhiều nhiều thế hệ sau này.
Gần chục năm qua, người ta đã nỗ lực
xây dựng quan tài thép mới nặng 32.000 tấn che phủ vòm bê tông cũ, đảm bảo vật
liệu phóng xạ không rò rỉ vào không khí. Các bộ phận được lắp ráp ở Italy, sau
đó vận chuyển tới nơi thi công bằng 18 con tàu và 2.500 xe tải, trở thành vật
thể lớn nhất vận chuyển trên đất liền và hoàn thành trước năm 2023.
Quan tài thép này được kỳ vọng sẽ trụ
vững trong vòng 100 năm, cho phép các công nhân có đủ thời gian để dọn dẹp khu
vực, bao gồm làm sạch khu vực lò phản ứng ước chừng kéo dài đến hết năn 2065.
Hiện nay các chuyên gia hạt nhân đang làm nhiệm vụ dọn dẹp hiện trường ước tính
sớm nhất phải 3.000 năm nữa con người mới có thể quay lại đây sinh sống.
Phóng viên Eben Harrell và James
Marson của Time viết rằng: “Do các đồng vị phóng xạ thoát ra trong một
vụ nổ hạt nhân có thể phát xạ tới hàng chục nghìn năm nên việc dọn dẹp hiện
trường không chỉ là việc của nhóm phản ứng đầu tiên mà còn là việc của các thế
hệ sau hoặc sau sau nữa”.
Khi được hỏi bao giờ con người mới có
thể quay trở lại sinh sống ở khu vực quanh lò phản ứng hạt nhân, Giám đốc nhà
máy điện hạt nhân Chernobyl Ihor Gramotkin trả lời: “Ít nhất phải
20.000 năm”.
Sergiy Parashyn, một kỹ sư làm việc
tại nhà máy điện hạt nhân Chernobyl từ năm 1977 cho đến khi xảy ra thảm họa năm
1986 chia sẻ: “Chúng tôi cho rằng chúng tôi đủ khả năng kiểm soát nguồn
năng lượng hạt nhân tại nhà máy Chernobyl. Chúng tôi tin rằng, mình có thể buộc
thiên nhiên phải cúi mình trước ý chí của chúng tôi. Không có gì chúng tôi
không thể làm được. Tất nhiên, đến ngày hôm ấy, chúng tôi mới biết mình đã
sai”.
Kết
Ngày 6/8/1945 không phải là ngày duy
nhất liên quan đến vũ khí hạt nhân, trong đó có một vài sự kiện đáng nhớ khác:
·
Ngày 12/12/1949: Liên Xô phong tỏa Berlin, đe dọa Thế chiến III.
Nhưng nhờ răn đe hạt nhân của Hoa Kỳ, sự kiện này kết thúc trong hòa bình.
·
Ngày 27/7/1953: Chiến tranh Triều Tiên kết thúc một phần nhờ
Tổng thống Eisenhower đã đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật.
·
Ngày 28/10/1962: Khủng hoảng tên lửa Cuba, Liên Xô đã đồng ý rút
tên lửa hạt nhân khỏi Cuba nhờ Mỹ có ưu thế tên lửa liên lục địa (ICBM).
·
Ngày 9/9/1989: Bức tường Berlin sụp đổ, và ngay sau đó dẫn tới
việc giải thể Hiệp ước Warsaw mà không cần tới NATO bởi do vũ khí hạt
nhân của Hoa Kỳ răn đe.
·
Ngày 21/12/1991: Giải thể hòa bình thể chế tà ác Đảng Cộng sản
Liên Xô. Đây là sự kiện đặc biệt đáng ghi nhớ, bởi chưa từng có trong lịch sử
nhân loại hiện đại, hai siêu cường thù địch trái ngược ý thức hệ đã kiềm chế
thành công Chiến tranh Lạnh nhờ răn đe hạt nhân.
Ngày nay, lợi thế của Nga về tổng số
vũ khí hạt nhân (chiến lược và chiến thuật), cùng số lượng vũ khí hạt nhân của
Trung Quốc (không công bố) thì nước Mỹ đã tiến xa hơn dưới thời Tổng thống
Donald Trump với sự ra mắt của Lực lượng Không gian Hoa Kỳ.
Xuân Trường
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét