Nguyễn Khắc Phê
Thân gửi
các anh La Khắc Hòa, Nguyễn Huệ Chi, Lại Nguyên Ân, Trần Đình Sử, Chu Văn
Sơn – đồng thời gửi cho ông Hoa Lư (?) và một vài người quan tâm vấn đề
này – bài viết vừa đăng trên Tạp chí “Kiến thức ngày nay” số 973, ngày
20/8/2017 để tham khảo vì có thể các anh chưa có điều kiện đọc Tạp chí
KNNN”. Tôi không có địa chỉ email anh Huệ Chi và La khắc Hòa, nhờ các anh
chuyển tiếp, nếu tiện. Nếu các anh đưa lên mạng, xin ghi rõ xuất xứ từ
KTNN.
Đồng
thời, tôi cũng gửi luôn các anh bài “Bổ sung”tôi mới viết,
chưa đăng, nêu rõ thêm một số chuyện mà có bạn đề nghị…
Tôi đã
xem một số bình luận của các anh trong trang FB của La Khắc Hòa [Xin
xem: https://www.facebook.com/khachoa.la/posts/1166607316774060 – Nguyễn Huệ Chi] và một số trang mạng
khác về bài của Hoa Lư (“To gan luận về bác sĩ Nguyễn Khắc Viện” –
BSNKV – đăng trên trang “Tiếng Dân” ngày 19/7/2017 [bài viết của Hoa Lư cũng
đăng lại đầy đủ trên FB La Khắc Hòa, xin xem đường link vừa dẫn – Nguyễn
Huệ Chi]). Ý kiến của một số anh, nói chung đã cung cấp thêm những
nhận định và tư liệu để mọi người suy luận một cách có cơ sở hơn. Bài của
ông Hoa Lư (HL) ngay từ nhan đề và một số câu trong bài tỏ ra rất kính
trọng BSNKV, nhưng tiếc rằng lại có những sai lạc (hoặc bất cập), cần
phải trao đổi lại.
Một số
anh em, bạn bè bảo tôi không nên viết vì là người trong nhà; hơn nữa bàn
về BSNKV thì thiên hạ đã viết suốt mấy chục năm rồi. Tuy vậy, đây không chỉ
là vấn đề cá nhân và một cuốn sách, mà do vị trí của BSNKV cũng như công
trình Việt Nam, một thiên lịch sử (VNMTLS) có quan hệ đến
không ít nhận thức một số sự kiện của lịch sử đất nước, nên cần được
trao đổi một cách công khai; riêng tôi, không nên tránh né, vì sau khi
BSNKV mất, bà Nhất – vợ BSNKV – nhờ tôi giúp soạn tư liệu để in các bộ
Tuyển tác phẩm BSNKV, nên trong gia đình BSNKV, tôi là người nắm được
nhiều tư liệu nhất. Tôi hy vọng, với các căn cứ mà tôi biết rõ, có thể
giúp các anh khi cần, sử dụng cho công trình nghiên cứu về trí thức Việt
Nam nói chung và BSNKV nói riêng, đồng thời giúp bạn đọc tránh hiểu lầm
và không để cái sai của HL kéo thêm những cái sai khác (như ông Đinh Thắng,
tự nhận là học trò BSNKV, tôn sùng và bảo vệ cụ Viện đến mức, nghe HL
viết như thế liền quy kết: Sách VNMTLS không phải của ông Viện viết và
Nhà nước vinh danh ông với công trình đó, khác chi giết chết BSNKV!...)
Xin được
lưu ý, tôi chỉ cung cấp “tư liệu” (có căn cứ “giấy trắng mực đen) để
các anh và bạn đọc “tự đính chính” những cái sai hoặc bất cập của HL về
mặt “tư liệu”; còn cách đánh giá của HL hay của Chu Văn Sơn về BSNKV như
cho rằng BSNKV là người của "cung đình", rồi "diễn một cách
tinh vi" và "hèn một cách Hiên ngang", “Cơ hội một cách sang
trọng”... thì tôi tin nhiều người và cả Chu Văn Sơn, khi bình tĩnh lại và
có điều kiện đọc toàn bộ các công trình của BSNKV, hoặc ít ra đọc mấy
chục kiến nghị của BSNKV gửi các cấp Trung ương (hiện có đầy đủ ở
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia; nếu quá thiếu thời gian thì chỉ đọc
sách Ước mơ & Hoài niệm – Nguyễn Khắc Viện kể chuyệnmà
NXB Tri Thức vừa in 5/2017, nhân kỷ niệm tròn 20 năm ngày BSNKV qua đời)
sẽ có cách nhận định khác. Còn với bản thân BSNKV, thì sinh thời, khi bị
một số cơ quan “chính thống” phê phán là “phản động, gián điệp của
Pháp”, cấm các báo đăng bài của ông thì ông vẫn thản nhiên và dành toàn
bộ tâm huyết cho việc Nghiên cứu Tâm lý trẻ em – một lĩnh vực ở Việt
Nam chưa được quan tâm đúng mức… Ừ, thì cũng có thể nói đây là “cơ hội một
cách sang trọng” – Nói theo kiểu nhà văn đặc sắc Nam Bộ Trang Thế Hy thì
“cung đình không ưa, đây là cơ hội ta đi chỗ khác chơi!” Mà “kiểu chơi”
Nghiên cứu Tâm lý trẻ em – khoa học nhân văn, giúp tạo nên những thế hệ
con người tốt đẹp cho tương lai đất nước thì hẳn cũng đáng gọi là “sang
trọng”!... Và đến cuối đời, thì có thể nói là “vàng thật không sợ lửa”, BSNKV
vừa được Giải thưởng Lớn về Pháp ngữ của Viện Hàn lâm Pháp, vừa được Nhà
nước ta tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất.
Nguyễn
Khắc Phê
|
1 -
Sách VNMTLS, viết như HL “được viết ra gần 20 năm sau khi chiến tranh
kết thúc” là sai. Có lẽ do HL không có điều kiện (hay lười) tìm tư
liệu. Với lớp trí thức thời BSNKV (không chỉ với BSNKV – tạm gọi là “trí
thức Tây học thiên tả”) thời điểm công bố tác phẩm rất quan trọng. Vì
chính BSNKV đã viết khi NXB Trẻ tái bản “Một đôi lời” ngay trước khi ông
qua đời như sau:
“… Mới hơn 10 năm mà nay
nhớ lại nhiều việc, như là chuyện thời xa xưa, cả nước đã chuyển sang một
thời đại mới. Nay cho in lại, xin cứ giữ nguyên bản, không sửa chữa, như
là một vết tích của một thời, để cho bạn đọc ngày nay thấy một số người
“xưa kia” suy nghĩ những gì… Thời thế thay đổi, không thể không thay đổi ý
kiến, loại trừ một số sai lầm tư tưởng, nhưng điều không thể thay đổi là
cái đạo lý làm người. Thức thời, chứ không phải cơ hội…
”
Những dòng này tìm thấy
dễ dàng trong bộ sách 5 cuốn của BSNKV do ThaihaBoosk xuất bản năm 2007.
Cũng trong lần xuất bản này có ghi rõ: “Tác phẩm in lần đầu tại NXB Ngoại
văn - Hà Nội, 1987”. Chưa hết! Nếu đến NXB Thế giới, bạn sẽ thấy cuốn in bằng
tiếng Pháp năm 2007, có “Lời ghi nhận của NXB” (Note de L’ éditeur”) ở đầu
sách, nói rõ cuốn sách được in lần đầu bằng tiếng Pháp năm 1976…! Như vậy,
VNMTLS in lần đầu, có thể là bản đã được BSNKV khởi thảo từ năm 1970. Trong
cuốn sách mới xuất bản tháng 5/2017 (Ước mơ & Hoài niệm” - Nguyễn
Khắc Viện kể chuyện – NXB Tri thức), nội dung là hồi ký của BSNKV
kể vào năm 80 tuổi, ở trang 176, có đoạn: “Sau khi Mỹ thả bom
miền Bắc, các nước rất quan tâm đến vấn đề Việt Nam. Ngoài việc bình luận
thời sự kịp thời, chúng tôi thấy cần phải làm cho thế giới hiểu rõ Việt Nam
một cách sâu sắc, toàn diện hơn. Năm 1970, Đảng Cộng sản Pháp đề nghị
tập hợp những phần về lịch sử cách mạng, chống Pháp và bước đầu chống Mỹ
cho đến năm 1960, in thành một cuốn Lịch sử Việt Nam. Đây là lần đầu tiên, có
một cuốn “Lịch sử Việt Nam” bằng tiếng Pháp, viết theo quan điểm của chúng ta,
in ở Paris…” Dẫn ra vậy để thấy rõ BSNKV viết VNMTLS là làm nhiệm
vụ tuyền truyền theo đường lối “chính thống”; từ đó, các nhận định về
Phan Châu Trinh hay “Cải cách ruộng đất”, cũng như việc không nói gì đến vụ
“Nhân văn giai phẩm”… đã không làm thỏa mãn một số người hiện nay – là
điều rất dễ hiểu.
Như vậy, xin được lưu ý:
những ai đọc VNMTLS bằng tiếng Việt, cần biết xuất xứ và điều kiện cụ thể
khi BSNKV viết NVMTLS bằng tiếng Pháp, để hiểu đúng một số vấn đề mà tác giả
đã viết theo quan điểm “chính thống” thời đó (Nếu sách được tái bản cũng
cần ghi rõ điều này).
Cũng cần chú ý thêm, “Lời
ghi nhận của NXB” (dẫn ở trên) nói rõ, Chương XI “Con đường đi tới tương
lai” mới viết bổ sung năm 1993… và nêu lý do những điểm chưa hoàn thiện
hoặc “cập nhật” (Về đánh giá Triều Nguyễn, về tình hình đất nước sau
1975…) khi “một số nhân vật và sự kiện lịch sử đang được đánh giá lại”,
nhưng khẳng định “tác phẩm của Nguyễn Khắc Viện vẫn giữ nguyên giá trị của
nó. Mang dấu ấn thời đại, nó vẫn là một cuốn sách tham khảo có giá
trị bằng tiếng nước ngoài về lịch sử Việt Nam”… Còn BSNKV không hoàn thiện
hay sửa lại một số nhận định, ngoài lý do ông đã viết như khi tái bản
“Một đôi lời”, còn một điều nữa, là sau 1990, ông đã “chuyển hẳn giai đoạn”,
chỉ lo nghiên cứu và xây dựng Trung tâm Nghiên cứu Tâm lý trẻ em N-T, không
tham gia công tác “tuyên truyền” đối ngoại cho Việt Nam mà ông phải gách
vác trong nhiều năm về trước. Tuy vậy, chỉ cần nhớ đến việc BSNKV đã thẳng
thắn đặt lại vấn đề “Nhân văn Giai phẩm” tại cuộc gặp giữa Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Linh với 100 văn nghệ sĩ hồi tháng 10/1987 (xem Ước mơ
& Hoài niệm – Sách đã dẫn) cũng như hai trang cuối VNMTLS viết
bổ sung năm 1993 về các vấn đề xã hội - chính trị của Việt Nam sau Đổi Mới
1986, đủ thấy BSNKV là một con người như thế nào. Và dòng cuối cùng phần
này ở VNMTLS, BSNKV đã viết: “Xin để phần người đọc có những ý kiến
uốn nắn, nếu xét thấy cần thiết”. Trước đó, trong bài đăng
“Kiến thức ngày nay” năm 1995 (đã dẫn), BSNKV cũng nói: “… Nếu nhà
báo thông tin được hai chiều, tức là nêu tất cả những lời phê phán, chỉ
trích tôi thì… vui hơn”. Như vậy, chẳng cần “to gan”, mọi người, nếu
đủ kiến thức, trung thực và thiện ý đều có thể “luận” về BSNKV.
2 -
Xin lưu ý nguyên bản sách VNMTLS “bằng tiếng nước ngoài” – ông HL cũng thừa
nhận “Tôi chỉ đọc được bản dịch…”. Đúng ra đã nghiên cứu, nhất là để đưa
tới quy kết phủ định cả tác giả lẫn tác phẩm thì phải tìm nguồn gốc,
xuất xứ các bản tiếng Pháp… Thôi, tạm thông cảm nhà nghiên cứu HL không đủ
điều kiện tìm tư liệu, nhưng đã buông lời phê phán thì không được phép cắt
xén. Tôi hy vọng là HL do “vô ý” (hoặc đang bị “ảnh hưởng” của xu hướng
“hạ bệ thần tượng” và “giải huyền thoại” đang được một số người thích
thú), chứ không “ác ý” khi cắt câu cuối về sự hy sinh của Phạm Hồng
Thái. Không cần đọc nguyên bản, bản dịch đã dẫn của ThaihaBoosk năm 2007,
đã in: “… Phạm Hồng Thái đã phải nhảy xuống sông Châu Giang rồi chết
đuối, nhưng sự kiện này đã có một tiếng vang rất lớn”. Trích
rồi cắt câu in đậm và phê phán: “Hai chữ “chết đuối” đặt ở đây e
mắc tội với vong linh vị anh hùng…” thì dù “vô ý”, HL không chỉ
có lỗi với BSNKV và bạn đọc mà cả với liệt sĩ Phạm Hồng Thái. Một
chuyên gia về Pháp ngữ ở Huế, đã phân tích BSNKV viết rất chặt chẽ, không
viết là “Phạm Hồng Thái nhảy xuống sông tự tử” như một số sách báo
trước đây mà viết là “dut se jeter = dut> devoir = phải: "phải nhảy
xuống sông..." – "phải" là thế cùng, không tự nguyện... ; rồi Se
noyer = chết ngạt dưới nước; và ông phân tích thêm: PHT là một nhà cách mạng,
ông phải tìm con đường sống, để tiếp tục làm cách mạng; cực chẳng đã phải
chết thì mới chết…” – Đúng vậy, PHT sẵn sàng chết, nhưng nhảy xuống sông,
chính vì còn hy vọng sẽ thoát, chứ tự tử thì thiếu gì cách chắc chắn
hơn!)
Nhiều đoạn trong bài của
HL cũng trích câu cần phê phán, nhưng khi đọc toàn bộ, nhận định sẽ khác
hẳn. Như về Truyện Kiều, HL chỉ phê phán BSNKV chỉ đề cao Truyện
Kiều “tố cáo…” với “phản ánh hiện thực” nhưng đọc cả mấy
trang, sẽ thấy BSNKV dành cả một đoạn dài phân tích nghệ thuật và các giá
trị khác của Truyện Kiềurất toàn diện… (Đó là chưa nói, dành
cho Nguyễn Du và Truyện Kiều hơn 4 trang trong một cuốn sử
dân tộc mấy ngàn năm dài 500 trang, chứng tỏ tầm văn hoá của người viết.
NKP chưa kiểm chứng, nhưng có lẽ đây là cuốn sử dành cho Truyện
Kiều dài nhất, trong toàn bộ sách Lịch sử Việt Nam, xét về tỷ
lệ dung lượng… Còn các “trách cứ” BSNKV không kể “công lao” nguyên bản
truyện Kim Vân Kiều, hay nói BSNKV đã sai khi dẫn Kiều tự nói
với chàng Kim mình còn trong trắng thì HL có biết các nhà “Kiều học”
Việt Nam đã chỉ ra cuốn Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm
Tài Nhân chưa hề được đưa vào lần nào trong bất kì một cuốn Lịch sử văn học
Trung Quốc, do người Trung Quốc viết để dạy trong nhà trường cũng như phổ
cập toàn xã hội và phê phán học giả Trung Quốc Đổng Văn Thành quanh luận điểm
hoang đường là quá đề cao Kim Vân Kiều truyện, với dụng ý rõ rệt là
hạ thấp Nguyễn Du. Phải chăng HL cũng chịu ảnh hưởng quan điểm đánh giá của
Đổng Văn Thành và cũng không biết chuyện trên thế giới có bao nhiêu tác phẩm
rất nổi tiếng xoay quanh một cốt truyện? Như vậy, thì VNMTLS cần gì phải nhắc
đến Kim Vân Kiều.
Truyện Kiều giấy
trắng mực đen, câu 3161 “Chữ trinh còn một chút này” rành
rành là Kiều nói với Kim Trọng (câu 3145 mở đầu đoạn đối thoại này viết:
“Nàng rằng: “Phận thiếp đã đành…”). Đề nghị HL chịu
khó đọc lại Truyện Kiều trước khi lên tiếng phê phán người
khác. Riêng trường hợp này, có lẽ HL cần xin lỗi bạn đọc vì đã “vô ý” xuyên
tạc cả Nguyễn Du! Theo một thành viên Hội “Kiều học”, nếu chọn 5 câu tiến bộ
nhất, nhân đạo nhất trong Truyện Kiều thì ông xếp câu Kiều
nói trên đứng thứ 2! Đây là một quan niệm cực kì mới mẻ về chữ “Trinh”, và
chính vế sau đoạn này, BSNKV đã giải thích rất tường minh ý nghĩa hiện đại ấy
mà HL không thấy, lại vội vã để kết luận BSNKV nhầm! Mặt khác, những ai có
hiểu biết về sáng tạo VHNT, đều biết dù Kiều hay Kim Trọng nói thì thực
chất đều là của… Nguyễn Du!
3 -
Để phủ nhận vị trí của BSNKV, HL đề nghị phải “…xét đến giá
trị cuốn sách quan trọng nhất của ông: “VNMTLS”… Đây là riêng ý kiến HL
thôi. Xin tìm đọc các sách về BSNKV đã xuất bản, có lần BSNKV đã nói đại
ý: “Cái gọi là giá trị “để đời” thì biết đâu lại là tập sách mỏng
về Dưỡng sinh, hoặc là chỉ mấy câu vè chỉ dẫn cách tập thở…” (BSNKV
trả lời phỏng vấn đăng “Kiến thức ngày nay”, 1995 và đã in trong
sách Nguyễn Khắc Viện tác phẩm - Chân dung & Kỷ niệm,
Tập 2, trang 123, NXB Lao Động, 2003). Lưu ý thêm, cũng trong cuốn Ước
mơ & Hoài niệm vừa xuất bản tháng 5/2017, BSNKV không có 1
dòng nào nhắc đến cuốn VNMTLS (ngoài dòng nhắc đến cuốn viết năm 1970 theo
đề nghị của Đảng Cộng sản Pháp). Còn việc căn cứ vào “Giải thưởng Nhà
nước” truy tặng cho VNMTLS, để cho đây là “Công trình quan trọng nhất” của
BSNKV cũng không đúng nốt. Chúng ta đều biết, trong việc tặng các “Giải
thưởng” và cả Huân chương của Nhà nước ta, đã có không ít “vấn đề”, rõ
nhất là các kiện cáo phải hoãn đợt trao Giải Nhà nước và Hồ Chí Minh
vừa qua, bổ sung danh sách (đến ngày 20/5/2017 mới trao được mà vẫn có lời bàn
là “người nhiều văn không được và ngược lại…); thậm chí có Anh hùng phải
tước danh hiệu. Riêng trường hợp BSNKV, để rõ hơn, trích một đoạn bình
giải một giấc mơ cuối đời của BSNKV (đã in trong sách Nguyễn Khắc
Viện Yêu & Mơ – NXB Trẻ, 2015) như sau:
“… cơ quan vừa làm hồ sơ đề
nghị Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho ông, nhưng tác phẩm, công trình
của BSNKV rất đa dạng, các “Hội đồng cơ sở” (như Hội Nhà văn Việt Nam, Bộ Văn
hoá, Bộ Y tế…) đều thấy không chỉ thuộc về ngành mình; rút cục, đưa xét công
trình “Việt Nam một thiên lịch sử”, nguyên bản tiếng Pháp, lúc đó chưa dịch ra
tiếng Việt, nên cũng có ý kiến: “Hội đồng có phải ai cũng đọc được tiếng Pháp
đâu!” Thế là bỏ phiếu Giải thưởng Hồ Chí Minh không đạt, chuyển xuống tặng
“Giải thưởng Nhà nước”. Tuy vậy, có ý kiến cho rằng: Đúng ra, nên đưa xét bản
dịch Truyện Kiều (ra tiếng Pháp) và toàn bộ công trình nghiên
cứu tâm lý của BSNKV…”
***
Có lẽ chỉ cần nêu như thế,
bạn đọc sẽ thấy bài của HL chưa phải là căn cứ tin cậy để đánh giá BSNKV
cũng như sách VNMTLS. Đề tài này, nhất là bàn về BSNKV, dù đã có rất nhiều
sách báo bàn đến, muốn đầy đủ, có khi phải viết một cuốn sách, chưa hẳn đã
được mọi người đồng tình, nhất là ở thời đoạn có nhiều biến đổi, không
ít giá trị đang được “cân đong” lại. Cũng dễ hiểu, vì BSNKV là một nhân
vật đã trải qua những bước ngoặt và “biến cố” khác thường…
Bài bổ sung
Vẫn chưa hết chuyện về
Nguyễn Khắc Viện & Việt Nam một thiên lịch sử
Nguyễn Khắc Phê
Cuối bài Lại bàn
về Nguyễn Khắc Viện & sách “Việt Nam một thiên lịch sử” (đăng Tạp
chí “Kiến thức ngày nay” số 973, ngày 20/8/2017) trao đổi với ông Hoa Lư
(HL) về bài “To gan luận về BSNKV” (đăng trên trang Tiếng Dân ngày 19/7/2017
và được một số nhà nghiên cứu chú ý bình luận trên FB của ông La Khắc
Hòa), tôi đã viết: “…muốn đầy đủ, có khi phải viết một cuốn sách,
chưa hẳn đã được mọi người đồng tình, nhất là ở thời đoạn có nhiều biến
đổi, không ít giá trị đang được “cân đong” lại…”. Quả nhiên, sau
khi đọc bài viết trên, một bạn đọc cũng là chỗ thân tình bảo: “Tôi vẫn thắc
mắc vì sao BSNKV khi viết về Cải cách ruộng đất (CCRĐ) không nhắc đến những
sai lầm ghê gớm mà ai cũng biết? Nhất là trong hoàn cảnh gia đình cụ Viện
đã phải chịu nhiều đau khổ trong CCRĐ. Một bạn khác thì nói: “Có phải ai
cũng có điều kiện tìm đọc các sách về BSNKV đã xuất bản trước đây đâu; nên
ít ra cũng cần vắn tắt cho biết BSNKV đã nói với Tổng Bí thư Nguyễn Văn
Linh về “Nhân văn Giai phẩm” như thế nào? Cũng muốn biết đoạn cuối VNMTLS
mà BSNKV mới viết bổ sung năm 1993 nói những gì?...”.
Quả là bài đăng trên
“Kiến thức ngày nay” có một số “chi tiết” tôi chưa viết “hết ý” vì bài
đã khá dài, nay xin “bổ sung” vì nó liên quan đến những sự kiện lịch sử
vẫn đang được nhiều người quan tâm.
1 -
Đã nhắc đến BSNKV viết về CCRĐ trong cuốn “Việt Nam một thiên lịch sử”
(VNMTLS) như thế nào, thì quả là cần nói kỹ hơn một chút, do HL viết khá
dài về hoàn cảnh xuất thân đặc biệt của BSNKV (con địa chủ quan lại, bị
đấu tố…) và cho rằng “nghiên cứu thái độ của Nguyễn Khắc Viện về vấn
đề này có thể mang đến nhiều giải đáp thú vị”; sau đó, HL dẫn ra
cách nhìn nhận của người em là Nguyễn Khắc Dương về thân phận bi thương của
bố và mẹ trong CCRĐ so sánh với “âm hưởng hào hùng… chỉ có thắng
lợi, chỉ có quyết tâm… lời lẽ đầy uy lực” của BSNKV trong 2 trang
viết “rất lạ” về CCRĐ… Điều HL dẫn ra là có thật, nhưng đem so sánh hai
anh em trong trường hợp này là không thỏa đáng (nếu không muốn nói là vô
ích) vì người em là tín đồ Ki-tô giáo, bày tỏ tâm sự riêng tư; còn người
anh là giới thiệu vắn tắt một phong trào cách mạng quan trọng của Việt Nam
với người nước ngoài, theo nhận định của đảng cộng sản, nên khác nhau là
tất nhiên, chẳng có gì lạ. Đúng ra, cái “lạ” là một cuộc cách mạng long
trời lở đất như thế mà BSNKV chỉ dành có 2 trang, chưa bằng một nửa dung
lượng giới thiệu Truyện Kiều! Có thể hiểu là BSNKV không đánh
giá cao cuộc cách mạng này, chỉ dẫn ra những “thành quả” và nhận định theo
quan điểm “chính thống” (trong đó có một đoạn trích ý kiến của Đại
tướng Võ Nguyên Giáp) mà nếu nhìn nhận một cách công bằng thì đó là những
điều có thật… Không chỉ HL và một số bạn đọc, mà chính trong gia đình BSNKV
cũng có người “thắc mắc” vì sao BSNKV không đề cập đến những sai lầm
nghiêm trọng trong “Cải cách” . Tuy nhiên, hồi ấy, chúng tôi không ai trực
tiếp “chất vấn” BSNKV, có lẽ vì dù sao sai lầm trong CCRĐ cũng là chuyện
đã qua trên chục năm, mà trước mắt thì BSNKV trong điều kiện sức khỏe chỉ
thở với non 1 lá phổi, lại đang phải gánh những trách nhiệm nặng nề
trong văn hoá và tuyên truyền đối ngoại lúc Mỹ đánh Việt Nam và trước cả
những vấn đề gay cấn như nạn “thuyền nhân”, rồi quan hệ với Căm-pu-chia…;
sau đó thì BSNKV lại ở trong tình thế bị “bao vây, phong tỏa” vì các kiến
nghị gay gắt, đòi hỏi Đổi Mới một cách triệt để… Đến nay thì chỉ có thể
suy đoán BSNKV để “sót” sai lầm CCRĐ vì: 1) Đã viết vụ này thì không thể
viết ngắn mà so với lịch sử hàng ngàn năm của Việt Nam thì CCRĐ không thể
chiếm nhiều trang. 2) Đối tượng của VNMTLS là người nước ngoài, đa số họ
chỉ cần biết tổng thể, tiến trình lịch sử Việt Nam – trong đó có việc năm
1953-1955, tiến hành CCRĐ chia ruộng cho nông dân, khiến nông dân hăng hái tham
gia kháng chiến, xóa bỏ hẳn chế độ phong kiến (về quản lý ruộng
đất…). Đó là sự thật, là đủ đối với đa số người nước ngoài. Còn những ai
muốn đi sâu thì không thiếu tài liệu, sách báo viết về sai lầm CCRĐ. Đảng
Lao động Việt Nam cũng đã thừa nhận sai lầm và cử Đại tướng Võ Nguyên
Giáp thay mặt xin lỗi nhân dân… Tất nhiên, một lý do nữa là vì xu thế
“chính thống” lúc đó không muốn nhấn mạnh sai lầm, mà quên nghĩ đến mục
đích tốt đẹp của CCRĐ phần nào đã được thực hiện là nông dân được làm chủ
ruộng đất mà mình canh tác…
Nhân đây, cung cấp thêm
một tư liệu cho biết BSNKV đã nghĩ về sai lầm CCRĐ như thế nào. Trong
sách Ước mơ & Hoài niệm, bản in lần đầu năm 2003 (NXB Đà
Nẵng) đã có đoạn: “Có việc rất xúc động mà tôi nhớ mãi là có một
anh công nhân ở Lyon… anh ấy bị ung thư máu, gọi tôi đến, giao quyển sổ
tiết kiệm… bảo: “Anh lấy tiền này mua sách gửi về cho Đại học Hà Nội”. Tôi
hỏi: “Tại sao anh không để tiền gửi về cho gia đình?”. Anh nói: “Gia đình tôi
được cải cách ruộng đất rồi, có ruộng đất rồi, không cần nữa”. Qua đó thấy
rằng đối với cải cách ruộng đất có hai cách nhìn. Chính tôi hồi đó cũng
hiểu rằng, một cuộc cách mạng nào chẳng có vấp váp, tránh sao được, cách
mạng Pháp cũng thế, cách mạng Nga cũng thế. Nhưng cũng phải thừa nhận rằng
sai lầm lớn của chúng ta trong cải cách ruộng đất đã gây một sự xao xuyến
trong anh em Việt kiều, những tin dữ dội về cải cách ruộng đất đụng
chạm đến gia đình thân nhân họ… Báo chí Sài Gòn khuấy chuyện này lên,
tờ Tự do cũng kích động bản thân tôi, có bài nói về Ông
cụ tôi ở miền Bắc bị thế này thế nọ…”
Nhân nhắc đến thân phụ
BSNKV, xin cung cấp thêm một chi tiết: Mặc dù sức khỏe hạn chế và bận
nhiều công việc, trong gia đình chúng tôi, BSNKV là người đầu tiên nhắc đến
chuyện phải tìm cách đưa hài cốt thân phụ từ Trại Đưng (nơi giam tù nhân
trong cải cách ruộng đất ở Hà Tĩnh…) về, nhưng do hoàn cảnh chiến tranh,
năm 1976, chính BSNKV và anh tôi là Nguyễn Khắc Phi đã trực tiếp lên Trại
Đưng làm điều đó và khi mang về Hà Nội, cũng chính BSNKV đã tham gia việc
hỏa táng hài cốt Cụ rồi thờ trong căn phòng của mình (mãi đến năm 1995
mới có điều kiện đưa di hài Cụ về an táng ở quê nhà…). Một người bà con
của BSNKV là trí thức miền Nam (hiện ở Mỹ), khi biết chuyện BSNKV trực
tiếp đến tận vùng núi xa xôi cách trở, đi lại rất vất vả vì đất nước mới
hòa bình, để lo việc cải táng cho thân phụ, đã rất ngạc nhiên do còn
vướng quan niệm người cộng sản sống kiểu “vô gia đình” mà!
2 - Một
số điểm khác cần nói thêm:
a) Trong bài của HL
có “Một câu hỏi bỏ ngỏ”: “Viết về văn hoá xã hội, về
trí thức mà bỏ qua, không có một dòng nào về câu chuyện “Nhân văn Giai
phẩm”(?), thực sự là một câu hỏi khó về “bản lĩnh” của BSNKV”. HL
đặt vấn đề như vậy là đúng; tôi cũng hình dung BSNKV đã phải “bóp trán” cân
nhắc một cách “khó khăn” trước máy đánh chữ khi nghĩ đến vụ này. Nhưng nếu
xét về “bản lĩnh” của một con người, không thể chỉ căn cứ vào một sự việc;
mặt khác, xin lưu ý một lần nữa, BSNKV viết VNMTLS từ quan điểm “chính
thống” tại một Nhà xuất bản ở Hà Nội, tất nhiên là do Đảng Cộng sản
lãnh đạo, chứ không phải đăng lên ‘Fây”, thích gì viết nấy như hiện nay.
(Tương tự, việc đánh giá một số hiện tượng, nhân vật trong lịch sử Việt
Nam như Phan Châu Trinh, Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh… trong VNMTLS cũng theo
“nguyên tắc đó”, một số bạn đọc hiện nay không đồng tình là điều có
thật. Tuy vậy, cần thấy, cho đến nay – giữa năm 2017 – về các nhân vật đó, các
nhà nghiên cứu lịch sử trên nhiều tờ báo vẫn còn tranh cãi “quyết liệt”,
người ca ngợi, kẻ lên án nặng nề, một người viết sử “không chuyên” như
BSNKV, chỉ với mục đích tuyên truyền cho bạn bè thế giới hiểu thêm Việt
Nam, từ những năm 70 của thế kỷ trước, tất phải chọn cách diễn đạt theo
“chính thống” ...).
Về vụ “Nhân văn”, xin lưu
ý thêm, cho đến nay (năm 2017), mặc dù một số tác giả liên quan đã được
tặng Giải thưởng Nhà nước, nhưng Đảng (hoặc cơ quan thuộc Đảng lãnh đạo,
quản lý như Bộ Văn hoá. V.v…) vẫn chưa hề có văn bản chính thức công
khai nhận sai lầm trong vụ này và minh oan cho các tác giả liên quan. Thử
hỏi, từ những năm bảy mươi của thế kỷ trước, BSNKV làm sao có thể tự mình
làm điều đó? Và thử hỏi, nếu BSNKV có bản lĩnh làm việc đó, để rồi VNMTLS
không được xuất bản, không còn dịp giới thiệu cho thế giới biết rõ về nước
Việt Nam mấy ngàn năm văn hiến với các tên tuổi như Trần Hưng Đạo, Lê Quý
Đôn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… thì sự “can đảm” ấy có đáng không? Vì việc
lớn, phải hy sinh tiểu tiết; cũng như liên quan đến CCRĐ, BSNKV phải tạm
gác tình riêng, không để nỗi đau thương về người bố bất hạnh khiến ngòi
bút khi viết về CCRĐ chỉ còn đậm nét chuyện “đấu tố” máu me, che lấp
niềm vui có thật của hàng triệu nông dân khi được chia ruộng đất (mà một
hiệu quả gần, dễ thấy nhất mà BSNKV đã ghi nhận trong Hồi ký là “Sau CCRĐ,
mỗi người nông dân được một mảnh đất, họ làm chủ mảnh đất ấy, muốn cày
cấy gì, muốn bán sản phẩm cho ai tùy ý. Nhờ đó, năm 1959, miền Bắc
được mùa lớn nhất từ năm 1955…”).
Đặt vấn đề như vậy, có lẽ
phần đông bạn đọc sẽ thông cảm việc BSNKV để “sót” vụ “Nhân văn” trong
VNMTLS, đồng thời thấy rõ BSNKV đã thực hiện “tuyên ngôn” về cách xử thế đã
dẫn ở bài trước: “… Thời thế thay đổi, không thể không thay đổi
ý kiến, loại trừ một số sai lầm tư tưởng, nhưng điều không thể thay đổi
là cái đạo lý làm người. Thức thời, chứ không phải cơ hội…”. Chính
vì thế, tôi sẽ dẫn ra quan điểm mới của BSNKV qua ý kiến phát biểu tại
cuộc gặp giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh năm 1997 với 100 văn nghệ sĩ; cũng
là dịp để thấy được “bản lĩnh” của BSNKV. Bài này đã in báo “Văn nghệ”
ngay lúc đó và in lại trong cuốn Đổi mới? (NXB Thanh Niên,
1989); trong Hồi ký mới xuất bản của BSNKV (NXB Tri thức, 2017), tác giả chỉ
kể vắn tắt qua 1 trang in, trong khi bài dài 7 trang. Cuộc gặp tổ chức
ngày 6/10/1987, tức là tròn 30 năm đã qua! BSNKV không chỉ thẳng thắn nêu
lại chuyện “Nhân văn” (nếu tôi không nhầm thì ông là người đầu tiên nói trước
lãnh đạo cấp cao nhất tại một diễn đàn lớn) mà đặt vấn đề rộng hơn, quan trọng
hơn, đến nay vẫn còn tính thời sự; đó là “Tháo gỡ trói buộc cho văn học
nghệ thuật”. Phần đầu, BSNKV nêu lên tình hình hiện nay đất nước “đang
cần những con người, chủ động, có óc sáng tạo để cải tổ mọi lĩnh vực
trong đời sống xã hội”; trong khi đó, “cuộc sống trở thành
một cuộn tơ vò, mục tiêu xây dựng một xã hội mới, con người mới mờ nhạt;
con người đâm ra thụ động, bi quan là khác…”; nhưng văn nghệ sĩ “nhạy
cảm với tâm tư nguyện vọng của nhân dân, với những gì mới chớm nở… bầu
máu nóng và tính sáng tạo của họ… khuấy động trong lòng nhiều người…
thúc đẩy cuộc sống…” Tiếp đó, BSNKV cho rằng vừa qua, văn
nghệ “chưa đóng được vai trò xúc tác ấy. Vì bị trói buộc… Văn
nghệ sĩ phải làm vừa ý những ai cấp tiền, ai cho phép… Nói thẳng, nói
thật, là sự lãnh đạo văn nghệ trong mấy năm qua nhiều lúc còn khá thô sơ,
tìm cách bắt sâu trong một vườn hoa quý lại dùng dao búa trong rừng khai
hoang. Đao to búa lớn lại do những con người quen đốn cây, phạt bụi bờ.
Trong nhiều năm, những người làm báo, làm phim, viết văn thường xuyên được
nhắc nhở: phải làm thế này, không được làm thế kia. Bị trói buộc bởi một
loạt húy kỵ… Lâu lâu lại nổ ra một vụ án văn học… Thông thường bản án
nào cũng có kỳ hạn, mãn ra tù; còn bản án văn học thì cứ mãi mãi treo
lơ lửng trên đầu và cũng không có văn bản… thật là một bản án chung thân,
có khi còn bị hại đến cả đời con cháu…” Tiếp theo, BSNKV phân
tích hiện trạng trên đã khiến văn nghệ sĩ “vừa phải “viết” vừa
phải “lách”… tự mình duyệt lấy mình, những gì góc cạnh, phóng khoáng…
chua cay, bi đát, tước bỏ đi, cái gì cá tính quá rõ phải gột đi, những
câu chuyện số phận con người, đi sâu vào nguồn gốc cái thiện, cái ác
đành không nghĩ đến, tác phẩm nào cũng hao hao giống nhau, như các căn hộ
của một khu nhà lắp ghép…”. Cuối cùng, BSNKV nêu ra một số kiến
nghị cụ thể như: các vị lãnh đạo Đảng các cấp không bao giờ lên án một
tác phẩm văn nghệ, để các ngành văn nghệ tự phê phán lấy nhau; nếu quyết
định cấm in, cấm diễn thì phải ký rõ tên ai, “lãnh đạo quản lý
xin bổ nhiệm những vị biết người biết của…; xử lại những tác phẩm và con
người bị kết án thời Nhân văn Giai phẩm, nay hoặc xóa án, hoặc kết
luận là đã mãn hạn, cho trở lại hoạt động bình thường…”.
Báo “Văn nghệ” tường
thuật cuộc gặp gỡ này đã tả cảnh đồng chí Tổng Bí thư đã vui vẻ bắt tay
và trực tiếp nhận bài phát biểu từ tay BSNKV.
b) Về những trang BSNKV
viết bổ sung năm 1993 trong chương cuối VNMTLS với nhan đề “Con đường đi
tới tương lai”, ông HL trích “bốn quyết tâm” ở đoạn cuối và có ý mỉa
mai: “Cả bốn quyết tâm “xóa bỏ” (chế độ phong kiến, tư bản…),
“cải cách” (CCRĐ, hợp tác hóa, thành lập nông trường quốc doanh), “phát
triển” (kinh tế Nhà nước…) và “hội nhập” (vào phe “xã hội chủ nghĩa”…) mà
bác sĩ Viện đưa ra chỉ có một giá trị duy nhất. Ấy là việc gợi lại cho
các độc giả đã qua tuổi tri thiên mệnh rùng mình nhớ về những đợt học
chính trị vô vị, buồn chán và dài lê thê của 30 năm về trước”. HL
có quyền nghĩ như thế, nhưng xin lưu ý, trước khi nêu “bốn quyết tâm”, BSNKV
viết: “Một khi chính quyền đã ở trong tay một Nhà nước nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo, thì con đường đã được vạch ra…” – tức
là “bốn quyết tâm” đó là tóm tắt đường lối của Đảng lúc đó. Tuy vậy, sau
khi viết tiếp 2 trang phân tích nhiều mặt xã hội Việt Nam (từ tôn giáo, dân
tộc, địa chính trị …), BSNKV đặt liên tiếp hai câu hỏi: “Trong
chừng mực nào Đảng sẽ có thể đảm đương sự lãnh đạo tư tưởng, văn hoá của
cả dân tộc? Câu hỏi này trực tiếp gắn liền với một câu hỏi khác: những
cấu trúc xã hội - chính trị nào sẽ thích hợp với việc thiết lập một nền
kinh tế thị trường?” Tiếp đó, BSNKV đã nhận định Việt Nam
đã “nẩy sinh một thứ “chủ nghĩa tư bản hoang dã” mà sự phát triển
có nguy cơ dẫn đến những tai họa về sinh thái, làm gay gắt trầm trọng
thêm những bất bình đẳng và tệ nạn xã hội, tội phạm, ma túy. Thứ “chủ
nghĩa tư bản hoang dã” này huy động những bộ phân quan trọng trong bộ máy
Nhà nước phục vụ cho nó, biến họ thành một tổ chức maphia thực sự, kẻ
thù của mọi hình thức dân chủ, của công bằng xã hội và bảo vệ sinh thái…” Mặc
dù kết thúc VNMTLS, tác giả đề nghị “người đọc có những ý kiến uốn
nắn, nếu thấy cần thiết”, nhưng xem ra điều BSNKV viết từ 24 năm trước, có
vẻ như vẫn đúng với thực trạng xã hội Việt Nam hiện nay.
c)- Cũng về cách đánh giá
BSNKV và VNMTLS, ông HL có ý mỉa mai khi nhắc đến “những lời tán
dương nồng nhiệt của nhiều tác giả tên tuổi” (như Phó Chủ tịch
nước Nguyễn Thị Bình, nhà phê bình Mai Quốc Liên, ông Hoàng Tùng) vì
HL “đã đọc cuốn sách một cách khó nhọc, đã buồn bã suy tư…”. Điều
cần “đính chính” (không phải cho BSNKV mà cho các “tác giả tên tuổi” bị HL
điểm danh) tuy không thật quan trọng, nhưng cũng cần tránh gây hiểu lầm: đó
là ngoại trừ lời khen của ông Hoàng Tùng là dành riêng cho cuốn VNMTLS (in
ở bìa 4 bản in năm 2007 của ThaiHaBoosk), còn nhận xét của bà Nguyễn Thị
Bình và Giáo sư Mai Quốc Liên là viết về toàn bộ tác phẩm của BSNKV – câu
của Giáo sư Mai Quốc Liên trích từ bài viết đăng báo “Sức khỏe & Đời
sống”, ngay sau khi BSNKV qua đời năm 1997, khi bản dịch VNMTLS ra tiếng
Việt chưa xong, nên trong bài, Mai Quốc Liên không có chữ nào nhắc đến
công trình này mà nêu các tác phẩm nổi tiếng khác của BSNKV như Bàn
về Đạo Nho, bản dịch Kiều và bộ tuyển, nghiên cứu văn học…; còn câu
của bà Nguyễn Thị Bình là trích từ bài viết đăng mở đầu cho tất cả các
tập trong bộ Nguyễn Khắc Viện - Tác phẩm, NXB Lao động dự kiến
in nhiều tập, nhưng do “đối tác liên kết” gặp khó khăn, mới chỉ in được 3
tập, tập I ra đời năm 2002… Lúc này, cuốn VNMTLS cũng dịch chưa xong! Ông HL
nhầm, có lẽ do không đủ tư liệu. Nói rõ như vậy, cũng để thấy, giả như
không có công trình VNMTLS, sự đánh giá của các “tên tuổi” cũng như phần
lớn dư luận về BSNKV lâu nay sẽ không thay đổi, mặc dù VNMTLS “vẫn là một
cuốn sách tham khảo có giá trị bằng tiếng nước ngoài về lịch sử Việt Nam”
như “Lời ghi nhận của NXB Thế giới” trong bản tiếng Pháp in năm 2007…
d)- Xin nêu thêm hai chi
tiết thật là nhỏ, nhưng có lẽ cũng cần làm sáng tỏ hơn:
+ Ngay đầu bài viết, HL
trích từ “không gian ảo” một đoạn thư của BSNKV viết ngày 30/11/1986 gửi
Tố Hữu – “một quan đại thần của triều đình, cũng là đại thần của
thi ca cách mạng Việt Nam” và nêu câu hỏi: “… không biết bức thư
của vị “sĩ phu hiện đại” có được gửi đi hay không…”
Về chuyện này, BSNKV đã
nhắc đến trong Hồi ký mới xuất bản, thư đã gửi đi, nhưng nhà
thơ Tố Hữu không trả lời – tức là thư có thật, chứ không “ảo”, hiện
đang lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 3 Hà Nội. BSNKV cho biết ông
viết thư trước Đại hội 6, khi “dư luận giới trí thức nghe tin đồng
chí Tố Hữu có khả năng làm Thủ tướng, chẳng ai vui lòng cả…”. Tuy
vậy, cần “đính chính” một câu mà HL (có lẽ do lấy từ “không gian ảo”)
trích không chính xác. Câu trích của HL như sau: “… Anh mà trở lại
Trung ương, trở lại chức quyền là chôn vùi sự nghiệp thơ trong lòng nhân
dân”. Nguyên văn BSNKV viết: “…Anh mà trở lại Trung ương, Bộ
Chính trị thì bài báo đối ngoại đầu năm tôi phải viết sẽ là bài “La mort
d’un poète”. Chắc không được đăng, nhưng ít nhất cũng được truyền trong một
số bạn” (Mấy từ tiếng Pháp trong đoạn này có nghĩa: “Cái chết
của một nhà thơ”) Sau đó, đồng chí Tố hữu không trúng cử Trung ương,
nên chắc là hai vị nếu gặp nhau ở “thế giới khác” vẫn sẽ “mãi mãi giữ
lấy tình cảm thắm thiết”như câu cuối lá thư BSNKV đã viết…
+ Điều này thì còn nhỏ
nhặt hơn: HL “đặt bên nhau hai cuốn lịch sử của hai tác giả, cuốn “Việt
Nam sử lược” của Trần Trọng Kim và VNMTLS của BSNKV… một nhà giáo khiêm
cung nhận “sử lược”… một “tự hào rằng “một thiên lịch sử”…” Cái
ý mỉa mai của HL thì đã rõ rồi. Chỉ xin nhắc tên nguyên bản tiếng Pháp
là “Vietnam une longue histoire”, chẳng lẽ dịch là “Việt Nam một
cuốn lịch sử dài” là hay hơn sao?...
***
Xin được tự nhận mình như
là “người trong cuộc”, tôi nêu lên một số tư liệu để mọi người có thêm căn
cứ bình xét; còn việc đánh giá VNMTLS, nếu thấy cần thiết, có lẽ Hội
Nghiên cứu lịch sử Việt Nam là cơ quan có tiếng nói có “trọng lượng” nhất. Là
một người không chuyên về sử học, tôi nghĩ rằng bạn đọc nước ngoài (hầu hết
là trí thức) có thừa điều kiện để tìm sách báo viết về Việt Nam, chắc là
không đến nỗi dại hay bị lừa bỏ tiền ra mua sách của BSNKV. Họ cũng thừa
biết BSNKV là một người cộng sản; mặt khác, từ khi Đất nước bước vào Đổi
Mới 1986, với sự lan tỏa nhanh chóng của truyền thông, họ cũng biết BSNKV
là người cộng sản đã thẳng thắn đặt vấn đề xây dựng một “Đảng kiểu mới”
với rất nhiều thư và kiến nghị mạnh mẽ gửi lãnh đạo cấp cao đòi hỏi mở
rộng dân chủ, thay đổi phương thức lãnh đạo… Vậy thì VNMTLS – ngoại trừ
mấy chi tiết HL trích dẫn (và cũng có thể còn vài chi tiết nữa) có thể có
một số nhận định chưa thỏa đáng, “vết tích của một thời” còn “ngây thơ”
như chính BSNKV thừa nhận trong cuốn Hồi ký mới xuất bản, tất cả cộng
lại nhiều lắm chỉ mươi trang, còn 490 trang nữa, hẳn là có “phẩm chất chi
đó” vượt lên sự chi phối của ý thức hệ và sự “nóng lạnh” thất thường
của thời cuộc, cuốn sách mới có thể được in nhiều thứ tiếng và đã in lại đến
7-8 lần!...
Điều cuối cùng, tôi gửi
lời cảm ơn ông HL mà tôi chưa có hân hạnh quen biết vì dù sao bài viết
của HL – tuy có một số điểm không chính xác, một số nhận định không
thỏa đáng – đã tạo cơ hội cho chúng tôi cung cấp một số tư liệu có thể
nhiều người chưa rõ, để có thêm căn cứ khi bình xét công trình VNMTLS cũng
như về sự nghiệp BSNKV, nếu quả là việc đó cần cho hậu thế như HL từng
viết, chứ BSNKV còn cần chi sự tôn vinh nữa! (HL khi trả lời Đinh Thắng đã
viết: “Cụ Viện đã là một nhân vật lịch sử, mọi khen chê với Cụ là vô nghĩa,
nó chỉ thực sự có ý nghĩa với các thế hệ học trò của Cụ thôi”).
N.K.P.
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn
Khắc Phê, 8 Xuân Diệu, Huế. ĐT: 0234.3828399. Mobile: 098.9965409; Email:
ngkphe@gmail.com
Tác giả gửi Nguyễn Huệ Chi,
NHC đề nghị in lại trên BVN. Bài 1 đã in trên Tạp chí Kiến
thức ngày nay số 973, ra ngày 20/8/2017.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét