Nguyễn Quang Dy
…từ mô hình phát triển để “hóa rồng/hóa hổ” Việt Nam đã biến
thành “con mèo hoang”, với mô hình thất bại. Đó là bài học đắt giá từ những
“diễn biến tiêu cực” trong một thập kỷ qua, làm triệt tiêu thành quả đổi mới
của hai thập kỷ trước đó…
|
“Chỉ có những kẻ khôn ngoan nhất và ngu
xuẩn nhất là không thể thay đổi” (It is only the wisest
and the stupidest that cannot change). (Confucius, 551-479 BC)
Có thể nói ngay (mà chưa cần phân tích) là Việt Nam cô đơn và lạc
trong một trật tự thế giới mới bất an và bất định, của một thế giới “không
phẳng” (xin lỗi Tom Friedman). Nhiều nước cũng khốn đốn (như Venezuela) chứ
không riêng Việt Nam. Nhưng Việt Nam đang trong một tình thế hiểm nghèo (vì
Trung Quốc đè) và có đặc thù riêng cần làm rõ. Chủ nghĩa “đặc thù” (exceptionalism)
và “tiệm tiến” (Gradualism) cùng với chủ nghĩa “cực đoan” (extremism)
và “giáo điều” (dogmatism), chính là những rào cản trước đòi hỏi đổi mới
và tiến bộ. Sau nhiều năm cố gắng đổi mới và hội nhập với thành quả đáng kể,
Việt Nam đang tụt hậu so với láng giềng. Tuy có nhiều tài nguyên và nguồn nhân
lực, nhưng đất nước đang kiệt quệ về tài chính và phụ thuộc vào Trung Quốc. Tuy
hô khẩu hiệu “làm bạn với tất cả”, nhưng Việt Nam vẫn “thân cô thế cô”
(Bill Hayton), bị bắt nạt nhưng không có đồng minh bênh vực. Trong khi sa vào
“bẫy thu nhập trung bình”, Việt Nam vẫn chưa chịu thay đổi thể chế.
Trật tự thế giới mới
Năm 2016 được đánh dấu bởi hiện tượng Brexitism (tại
Anh) và Trumpism (tại Mỹ). Đó là một xu thế mới tạo ra một
bước ngoặt lịch sử, và mở ra một thời kỳ mới, không chỉ đối với Anh mà cả Cộng
đồng Châu Âu, không chỉ đối với Mỹ mà cả thế giới. Toàn cầu hóa đang bị thách
thức bởi chủ nghĩa dân tộc đang trỗi dậy, các giá trị và thành quả của nó đang
bị phản bác. Tự do thương mại bị thay thế bởi chủ nghĩa biệt lập (như America
First). Các giá trị dân chủ tự do (liberal democracy) bị thách thức, và
nhân quyền bị coi nhẹ. Trật tự thế giới đang thay đổi như một số học giả đã
từng cảnh báo trong cuốn “The End of History” (Francis Fukuyama) hay “The
End of Power” (Moises Naim). Tuy có nhiều cách lý giải khác nhau, nhưng hầu
hết đều nhất trí là trật tự thế giới mới bất an và bất định, thậm chí “vô chính
phủ” (Robert Kaplan, “Eurasia’s Coming Anarchy”, Foreign Affairs,
February 15, 2016).
Trong khi phương Tây và Mỹ đi xuống (falling), thì phương Đông đi
lên (rising) với sự trỗi dậy đầy ấn tượng của Trung Quốc. NATO và EU phân hóa
do tác động của Brexitism & Trumpism. Sau khi Anh rút khỏi EU, Pháp cũng
lao đao, còn Đức phải suy nghĩ lại về an ninh của mình. Trong khi đó, Trung
Quốc tranh thủ cơ hội, thách thức Mỹ và trật tự thế giới do Mỹ cầm đầu, với
“Giấc mộng Trung hoa” (China Dream) và bàn cờ lớn “Một Vành đai, Một Con
đường” (One belt, One road). Hiện nay, bán đảo Triều Tiên, Biển Hoa
Đông, và Biển Đông đã trở thành những điểm nóng như “thùng thuốc súng” (powder
kegs). Trước sự trỗi dậy đầy thách thức của Trung Quốc và sự rút lui của Mỹ,
Nhật buộc phải tự lo cho an ninh của mình bằng cách sửa đổi Hiến pháp (điều 9)
để có thể tái vũ trang. Đây là một thay đổi rất lớn trong bức tranh địa chính
trị Đông Á, có thể làm thay đổi cục diện chiến lược tại khu vực.
Trong bối cảnh đó, nhiều nước phải điều chỉnh thể chế và chính
sách để thích ứng với môi trường và trật tự thế giới mới. Nhưng với nhiều
người, thay đổi tư duy “đặc thù” là việc không hề dễ. Người ta vẫn hành xử như
“thời chiến tranh lạnh”, ngộ nhận về quyền lực và vị thế của mình, mà không
lường được hệ quả. Sự ngạo mạn và ngộ nhận quyền lực không đúng lúc, đúng chỗ,
sẽ dẫn đến tai họa. Vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh là một ví dụ.
Mỹ có thể cử biệt đội SEAL xâm nhập Pakistan để tìm diệt Osama Bin
Laden (2/5/2011), và Trung Quốc cũng có thể cử các biệt đội “Săn Cáo” (Fox
Hunt) sang Mỹ và các nước khác để săn lùng các quan chức tham nhũng của họ
đang lẩn trốn. Nhưng Việt Nam không phải là Mỹ hay Trung Quốc. Mình phải tự
biết mình là ai và đang ở đâu. Lúc này, Việt Nam đang trong một tình thế đầy
hiểm nghèo, cả về kinh tế lẫn chủ quyền Biển Đông. Trong một quan hệ bất đối
xứng (asymmetric) các nước nhỏ hơn và yếu hơn càng phải thao lược. Nói cách
khác, đừng nên quá sợ Trung Quốc, nhưng cũng đừng nên coi thường Đức, là đối
tác chiến lược quan trọng nhất trong số các nước EU (nhất là sau khi Mỹ rút
khỏi TPP).
Theo các chuyên gia, Trung Quốc đã ứng dụng “Tam chủng Chiến pháp”
(Three Warfares doctrine) bao gồm “chiến tranh tâm lý” (psywar),
“chiến tranh pháp lý” (lawfare), và chiến tranh truyền thông (media
warfare), để đạt được mục tiêu chiến lược. Theo binh pháp Tôn Tử, thượng sách
là “thắng mà không cần đánh” (winning without fighting). Trung Quốc quen
dọa nạt và bắt nạt (bluffing and bullying) các nước láng giềng tại Biển Đông,
cũng như tại Doklam (nơi đang diễn ra xung đột giữa Trung Quốc với Ấn Độ và
Bhutan). (Brahma Chellaney, “Calling the Chinese bully’s bluff”, Project
Syndicate, August 8, 2017).
Việt Nam đi về đâu
Trong giai đoạn đổi mới lần thứ nhất (từ 1986), đặc biệt là sau
khủng hoảng tài chính Châu Á (từ 1997), khi kinh tế một số nước bị đình trệ thì
Việt Nam nổi lên như “con hổ mới” ở Châu Á. Nhưng đáng tiếc là chưa đầy 10 năm
dưới thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (2006-2016), kinh tế Việt Nam chưa kịp cất
cánh thì đã lụn bại. “Con hổ mới” đã biến thành “con mèo hoang”. Các nhóm lợi
ích thân hữu đã lợi dụng thể chế độc quyền độc đảng để lũng đoạn và tham nhũng,
biến các tập đoàn kinh tế nhà nước (những “quả đám thép”) thành gánh
nặng thua lỗ và nợ nần (như Vinashin). Mô hình kinh tế thị trường “định
hướng XHCN” đã đẻ ra một thứ quái thai là “tư bản đỏ”. Các nhóm lợi
ích được chính quyền bảo kê đã kết hợp “CNXH thân hữu” (là cái vỏ) với CNTB
hoang dã (là cái ruột) trong một cuộc hôn phối vụ lợi. Đoàn tàu cách mạng Việt
Nam đã bị chúng bắt cóc và bẻ ghi chạy theo một hướng khác.
Trong khi Trung Quốc cải cách kinh tế thành công và “cất cánh” với
mô hình phát triển mang “bản sắc Trung Quốc”, được các học giả phương Tây gọi
là “nền độc tài bền vững” (resilient authoritarianism), thì Việt Nam
thất bại. Nguyên nhân vừa do thể chế bất cập (structural gaps) giữa kinh
tế thị trường và định hướng XHCN, vừa do điều hành tồi (operational failure)
và quản trị kém (poor governance) cộng với tham nhũng tràn lan. Một khi
quyền lực và tham nhũng không bị kiểm soát, thì nó sẽ hoành hành như con quái
vật Frankenstein bị xổng. Tư duy “kiểu Việt Nam” dựa trên sự ngộ nhận về tính
“đặc thù” (exceptionalism) và tư tưởng “giáo điều” (dogmatism),
bị các nhóm lợi ích lợi dụng và thao túng để trục lợi.
Cải cách hành chính bị vô hiệu hóa bởi chống đối ngầm (passive
resistance). Luật doanh nghiệp bị gây khó dễ bởi các loại “quy trình” và
“giấy phép con” (thậm chí vi hiến) được các bộ ngành và địa phương đặt ra để
trục lợi (rents seeking). Mọi việc đều bị chính trị hóa. Thói quen tư
duy (mindset) “kiểu Việt Nam”, và cách làm việc “không giống ai” đã bị dập
khuôn thành “quy trình” dựa trên danh nghĩa “hệ tư tưởng XHCN” (như bất khả xâm
phạm), nên rất khó thay đổi. Ví dụ cái “loa phường”, ai cũng biết là đã quá lỗi
thời, nhưng đến tận bây giờ người ta vẫn chưa từ bỏ. Đó là những sản phẩm ý
thức hệ từ thời “chính trị là thống soái”.
Kết quả là tài nguyên thiên nhiên (“rừng vàng biển bạc”) đang cạn
kiệt dần. Trong khi dầu khí, than đá, kim loại (và kể cả cát) sắp hết, thì ô
nhiễm môi trường ngày càng tăng, nhiều nơi tới mức báo động, như bờ biển miền
Trung (bị ô nhiễm bởi Formosa), hoặc không khí ô nhiễm tại Hà Nội. Tài chính
quốc gia đang cạn kiệt: ngân sách thu không đủ chi, dự trữ quốc gia chỉ đủ trả nợ
đến hạn. Chính phủ không biết lấy tiền từ đâu để đầu tư phát triển, trong khi
viện trợ phát triển (ODA) đang cạn dần. Nạn tham nhũng tràn lan đã làm giảm tín
nhiệm của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế, và lòng tin của người dân cũng đang
cạn kiệt. Nhiều người cảm thấy bất an và bất lực đành “bỏ phiếu bằng chân”. Mỗi
năm có khoảng một trăm ngàn người bỏ đất nước ra đi. Họ có thể là doanh nhân,
trí thức, hay quan chức. Dòng người di cư ngày càng đông đã gây ra nạn chảy máu
chất xám và thất thoát tài chính. Cũng như người Trung Quốc, người Việt đang đổ
xô di cư sang Mỹ, Canada, Úc, Anh, và các nước phương Tây khác.
Khủng hoảng kép
Trong tháng 7/2017, có hai sự cố như “khủng hoảng kép” (double
crises) vào thời điểm nhạy cảm, đặt Việt Nam vào thế mắc kẹt. Thứ nhất là khủng
hoảng do khoan dầu tại Biển Đông. Việt Nam đã yêu cầu Repsol ngừng khoan thăm
dò lô 136-03 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trước sức ép của Trung
Quốc đe dọa tấn công các cứ điểm Trường Sa nếu Việt Nam không chịu dừng. Dù
ngừng tạm thời hay lâu dài, Việt Nam khuất phục Trung Quốc về quyền khai thác
dầu khí, do không có đồng minh bảo vệ, và không đủ sức mạnh răn đe. Thứ hai là
khủng hoảng ngoại giao Việt-Đức. Việt Nam đã dùng hạ sách bắt cóc Trịnh Xuân
Thanh tại Berlin và đưa về nước (theo thông báo của phía Đức) “như một bộ
phim hành động thời chiến tranh lạnh”. Đức đã phản ứng mạnh mẽ, lên án Việt
Nam vi phạm luật pháp Đức và quốc tế một cách “trắng trợn” (blatant) và “chưa
từng có” (unprecedented).
Vụ bắt cóc này đang dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng chưa lường
hết, vì cả hai phía đều đang bị mắc kẹt. Chính phủ Đức coi vụ bắt cóc Trịnh
Xuân Thanh là “không thể chấp nhận được” (unacceptable) và “không thể bỏ qua”.
Đức đang đặt mọi phương án trừng phạt Việt Nam lên bàn (và chờ thái độ phản ứng
của Việt Nam), đúng lúc Việt Nam cần Đức ủng hộ Hiệp định tự do thương mại
(EVFTA), cũng như tranh chấp tại Biển Đông. Đức là đối tác chiến lược quan
trọng nhất của Việt Nam tại EU. Đối với Việt Nam, EU là đối tác thương mại lớn
thứ hai sau Trung Quốc và là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai sau Mỹ. Thương
mại song phương Việt-Đức tăng từ $10 tỷ (2006) lên $48 tỷ (2016). Sau khi TPP
bị Mỹ bỏ rơi, thì có lẽ EVFTA là cái phao cứu sinh duy nhất đối với Việt Nam.
Nhưng, Thủ tướng Angela Merkel có thể gây áp lực với các nước EU phủ quyết
EVFTA cho Việt Nam (dự kiến năm 2018).
Hiện nay, Việt Nam đang bị bao vây bởi quá nhiều vấn đề nan giải
(như “thập diện mai phục”). Nhưng nan giải và bức xúc nhất vẫn là vấn đề nợ
công và Biển Đông. Việt Nam làm thế nào để trả nợ và đối phó với nguy cơ vỡ nợ
(nếu mất khả năng thanh toán) hay nguy cơ xung đột Biển Đông do tranh chấp chủ
quyền và khai thác dầu khí (không thể nhân nhượng)? Liệu Trung Quốc có dám tấn
công Trường Sa (như năm 1988) hay chỉ hù dọa bắt nạt Việt Nam, theo kế “rung
cây dọa khỉ” và “bất chiến tự nhiên thành” (trong Binh pháp Tôn Tử)?
Tại hội nghị ngoại trưởng ASEAN-50 (Manila, August 5-8, 2017), mặc
dù bị cô lập trong lập trường về Biển Đông, và trước sức ép của Trung Quốc,
nhưng đoàn Việt Nam vẫn kiên trì đấu tranh. Cuối cùng hội nghị ASEAN vẫn ra
được Thông cáo Chung phản ánh được phần nào quan điểm cứng rắn của Việt Nam về
Biển Đông và về quy tắc ứng xử (COC), làm Trung Quốc tức giận, hủy cuộc gặp
chính thức giữa hai ngoại trưởng. Tuy nhiên, Thông cáo Chung của ba ngoại
trưởng Mỹ, Nhật, Úc (Manila, 7/8/2017) có nội dung và lời lẽ cứng rắn hơn nhiều
so với Thông cáo Chung của các ngoại trưởng ASEAN (6/8/2017). Ba ngoại trưởng
đã lên án hành vi “bồi đắp đảo và quân sự hóa các thực thể đang tranh chấp”, và
kêu gọi “quy tắc ứng xử Biển Đông phải ràng buộc pháp lý, thực chất và hiệu
quả”. (Laura Zhou, “China Vietnam maritime tensions flare as foreign
ministers meeting called off”, SCMP, August 7, 2017
Vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Berlin tuy táo tợn nhưng “chuyên
nghiệp một cách vụng về” (too good too be true). Thứ nhất, họ tiến hành
giữa ban ngày tại công viên có nhiều người qua lại (rất lộ liễu). Thứ hai, họ
để lại smartphone tại hiện trường (có chứng cứ). Thứ ba, họ thuê xe có cài đặt
thiết bị GPS chống trộm (dễ phát hiện). Thứ tư, họ đưa Trịnh Xuân Thanh vào Đại
Sứ quán Việt Nam (theo thông báo của Đức). Không biết đây là do sơ xuất của
những người thực hiện, hay là họ làm theo kịch bản của một đạo diễn “cao tay”,
cố ý diễn kịch để khiêu khích Chính phủ Đức. Có lẽ đây là một nước cờ “gambit”
trong “trò chơi vương quyền” (game of thrones) đầy bí ẩn “kiểu Việt
Nam”, trong khi có “đợt sóng ngầm” (theo Lê Hồng Hiệp) đang diễn ra trước Đại
hội Đảng giữa kỳ. Khủng hoảng ngoại giao do sự kiện này gây ra sẽ tác động tiêu
cực đến quan hệ Việt Nam với Đức (cũng như với EU), làm cho quá trình hội nhập
và hợp tác quốc tế của Việt Nam càng thêm khó khăn. Nó vừa phản ánh khủng hoảng
chính trị và đấu tranh quyền lực tại Việt Nam đã tới đỉnh điểm, vừa bộc lộ
khủng hoảng truyền thông và đấu đá phe phái, với nhiều “tin vịt” (fake news)
làm thật giả lẫn lộn.
Giải pháp khả thi
Gốc rễ của vấn nạn tham nhũng là do chế độ độc quyền, độc đảng, bị
các nhóm lợi ích thân hữu thao túng để trục lợi. Trong một chế độ không có pháp
quyền mà chỉ có đảng trị, thì không thể kiểm soát được quyền lực, vì những
người cầm quyền tự cho mình đứng trên pháp luật và thao túng mọi quyền lực và
nguồn lực xã hội, dẫn đến tha hóa quyền lực, bất công xã hội và mất lòng dân.
Nếu bắt và xử được một Trịnh Xuân Thanh thì sẽ có mười Trịnh Xuân Thanh khác,
nếu không thay đổi thể chế chính trị. Vì vậy, để thúc đẩy cải cách thể chế
(vòng hai), Việt Nam cần tập hợp những “nhân tố thay đổi” (change agents)
trong nước và ngoài nước thành một liên minh những người cùng chủ trương cải
cách thể chế (a coalition of like-minded institutional reformers). Tổ tư
vấn kinh tế của Thủ tướng vừa thành lập là một ý tưởng đúng hướng (nếu đó là
thực chất), vì một Chính phủ “Kiến tạo” (Constructive government).
Đối với Việt Nam, lúc này có lẽ Nhật là đối tác chiến lược quan
trọng nhất làm đối trọng trước sự bành trướng và bá quyền của Trung Quốc tại
Biển Đông, khi Mỹ không còn đáng tin cậy. Nhật không phải chỉ là một cường quốc
kinh tế, mà còn là một cường quốc quân sự, sẵn sàng hỗ trợ các nước Đông Nam Á
duy trì cân bằng quyền lực tại khu vực này. Lợi ích an ninh của Nhật tại Biển
Hoa Đông song trùng với lợi ích chiến lược của họ tại Biển Đông, nên cam kết an
ninh của Nhật đối với Việt Nam và khu vực chắc bền vững và đáng tin cậy hơn.
Vì Chính quyền Trump đã quyết định rút khỏi TPP và có thể giảm cam
kết an ninh với Châu Á, nên việc các nước khu vực hợp tác chiến lược mạnh mẽ
hơn với Nhật càng trở nên thiết yếu hơn bao giờ hết để lấp vào chỗ trống đó.
Các nước không chỉ cần tăng cường quan hệ song phương mà còn phải lập ra một
“Mạng lưới An ninh trên Nguyên tắc” (Principled security network) như
Tổng thống Barack Obama đã từng gợi ý, hoặc một “Mạng lưới Liên kết mở” (Mesh
Networks) như Anne-Marie Slaughter & Mira Rapp-Hooper mới đề cập gần
đây (“How America’s Asian Allies Can Survive Trump”, Project Syndicate,
January 24, 2017).
Cơ chế của một mạng lưới an ninh khu vực như vậy phù hợp với mô
hình an ninh tập thể và đối tác chiến lược, nhằm đảm bảo sự tồn tại bền vững.
Theo Anne-Marie Slaughter, ngay cả khi “một khâu bị đứt thì hệ thống vẫn tồn
tại”. Quan hệ an ninh song phương được tăng cường giữa Nhật với Việt Nam
cũng như các nước khác (như Mỹ, Ấn, Úc) là nòng cốt để xây dựng một “Đối tác
Chiến lược cùng Quan điểm” (Like-Minded Strategic Partnership) bao gồm
Mỹ-Nhật-Ấn-Úc và Việt Nam (AJIA+V). Một liên minh bền vững như vậy là một đảm
bảo thiết yếu cho sự thiếu hụt cam kết an ninh của Mỹ đối với khu vực, cũng như
là một răn đe hiệu quả đối với mối đe dọa ngày càng lớn của Trung Quốc tại Biển
Đông. Trong bối cảnh đó, thỏa thuận Mỹ sẽ cho tàu sân bay thăm Cam Ranh (năm
2018) qua chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch (7-10/8/2017) tiếp
theo chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, (31/5/2017) là một dấu hiệu
răn đe, có thể làm thay đổi cuộc chơi (game changer).
Việt Nam hoặc bất cứ nước nào khác cũng không thể một mình đương
đầu với Trung Quốc. Các nước có cùng lợi ích chiến lược tại Biển Đông phải liên
kết lại trong một liên minh để răn đe và ngăn chặn Trung Quốc bành trướng. Muốn
duy trì hòa bình và ổn định tại Biển Đông, không thể trông chờ vào Trung Quốc
và ASEAN thỏa thuận một bộ quy tắc ứng xử (COC) có hiệu lực. Trong mấy năm nữa,
ít nhất cho đến hết nhiệm kỳ của Tổng thống Donald Trump, khi khu vực còn nghi
ngờ vào các cam kết của Mỹ, nếu các nước này không hình thành được một liên
minh gồm các nước có chung lợi ích chiến lược như vậy, để đối phó với Trung
Quốc, thì sẽ là quá ít và quá muộn (như bài học dưới thời Tổng thống Barack
Obama).
Thay lời kết
Những người cực đoan giống con gà trống. Mỗi lần nó gáy thì thấy
mặt trời mọc, nên nó ngộ nhận tưởng là do mình gáy nên mặt trời mọc. Vì vậy,
nếu nó chưa gáy mà mặt trời đã mọc thì nó rất tức tối, cho rằng mặt trời sai,
chưa gáy đã mọc. Những người cực đoan thường bảo thủ, với tư duy “đặc thù”, nên
không chịu lắng nghe. Họ có xu hướng luôn khẳng định mình là đúng, còn những
người khác là sai. Vì tư duy cực đoan và giáo điều, họ tin rằng chỉ có họ mới
có quyền phán quyết đúng sai. Những ai không giống họ và không theo họ đều bị
coi là phản động và thù nghich. Vì họ không chấp nhận đa nguyên, nên khẩu hiệu
“thêm bạn bớt thù” là vô nghĩa. Nếu không tỉnh ngộ và thay đổi thì Việt
Nam rất khó hội nhập, sẽ cô đơn không có bạn bè mà chỉ có kẻ thù. Ngay bạn bè
và đồng minh cũng có thể biến thành kẻ thù.
Chính quyền Việt Nam tỏ ra quyết liệt chống tham nhũng (tuy nhắm
vào những đối thủ chính trị nhất định) nhưng lại không chịu thay đổi thể chế
chính trị (là nguyên nhân đẻ ra ra tham nhũng). Trong khi chống tham nhũng,
lãnh đạo Việt Nam sợ đánh “vỡ bình” (chế độ) nhưng lại sẵn sàng đánh chìm cái
thuyền kinh tế & đối ngoại (là cái phao cứu sinh). Câu chuyện bắt cóc Trịnh
Xuân Thanh ở Berlin là một ví dụ, bất chấp luật pháp của Đức và quốc tế, có thể
bị Chính phủ Đức trừng phạt, tuy Đức là đối tác chiến lược quan trọng nhất của
Việt Nam tại EU. Khủng hoảng bất ngờ trong quan hệ Đức-Việt thật không đúng lúc
khi Việt Nam rất cần Đức và EU để ủng hộ EVFTA, và bênh vực Việt Nam đối phó
với Trung Quốc tại Biển Đông. Trong khi hô khẩu hiệu “làm bạn với tất cả”,
Việt Nam đang biến một đối tác tốt thành thù địch. Đây là một nghịch lý chết
người, mà chỉ có thể hóa giải được bằng thay đổi thể chế.
Quyền lực và tham nhũng là hai thứ khó kiểm soát, nếu không quyết
thay đổi thể chế bằng cách thay mô hình đảng trị (party rule) bằng pháp
trị (rule of law) và pháp quyền (rule by law). Nếu quyền lực
không bị kiểm soát nó sẽ tiếp tục đẻ ra tham nhũng, do quản trị yếu kém và
thiếu minh bạch. Đó là nguyên nhân chính làm kinh tế thị trường “định hướng
XHCN” bị méo mó, đi trệch đường ray phát triển. Từ mô hình phát triển (growth
model) để “hóa rồng/hóa hổ” Việt Nam đã biến thành “con mèo hoang”, với mô
hình thất bại (failed state). Đó là bài học đắt giá từ những “diễn biến
tiêu cực” trong một thập kỷ qua, làm triệt tiêu thành quả đổi mới của hai thập
kỷ trước đó, làm Việt Nam vẫn sa lầy tại ngã ba đường ý thức hệ.
12/8/2017
N.Q.D.
(Nguyễn Quang Dy là Harvard Nieman Fellow 1993, hiện nay là nhà
báo và nhà nghiên cứu độc lập. Bài này viết theo chủ đề “Việt Nam và trật tự
thế giới mới” để đóng góp làm tài liệu tham khảo cho Hội thảo Hè 2017, và để
đăng trên Viet-studies).
__________
Tham khảo
1. Le Hong Hiep, “Asia’s Evolving Security
Order”, Project syndicate, August 7, 2017
2. Brahma Chellaney, “Calling the Chinese bully’s bluff”,
Project Syndicate, August 8, 2017
3. Laura Zhou, “China Vietnam maritime tensions flare as
foreign ministers meeting called off”, SCMP, August 7, 2017
4. Anne-Marie Slaughter & Mira Rapp-Hooper, “How America’s Asian
Allies Can Survive Trump”, Project Syndicate, January 24, 2017
5. Robert Kaplan, “Eurasia’s Coming Anarchy”, Foreign
Affairs, February 15, 2016
6. Moises Naim, “the End of Power”, Basic Books, New York,
2013
Tác giả gửi cho Hội thảo Hè 2017 và Viet-Studies ngày 13-8-17
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét