Giáo dục và quy luật … "Tít mù"
Xuân Dương
"Quy luật Tít mù", nghe trừu tượng
quá. Dân gian có mấy câu thơ nôm na này, rất dễ hình dung: "Con kiến mà
leo cành đa - Leo phải cành cụt, leo ra leo vào - Con kiến mà leo cành đào -
Leo phải cành cụt, leo vào leo ra". Nếu ví Đảng Cộng sản và Chính phủ là
con kiến thì sự nghiệp giáo dục và cải cách giáo dục nói riêng, sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội nói chung của Đảng Cộng sản và Chính phủ chính là cành
đa cụt, cành đào cụt. Ông Xuân Dương có đồng ý vậy chăng?
Bauxite
Việt Nam
|
Liên quan "quy luật Tít mù" trong giáo dục, xin viện dẫn
ý kiến của hai vị bộ trưởng, vị thứ nhất là nguyên Bộ trưởng Trần Hồng Quân, vị
thứ hai là đương kim Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ.
Đọc bài viết của GS Trần Hồng Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và đào tạo, Chủ tịch Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập Việt
Nam "Khốn khó, muốn giữ vẹn nhân cách, tự trọng là không dễ"
trên báo điện tử Giáo dục Việt Nam ngày 14-8-2017 khiến người viết trăn trở
nhiều điều.
Năm 1990, sau khi sáp nhập Bộ Giáo dục với Bộ Đại học, trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề, GS Trần Hồng Quân được bổ nhiệm Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và đào tạo. Là người đứng đầu ngành giáo dục trong một thời gian khá dài,
kinh nghiệm lãnh đạo và những gì chứng kiến tại cơ quan bộ đầu những năm 90 thế
kỉ trước có phải là nguyên nhân khiến vị giáo sư đáng kính phải thốt lên:
"Muốn dự đoán tương
lai của một quốc gia, hãy nhìn vào ngành giáo dục. Muốn dự đoán tương lai của
ngành giáo dục, hãy nhìn vào chính sách của nhà nước và thái độ của xã hội đối
với đội ngũ giáo viên".
Phương pháp "bắc cầu" trong toán học được GS Trần Hồng
Quân sử dụng dẫn tới kết luận thế này: "Muốn
dự đoán tương lai của một quốc gia, hãy nhìn vào chính sách của nhà nước và
thái độ của xã hội đối với đội ngũ giáo viên", bởi lẽ người
thày là yếu tố quyết định nhất đến chất lượng giáo dục, sau đó mới là chương
trình, sách giáo khoa, cơ sở vật chất…
Về thái độ đối với đội ngũ giáo viên, xin không nói đến dư luận
"các lề", chỉ cần nghe, nhìn đài truyền hình tung lên màn ảnh nhỏ câu
chuyện "Nhặt xương cho thầy" là đủ thấy thái độ ứng xử
của ê-kip thực hiện và người lãnh đạo cơ quan này. Điều đáng nói là câu chuyện
châm biếm nghề giáo này được tung lên màn hình tối 19-11-2014, ngay trước ngày
các thày cô kỉ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11 hàng năm.
Năm 2012, chuyên mục Thongtindachieu.tuanvietnam.vietnamnet có bài
"Xin đừng làm tổn thương nhà giáo" của TS Dương Xuân Thành. Bài báo
này hiện vẫn còn lưu tại địa chỉ [1]. Nội dung bài báo nói đến cách thức đối xử
khó hiểu của cơ quan ban hành chính sách với đội ngũ nhà giáo đã nghỉ hưu không
được hưởng chính sách thâm niên theo quy định mới ban hành.
Phê phán các hành vi sai trái là cần thiết song phê phán thế nào
để không gây phản cảm, không tạo nên một cách nhìn phiến diện về nghề dạy học
lại là việc không thể xem nhẹ. Tiếc rằng ngay cả cơ quan quản lí và một số cơ
quan báo chí mới chỉ chú trọng đến hiện tượng mà chưa tìm hiểu kĩ bản chất của
sự việc. Chẳng hạn việc dạy thêm, học thêm luôn là đề tài được quan tâm
song cần phải thấy một thực tế là tình trạng này chủ yếu xảy ra tại thành phố,
thị xã và chỉ với một vài môn học nhất định. Phê phán đội ngũ giáo viên (nói
chung) trong việc dạy thêm là không thỏa đáng.
Về ý kiến "Muốn
dự đoán tương lai của ngành giáo dục, hãy nhìn vào chính sách của nhà
nước" mà GS Trần Hồng Quân đề cập, xin được nêu một
vài dẫn chứng:
Căn cứ Quyết định số 244/2005/QĐ-TTg thì nhà giáo đang trực tiếp
giảng dạy trong các trường đại học, cao đẳng, các học viện, trường bồi dưỡng
của các bộ… được hưởng mức phụ cấp 25%. Tuy nhiên, quyết định này cũng có ngoại
lệ khi quy định: "Mức
phụ cấp 45% áp dụng đối với nhà giáo đang trực tiếp giảng dạy các môn khoa học
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng".
(Baochinhphu.vn ngày 3-12-2012). Cùng một trường, cùng có điều kiện làm việc
như nhau, giảng viên vẫn bị phân biệt đối xử, có người được hưởng phụ cấp gần
gấp đôi người khác, có phải là một chính sách hợp lí?
Ông Đ.Đ.Tr, nguyên Phó chánh văn phòng Bộ Giáo dục và đào tạo, phụ
trách kiến thiết cơ bản dưới thời Bộ trưởng Trần Hồng Quân nhớ lại: Vào tháng
11-1990 (cũng vào dịp ngày Nhà giáo Việt Nam), phòng bảo vệ cơ quan bộ ở phía
đường Đại Cồ Việt bị lực lượng chức năng quận đưa người và phương tiện đến đập
phá. Một số cán bộ văn phòng bộ (tiến sĩ Đ.V.Đ, tiến sĩ N.H.L nay đang làm việc
tại Hiệp hội các trường đại học - cao đẳng ngoài công lập Việt Nam) vẫn nhớ rất
rõ sự kiện này. Nhiều năm sau, mỗi khi có dịp đi qua trụ sở bộ, vết tích đập
phá những năm trước vẫn còn được giữ nguyên vẹn. Chứng kiến tận mắt cảnh tượng
lúc đó, người viết chỉ thầm tự hỏi, nếu đó không phải là trụ sở Bộ Giáo dục mà
là bộ khác, liệu việc hi hữu này có xảy ra?
Là người nhiều năm làm bộ trưởng, chắc chắn GS Trần Hồng Quân hiểu
hơn ai hết những gì mà "chính
sách của nhà nước" dành cho giáo dục.
Nhà nước dành cho giáo dục khoảng 20% tổng chi ngân sách quốc gia
nhưng 80% trong số đó dùng để trả lương, chỉ còn 15% cho các hoạt động khác là
sự bất hợp lí đã được Phó thủ tướng Vương Đình Huệ khẳng định. [2]
Bộ Giáo dục và đào tạo có lẽ là cơ quan đặc thù, không giống bất
kì bộ nào. Trong số 1,24 triệu giáo viên thì hơn 1 triệu giáo viên mầm non và
phổ thông do chính quyền địa phương quản lí, trong số 91.183 giảng viên đại
học, cao đẳng và khoảng 300 nghìn cán bộ quản lí giáo dục các cấp thì phần lớn
cũng do các bộ, ngành, địa phương quản lí. Cùng với đó, ngân sách dành cho giáo
dục được chuyển về các bộ, ngành, địa phương chứ không phải là Bộ Giáo dục và
đào tạo.
Chắc chắn không ít người sẽ nêu câu hỏi vì sao Bộ Lao động -
thương binh và xã hội lại quản lí hai trường đại học sư phạm? Phải chăng lợi
ích của bộ này quan trọng hơn lợi ích quốc gia?
Không được quản lí hầu hết cán bộ trong ngành, cũng không quản lí
(phần lớn) ngân sách chính là tình trạng không biết nên khóc hay nên cười của
Bộ Giáo dục và đào tạo hiện nay.
Ban biên tập đã có nhã ý đưa vào bài của GS Trần Hồng Quân đường
dẫn bài "Việt Nam - giấc mơ 2035: Giáo dục nằm ở đâu?"
được đăng gần 1 năm trước. Bài viết đó tuy nhận được sự quan tâm của độc giả
song không "rầm rộ" như những bài viết về giáo dục trên các phương
tiện truyền thông đại chúng trong 2 tháng qua, sau khi kì thi quốc gia tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển
sinh đại học, cao đẳng năm 2017 kết thúc.
Xin nhắc lại một lần nữa, trong "Báo cáo tổng quan Việt Nam
2035", cả 6 kiến nghị chuyển đổi quan trọng mà các nhà hoạch định chiến
lược của Bộ Kế hoạch đầu tư và Ngân hàng Thế giới đưa ra không có một chữ nào
đề cập lĩnh vực giáo dục.
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai, vậy tại sao cả 6 kiến
nghị chuyển đổi mà Bộ Kế hoạch và đầu tư góp phần soạn thảo lại không nhắc đến
giáo dục?
Chỉ cần đọc tiêu đề 7 chương của báo cáo này đã có thể hiểu được
những người chịu trách nhiệm về kế hoạch và đầu tư của đất nước quan tâm đến
giáo dục như thế nào: Chương I- Ba mươi năm đổi mới và khát vọng Việt Nam;
Chương II- Hiện đại hóa nền kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực
tư nhân; Chương III- Phát triển năng lực đổi mới và sáng tạo; Chương IV- Đô thị
hóa và nâng cao hiệu quả kinh tế; Chương V- Phát triển bền vững về môi trường
và tăng cường khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu; Chương VI- Bảo đảm công
bằng và thúc đẩy hòa nhập xã hội; Chương VII- Xây dựng thể chế hiện đại và nhà
nước hiệu quả.
Có ý kiến cho rằng Báo cáo tổng quan Việt Nam 2035 chỉ là những
kiến nghị của một bộ thuộc Chính phủ chứ không phải là chủ trương của nhà nước,
do vậy việc chưa dành sự quan tâm thích đáng cho giáo dục, đào tạo trong báo
cáo cũng không phải chính sách của nhà nước. Lí luận như vậy liệu có thể chấp
nhận?
Về ý kiến của Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ, chỉ xin đề cập một vài
hoạt động gần nhất của ông về tình trạng tuyển sinh các trường sư phạm.
Chủ trì buổi làm việc với hiệu trưởng các cơ sở đào tạo sư phạm trong cả nước chiều 16-8-2017,
Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đã cho biết: Theo số liệu thống kê đợt 1 xét tuyển đại
học, cao đẳng sư phạm chính quy 2017, trong số 673 ngành đào tạo sư phạm có thí
sinh trúng tuyển có 23 ngành lấy điểm xét tuyển từ 25 trở lên (điểm trúng tuyển
trung bình là 27,75 điểm), 158 ngành lấy điểm xét tuyển từ 20 đến dưới 25 điểm
(điểm trúng tuyển trung bình là 23,35 điểm), 302 ngành lấy điểm xét tuyển từ
15,5 đến dưới 20 điểm (điểm trúng tuyển trung bình là 20 điểm), đặc biệt có 197
ngành tuy lấy điểm xét tuyển dưới 15,5 điểm song mức điểm trúng tuyển trung
bình vẫn đạt 17,5 điểm. Chỉ cần cộng mấy con số 23+158+302+197 đã thấy số ngành
đào tạo sư phạm mà các "quân sư" cung cấp cho Bộ trưởng là 680 ngành
chứ không phải 673. Với số liệu thống kê như vậy, liệu người dân có dám chắc đó
là số liệu chính xác?
Được biết ngay đợt 1 đã có hơn 300.000 trong tổng số 535.000 thí
sinh (đạt điểm sàn 15,5) thay đổi nguyện vọng, vậy số thí sinh thực tế đến nhập
học tại các cơ sở sư phạm đạt bao nhiêu phần trăm?
Ngay cả trường hợp đạt 17,5 điểm cho 4 môn thì bình quân mỗi môn
vẫn chỉ là 4,4 điểm, dưới điểm trung bình theo thang 10. Trong trường hợp này,
nói ngành sư phạm tuyển sinh dưới trung bình liệu có phải là thiếu chính xác?
Mặt khác, nếu quả thật điểm đầu vào ngành sư phạm thấp nhất là
17,5 thì vì sao lại quy định điểm sàn là 12 chung cho mọi ngành mà không quy
định với các trường cao đẳng sư phạm tối thiểu phải là 15, phải chăng khâu dự
báo của bộ có vấn đề?
Còn một câu hỏi khác buộc phải đặt ra là vì sao cứ sau mỗi
"cơn bão" dư luận thì bộ mới vội họp để khắc phục?
Tháng 4-2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số
732/QĐ-TTg về đào tạo giáo viên đến năm 2020. Theo đó, đào tạo bổ sung số giáo
viên đến tuổi nghỉ hưu khoảng 130.000 người, đào tạo tăng thêm khoảng 60.000
người, tổng cộng khoảng 190.000 người. Điều 2 của quyết định ghi rõ:
"Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày kí", nghĩa là ngay từ
năm 2016 Bộ Giáo dục và đào tạo đã phải tuân theo quyết định này. Từ 2016 đến
2020 là 5 năm, theo đúng quyết định thì bình quân mỗi năm số giáo viên được
phép đào tạo vào khoảng 38.000 (190.000 : 5). Năm 2015 đã tuyển 70.000 người
[3], số giáo sinh này sẽ tốt nghiệp vào các năm 2017 (trung cấp), 2018 (cao
đẳng) và 2019 (đại học), điều đó có nghĩa là đều nằm trong chỉ tiêu 190.000
người mà Thủ tướng đã quyết định. Năm 2016 đã tuyển khoảng 65.000 người [4],
năm 2017 dự kiến tuyển 43.000 người. Như vậy chỉ trong 3 năm, số thí sinh tuyển
vào ngành sư phạm đã vào khoảng 178.000. Vậy Bộ Giáo dục và đào tạo làm thế nào
để đến năm 2020 chỉ đào tạo thêm 12.000 giáo viên nữa?
Xin hỏi Bộ trưởng và các vị lãnh đạo Bộ Giáo dục và đào tạo, đặc
biệt là các đơn vị nghiệp vụ cơ quan bộ, liệu các vị có dám khẳng định với
Chính phủ và nhân dân, từ năm 2016 đến 2020 chắc chắn chỉ có 190.000 thí sinh
được tuyển vào ngành sư phạm? Nếu không thực hiện được, các vị có viết đơn từ
chức hay chờ thêm vài ngày cho đến "hoàng hôn nhiệm kì"?
Giáo dục Việt Nam từ chỗ ba cơ quan là Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và
trung học chuyên nghiệp, Tổng cục Dạy nghề sáp nhập thành Bộ Giáo dục và đào
tạo vào năm 1990. Đến năm 2017 này, giáo dục đã trở lại là những mảnh ruộng con
con như thời cải cách ruộng đất. Các bộ, ngành, địa phương, thậm chí các tổ
chức đoàn thể (Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ,…) đều là cơ quan chủ quản các cơ
sở giáo dục.
Sắp tới Bộ Giáo dục và đào tạo có chủ trương sắp xếp lại hệ thống
cơ sở giáo dục, nghĩa là sẽ có sáp nhập, giải thể hoặc xây mới. Nhập rồi tách,
tách rồi lại nhập, đó là vòng tròn luẩn quẩn mà từ năm 1990 đến nay giáo dục
chưa thoát ra được.
Chủ trương, chính sách về giáo dục có quá nhiều, xin nêu vài dữ
liệu: từ năm 2000, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 40/2000/NQ-QH10 về
"Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông"; ngày 2-11-2005, Chính phủ
ban hành Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP về "Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo
dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020"; ngày 4-11-2013, Hội nghị
Trung ương 8 khóa XI ban hành Nghị quyết số 29/NQ-TW về "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo";
năm 2014, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 88/2014/QH13 về "Đổi mới chương
trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông"…
Đảng cứ ra nghị quyết, Quốc hội cứ ra nghị quyết, Chính phủ cứ ban
hành quyết định, còn cái "quyết" cuối cùng thuộc về "bộ chủ
quản".
Chỉ cần nhìn vào số liệu tuyển sinh ngành sư phạm năm 2016, có ý
kiến đặt nghi vấn rằng phải chăng ngành giáo dục không coi trọng quyết định của
Thủ tướng? Vì sao lại có chuyện như vậy?
Câu hỏi này sẽ không có câu trả lời, song có một thực tế do thể
chế chính trị quy định là Thủ tướng không có quyền cách chức bộ trưởng. Chính
vì thế nên dù không thực hiện nghiêm túc quyết định của Thủ tướng, lãnh đạo Bộ
Giáo dục và đào tạo vẫn ung dung tại vị.
Đến lượt mình, phải chăng cũng vì bộ trưởng không có quyền cách chức
thứ trưởng nên đội ngũ dưới quyền bộ trưởng lại "ung dung tại vị"
tiếp? Điều này kéo theo các cục, vụ cho đến nhân viên văn phòng cũng cứ "bình tĩnh" - theo lời kêu gọi của Bộ trưởng?
Một nhà nước pháp quyền lẽ nào lại có chuyện cấp dưới có thể vượt
quyền cấp trên như thế? Một Chính phủ kiến tạo, minh bạch lẽ nào lại tồn tại
một bộ ngang ngạnh như thế? Một đội ngũ cán bộ được đào tạo lí luận chính trị
nghiêm túc lẽ nào lại có những người không biết trách nhiệm và quyền hạn mà
luật pháp quy định với họ thế nào?
Đến đây, có thể thấy sự phát triển của giáo dục Việt Nam dường như
không thuận theo quy luật xoắn ốc của sự phát triển xã hội. Thực tế nó đang vận
hành theo quy luật "tít mù nó lại vòng quanh" chỉ có ở nước Việt mình
ngay từ cuộc cải cách giáo dục lần thứ… trước.
Tài liệu tham khảo:
[2] http://vnexpress.net/tin-tuc/giao-duc/80-ngan-sach-chi-cho-giao-duc-dung-de-tra-luong-3570398.html
X.D
Nguyễn Trọng Bình
Xưa,
thầy giáo Thứ "sống mòn" nhưng vẫn giữ được sự lương thiện, vẫn
nuôi được vợ con ở quê, vẫn được người đời kính nể, trọng vọng. Nay, các thầy
cô phải "bỏ tiền ra để "bôi trơn", "chạy
việc", "thỏa hiệp với những cái xấu, cái giả dối, cái tiêu cực
trong cuộc sống" và "không ít người bị sa ngã, trượt ngã về
sau"... Ôi, bao giờ cho tới ngày xưa!
Bauxite Việt Nam
|
Hình ảnh
người thầy từ hai câu chuyện về giáo dục xưa và nay
Trước năm 1945, có một thầy giáo tên là Thứ làm
nghề dạy học ở một ngôi trường tư thục. Cuộc sống của thầy giáo Thứ thời ấy vô
cùng khó khăn, vất vả. Thầy giáo Thứ có lần tự nói về mình là "giáo khổ trường tư" vì bị chủ trường lừa
dối và bóc lột sức lao động. Tuy cuộc sống nghèo khó vất vả, nhưng lương hàng
tháng mà thầy giáo Thứ nhận được vẫn có thể nuôi sống vợ con ở quê. Đặc biệt,
thầy giáo Thứ vẫn đủ tiền để thuê và nuôi một người ở để sai vặt. Thầy Thứ
không bao giờ phải xách giỏ ra chợ để đi mặc cả từng đồng, từng cắc, vì mọi
chuyện đã có anh người ở lo hết. Tóm lại, tuy cuộc sống khó khăn, vất vả nhưng
trong mắt của người đời và xã hội, những người như thầy giáo Thứ thời ấy vẫn
rất được kính nể, trọng vọng.
Hẳn mọi người sẽ thắc mắc câu chuyện này có thật
không? Xin thưa rằng, câu chuyện này là hoàn toàn có thật. Nếu ai không tin,
xin về đọc lại tiểu thuyết "Sống
mòn" của nhà văn Nam Cao sáng tác trước năm 1945. Theo nhiều nhà
nghiên cứu văn học thì đó là câu chuyện có tính tự truyện của chính nhà văn Nam
Cao lúc bấy giờ.
Xin kể một câu chuyện khác. Cách nay có hơn 10
năm, người viết bài này tình cờ gặp lại cậu học trò cũ. Qua trò chuyện hỏi thăm
mới biết, sau gần hai năm ra trường em mới được trở thành giáo viên chính thức
(trước đây chỉ là giáo viên hợp đồng) ở một ngôi trường huyện. Nhưng chua chát
thay, để được làm ông "giáo khổ trường
công"ấy, cậu học trò cũ phải mất 45 triệu. Lẽ ra là cậu ta
"chỉ" mất tròn 40 triệu sau nhiều lần thương thảo, "cò kè bớt
một thêm hai" với những người có trách nhiệm trong ngành giáo dục địa
phương. Nhưng vì phải qua "môi giới" nên cậu phải "lót tay"
trước 5 triệu coi như tiền "cà phê cà pháo". Cậu học trò tâm sự với
tôi: "Nhận được quyết định bổ
nhiệm của sở em mừng hết lớn thầy ơi! Kệ, coi như em làm không công một vài năm
vậy! Thà vậy còn hơn chứ loay hoay ở ngoài chẳng biết làm gì nuôi vợ con em,
oải quá! Cũng may là nhờ bạn bè, người thân nội ngoại hai bên mỗi người một ít
góp vào cho mượn nếu không chắc em... tiêu!".
Nghe học trò cũ nói "nhận được quyết định bổ nhiệm của sở em mừng hết lớn" mà
muốn rơi nước mắt. Chợt nhớ lại dịp nhà trường tổ chức phát bằng tốt nghiệp cho
sinh viên, lúc lân la hỏi chuyện các em đã xin việc ở đâu chưa, như một lời
thăm hỏi trước lúc thầy trò chia tay, một em nói:
- Giờ xin
việc khó quá thầy ơi! Em rất muốn xin đi dạy học vì đó là ước mơ của em. Nhưng
ở quê em người ta bảo thẳng thừng "muốn vô phải có vài chục
triệu".
Nghe vậy, một em khác chen vào:
- Vậy là
may rồi đó thầy, ở quê em ngoài Bắc, người ta đòi gần cả trăm!
Hệ lụy
tất yếu
Các "chuyên
gia văn học" khi nhận định về tiểu thuyết "Sống mòn" cho rằng qua tác phẩm này, Nam Cao muốn
lên tiếng "tố cáo xã hội" đương
thời vì đã vô lương tâm và thiếu trách nhiệm, nên vô tình đẩy những người trí
thức như thầy giáo Thứ vào bi kịch. Đó là kiếp "sống mòn" - kiếp sống của những người
đã "chết trong lúc đang
sống"...
Tạm thời người viết xin không bàn đến chuyện
đúng sai, thuyết phục hay không thuyết phục về nhận định trên.
Cho dù mọi sự so sánh đều khập khiễng, nhưng tôi
tin nhiều thầy cô hiện nay đang trong tình cảnh khó khăn cả về vật chất lẫn
tinh thần, không khác gì "ông giáo Thứ".
Trước hết có thể thấy, các thầy cô giáo hôm nay
nếu muốn thỏa mãn ước mơ và niềm đam mê của mình để không lãng phí 4 năm trời
ngồi trên giảng đường đại học, họ buộc làm cái điều mà họ không bao giờ ngờ
tới: "Chung chi" cho những
"người có trách nhiệm". Dĩ nhiên không phải tất cả
đều như thế, nhưng phải thừa nhận đây là vấn đề có thật. Nhìn rộng hơn, đây còn
là một thực trạng rất đau lòng và chua xót ở xã hội của chúng ta hôm nay: Muốn
có công ăn việc làm trong cơ quan nhà nước, nếu không thuộc thành phần "con ông cháu cha" thì nhất định phải bỏ
tiền ra để "bôi trơn", "chạy
việc". Nhưng có lẽ điều chua chát hơn là, dù tất cả đều biết rất rõ lương
giáo viên hôm nay chỉ "ba cọc ba đồng", tằn
tiện lắm cũng chỉ nuôi sống bản thân và gia đình (chứ đừng mong gì dư dật mà
thuê người ở như thầy giáo Thứ trong "Sống
mòn") nhưng tại sao nhiều người vẫn muốn chen chân vào?
Câu hỏi có phần nghịch lí này sẽ cho chúng ta
thấy rõ hơn cái bi kịch của các thầy cô giáo hôm nay. Nói cách khác, dù biết
con đường phía trước đầy chông gai nhưng vì niềm đam mê và nhu cầu sinh tồn, họ
không còn cách lựa chọn nào khác là phải thỏa hiệp với những cái xấu, cái giả
dối, cái tiêu cực trong cuộc sống. Đây không chỉ là một "cú sốc" rất lớn đối với các thầy cô giáo vừa
"chân ướt chân ráo" vào
nghề mà ở phương diện nào đó, nó cũng chính là nguyên nhân làm không ít người
bị sa ngã, trượt ngã về sau. Bởi lẽ một suy nghĩ, một sự toan tính đầy thực
dụng tất yếu sẽ nảy sinh sau khi họ trở thành giáo viên chính thức, để "bù đắp" lại những khoản "chung chi"trước đó, nhất là để trang trải cuộc sống vì
đồng lương quá eo hẹp. Hoặc là họ phải tìm đủ mọi cách để được dạy thêm, bất
chấp cái nhìn thiếu cảm thông, thậm chí là lên án, dè bỉu của xã hội. Hoặc tệ
hơn nữa là nhận tiền "bồi dưỡng" từ phía phụ huynh học sinh… nếu như
ai đó không đủ dũng khí, không đủ bản lĩnh để thoái thác và từ chối.
Tóm lại, có thể khẳng định mà không sợ các thầy
cô giáo hôm nay buồn lòng, rằng không ít các thầy cô giáo hiện nay vừa là nạn
nhân nhưng đồng thời còn là nguyên nhân làm cho hình ảnh và vị thế của người
thầy ngày một bị giảm sút, bị "rớt
giá"trong cái nhìn của xã hội nói chung.
Muốn chấn
hưng giáo dục, phải chăm lo cho đội ngũ giáo viên
Tuy vậy, về sâu xa đây cũng chính là hệ lụy tất
yếu từ chính sách lương bổng cùng chế độ đãi ngộ không tương xứng dành cho các
thầy cô giáo hiện nay. Dù muốn dù không, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng đội
ngũ các thầy cô giáo phổ thông hiện nay là những người đang trực tiếp tham gia
chiến lược "trồng người" của
đất nước. Sự thành hay bại của nền giáo dục quốc gia trong tương lai đang nằm
trong tay họ. Thế nên, theo tôi, mọi sự bào chữa nhằm "giảm nhẹ" thực trạng về hình ảnh người giáo viên
đang bị "rớt giá" hiện
nay, nếu không ngụy biện cũng là thiếu thành thật và cố tình né tránh. Vì nói
gì thì nói, một khi đã xác quyết "giáo
dục là quốc sách hàng đầu"thì nhất định không thể để
các thầy cô giáo sống trong sự "nhếch nhác" được. Như thế là xem
thường và thiếu tôn trọng họ.
Ngoài ra, cũng đừng nói rằng ngân sách quốc gia
hiện nay không đủ để nâng lương và cải thiện đời sống cho các thầy cô giáo.
Riêng chỗ này cũng xin các vị lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách về giáo
dục hãy thành thật với nhau và với nhân dân một lần. Thực tế cho thấy thời gian
qua, ngân sách quốc gia dành cho giáo dục hàng năm không phải ít. Vấn đề quan
trọng ở đây là người chi tiêu và cách chi tiêu như thế nào mà thôi. Nghĩa là
các khoản chi ra có hiệu quả không? Có công bằng, có lãng phí, có thất thoát,
có "chui vào túi" riêng của cá nhân không?
Cuối cùng, nếu đã nói "đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục nước nhà" thì nhất định phải từ bỏ và triệt tiêu cái
thói quen, cùng cách nghĩ, cách làm kiểu "hớt ngọn", "đối
phó", "chữa cháy" nhất thời. Như thế là phản giáo dục, phản văn
hóa, rất nguy hại cho dân tộc và đất nước về sau.
N.T.B
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét