Phùng Quán
Cái chết là một điều
khủng khiếp. Không ai không nguyền rủa cái chết. Nhưng lần này tôi phải tạ ơn
cái chết. Vì một lẽ, nhờ cái chết mà tôi và rất nhiều người khác trong nước,
qua các báo chí: Nhân dân, Văn nghệ, Giáo dục thời đại… được biết rằng đất nước
chúng ta đã từng sinh ra một triết gia tầm cỡ quốc tế… Vì đây là "một con
người siêu việt của Việt Nam đã đành, mà còn đáng cho nền văn hóa Pháp tự hào.
Con người đó cũng có phần cấu thành của chung nhân loại" (Lời giáo sư đại
học Nguyễn Đình Chú trong một bài viết của ông).
Chúng tôi được biết
nhiều tác phẩm triết học của triết gia đã được xuất bản ở Pháp, ở Anh, ở Mỹ, ở
Tây Ban Nha, ở Nhật, ở Đức, ở Hunggari… Một số nước ở châu âu đề nghị được mời
triết gia sang nước họ để viết thêm những tác phẩm triết học khác, Viện Hàn lâm
Đức muốn mời triết gia sang để trao đổi vấn đề con người, về Hêghen. Chúng tôi
được biết, ngay sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, trong một cuộc họp báo
tại Paris một phóng viên hỏi triết gia: "Nếu quân đội viễn chinh Pháp đổ
bộ lên đất nước ông, thì nhân dân ông sẽ đón tiếp như thế nào?". Triết gia
trả lời: "Nổ súng!". Và vào năm 1949-1950, khi những người lính chúng
tôi, nhiều người vừa đọc vừa đánh vần và không ít người chưa thoát nạn mù chữ,
thì tại đất Pháp, triết gia luận bàn với ông J.P. Sartre - một trong những cây
đại thụ triết học và văn học Pháp về chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa hiện sinh.
Triết gia ấy đã bảo vệ một cách kiên quyết sự đúng đắn toàn vẹn, vô song của
chủ nghĩa Mác… Triết gia đã cầm vũ khí triết học chia lửa cùng quê hương trong
cuộc kháng chiến trường kỳ. Cảm thấy như vậy vẫn chưa đủ, năm 1952, triết gia
đã từ bỏ tất cả vinh quang, tiền bạc, tiện nghi và phương tiện nghiên cứu học
thuật, trở về Tổ quốc theo con đường Paris - Luân Đôn - Praha - Matxcơva - Bắc
Kinh - Việt Bắc để cùng được ăn rau tàu bay chấm muối với chiến sĩ và cùng run
những cơn sốt rét rừng… Và triết gia đã nhận công tác tại văn phòng Tổng bí thư
rồi uỷ viên ban Văn sứ địa - nay là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Phó giám đốc
Trường Đại học Sư phạm Văn khoa, chủ nhiệm khoa Sử trường Đại học Tổng hợp Hà
Nội, chuyên viên cao cấp Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
Năm nay đã ngoài bảy
mươi tuổi, triết gia đã bay sang Pháp để hoàn thành tác phẩm triết học Mácxit
quan trọng của đời mình: "Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không có
con người". Triết gia đã trút hơi thở cuối cùng nơi đất khách quê người,
khi tác phẩm còn viết dở dang… Triết gia có tên là Trần Đức Thảo. Lần này triết
gia trở về Tổ quốc trong khoang hành lý máy bay, chiếm một chỗ hết sức khiêm
nhường. Triết gia đã hóa thân thành tro nằm trong cái bình bằng kim loại sơn
màu xanh thẫm hơi giống một chiếc cúp bóng đá và cũng to bằng cỡ đó.
Về đến Hà Nội, vì không
gia đình vợ con và không có cơ quan nào và trường đại học nào trước đây triết
gia đã từng công tác và giảng dạy nhận về để nhờ hoặc để quản, nên triết gia
phải tạm trú dưới cái gầm cầu thang của nhà tang lễ thành phố 125 đường Phùng
Hưng, Hà Nội.
Được biết tin này tôi
tìm đến thắp hương và lễ triết gia với lòng ngưỡng mộ sâu sa đối với một nhân
tài của đất nước.
Gầm cầu thang nhà tang
lễ thành phố từa tựa cái hang và được ngăn thành ba hốc, mỗi cái hốc là một
phòng dành cho cả các bình tro hài cốt tạm trú trước khi có người đến nhận. Ba
phòng trú phần thiết kế và trang trí nội thất đều giống nhau. Mỗi phòng rộng
chừng bảy, tám thước vuông. Trần phòng thấp, đổ dốc về phía trong theo độ dốc
cửa cầu thang. Một cái bệ xi măng, quét vôi vàng và giữa trần là một quầng đen
ám khói hương. Bên trên trần là những bậc cầu thang lên tầng hai của ngôi nhà.
Tiếng giày, tiếng guốc lên xuống, lên xuống rậm rịch…
Triết gia tạm trú ở
phòng số ba, kể từ ngoài cửa vào. Tuy các phòng không đề số phòng, nhưng không
có cửa nên cũng dễ tìm. Bình tro đặt trong cái hộp các-tông xung quanh phết
giấy điều. Trước bình tro là bát hương, sau bình tro, trên tường dán tấm giấy
điều với mấy chữ nho nguệch ngoạc. Lúc tôi đến thì hai phòng một, hai đều bỏ
trống, và hình như đã lâu không có ai thuê, vì cả hai bát hương đều gầy guộc
chân hương.
Nhìn cái bệ xi măng, bát
hương, hộp các-tông đựng bình tro, tấm giấy điều dán trên tường với mấy chữ nho
nguệch ngoạc, nghe tiếng giày guốc rậm rịch, sát ngay trên đỉnh đầu, tôi bỗng
chợt nhớ câu thơ của Oantơ Uýtman trong tập "Lá Cỏ" thiên tài của
ông: Nếu chết, tôi xin phó thân cho bùn đất để tái sinh làm ngọn cỏ tôi yêu,
hãy tìm dưới đế giày của các bạn. Tôi được biết, triết gia là người chiếm kỷ
lục thời gian tạm trú ở đây. Năm mươi ngày đêm. Và mỗi ngày đêm tiền thuê phòng
là 5 ngàn đồng. Tôi nói vui với một cán bộ của công ty: "Thế này thì giá
tiền phòng đắt bằng khách sạn ba sao rồi còn gì, Anh ta cãi: "Đắt sao
bằng. Tiền phòng khách sạn ba sao mỗi ngày đêm ít nhất là một trăm năm chục
ngàn. Nếu khách quốc tế thuê, trả bằng đô thì giá còn cao hơn…". Tôi nói:
"Nhưng diện tích phòng các anh là diện tích tranh thủ, chưa đầy mét vuông,
không gian chỉ hơn nứa thước khối. Khách thuê phòng không phải dùng đến giường,
đệm, chăn màn, ti vi, tủ lạnh, điện thoại riêng, máy điều hòa nhiệt độ,
toa-lét, nhân viên phục vụ… tính chi li, theo tôi còn đắt hơn cả khách sạn 5
sao".
Triết gia phải tạm trú
lâu như vậy là để chờ quyết định trên, có được đưa vào Mai Dịch hay về Văn
Điển. Tôi tính rằng nếu tro trong bình kia biết nói thì tro sẽ nói: "Người
cách mạng không nên đòi hỏi hường thụ quá những tiêu chuẩn mà cách mạng đã quy
định. Tôi mới đủ tiêu chuẩn Văn Điển sao lại cứ đòi hưởng vượt tiêu chuẩn Mai
Dịch? Thói đặc quyền đặc lợi đã làm hư hỏng biết bao nhiêu con người tốt! Nên
đưa tôi đi sớm ngày nào hay ngày ấy để đỡ tốn kém tiền của nhân dân!"
Sau năm mươi ngày chờ
đợi, tốn mất hai trăm năm chục ngàn tiền phòng, triết gia đã được trên quyết
định đưa về mai táng tại khu A Văn Điển, khu vĩnh viễn, hưởng thụ đúng tiêu
chuẩn quy định. Sáng ngày 20-6-1993, tôi may mắn được cùng với bà con thân
thích, mấy người học trò xưa, người vợ cũ từng tốt nghiệp đại học Sorbonne của
triết gia, và một số cán bộ lãnh đạo của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, đưa
tiễn triết gia đoạn hành trình cuối cùng của đời ông.
Khu A nghĩa trang Văn
Điển có hàng nghìn ngôi mộ xếp thành hàng thẳng tăm tắp, được xây giống nhau,
giống hệt những căn hộ khép kín của các khu nhà lắp ghép.
Các hàng mộ cũ đều đã
kín chỗ, nên mộ của triết gia "được đánh giá là một trong những nhà triết
học hàng đầu của thế kỷ" "Tuần báo Văn Nghệ tháng 5- 1993), tác giả
phương pháp hiện tượng học của Hussen, hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện
chứng, nguồn gốc ngôn ngữ và ý thức triết học đã đi đến đâu là ngôi mộ mở đầu
cho một hàng mới.
Nhìn ngôi mộ đơn độc
đang xây trát dở dang, tôi thầm nghĩ "Triết gia nằm ngay ở đầu hàng lại
hóa hay, giống như ở tầng trệt của khu nhà tập thể cao tầng. Ông sẽ tránh được
cái nạn và.o nhầm mộ người khác, như ngày còn ở khu tập thể Kim Liên, ông ở
tầng ba nên ông thường xuyên vào nhầm phòng ở các tầng dưới".
Mộ của ông khá đặc biệt.
Bình tro được đặt trong tiểu sành, tiểu sành được đặt dưới khuôn huyệt bên trên
có nắp bê tông đậy kín. Như vậy là ông được mai táng theo cách các nhà giàu có
xưa: trong quan ngoài quách. Đây có lẽ là sự xa xl độc nhất trong cuộc đời
triết gia quá ư thanh bạch của ông, mà nếu biết được, tôi tin chắc ông sẽ kịch
liệt phản đối
Lúc bình tro hạ huyệt,
tôi châm nén hương lễ ông, và khấn thầm: "Anh Thảo ơi, xin anh đừng quá
nghiệt ngã với bản thân đến thế… Với tất cả công tích, tài năng, trí tuệ trác
việt và những tác phẩm triết học mà anh đã trọn đời dâng hiến cho Tổ quốc, cho
nhân dân, cho sự toàn vẹn vô song của chủ nghĩa Mác, thì anh cũng có quyền được
hưởng một chút xíu xa xỉ như vậy…".
( 1 ) : Trần Đức Thảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét