PHẠM ĐÌNH TRỌNG
1. NGÔI MỘ NHỎ GÓC VƯỜN QUÊ CỦA NHÀ VUA HIỂN HÁCH VÀ NẤM MỒ ĐẤT
GIỮA RỪNG VẮNG CỦA VỊ TƯỚNG LẪM LIỆT
Ngô Quyền dựng cọc Bạch Đằng đánh
tan quân Nam Hán năm 938 chấm dứt gần ngàn năm ách nô lệ phương Bắc đè lên thân
phận người Việt, trói vào số phận nước Việt. Chiến thắng Bạch Đằng của Ngô
Quyền năm 938 đã dựng lên nền độc lập bền vững cho nhà nước Nam Việt. Ngô Quyền
trị vì trên ngôi Vua tuy ngắn ngủi, chỉ có 6 năm nhưng nhà Ngô đã mở ra những
triều đại huy hoàng Lý, Trần, Lê, Nguyễn, mỗi triều đại kéo dài hàng trăm năm.
Từ đó, cương vực lãnh thổ nước Việt từ Châu Hoan, Châu Ái, từ lưu vực sông
Hồng, sông Mã, sông Chu được mở rộng trải dài từ Hà Giang tới Hà Tiên, ra tận
Phú Quốc, Thổ Chu về phía Nam và Hoàng Sa, Trường Sa về phía Đông. Vì vậy sử
sách Việt Nam gọi Ngô Quyền là “Vua đứng đầu các Vua” của người Việt.
Ngô Quyền có công với dân với
nước Việt lớn như vậy, có vị trí vẻ vang trong trang sử Việt oanh liệt như vậy
nhưng khi làm xong sứ mệnh lịch sử lớn lao, khi thanh thản từ giã cuộc đời, vị
Vua đứng đầu các Vua Việt Nam lại về yên nghỉ dưới nấm mồ bình dị trong mảnh
vườn nhỏ của ông cha trên vùng đất trung du lúp xúp gò đồi xứ Đoài quê nhà.
Không chiếm một mẩu đất sống của dân của nước, không xây lăng tẩm bề thế, không
bia mộ tầng tầng lớp lớp.
Sau này dân làng Đường Lâm xứ
Đoài quê Vua mới góp công, góp của lâp đền thờ vị Vua đứng đầu các Vua ngay trên
nền ngôi nhà Vua sinh ra. Ngôi đền nhỏ bé, khiêm nhường hơn rất nhiều so với
những tòa nhà lầu của người nông dân bình thường hôm nay. Không tượng đồng bia
đá, không lộng lẫy vàng son, vật quí giá nhất trong đền thờ Ngô Quyền là cọc
nhọn Bạch Đằng đã đâm thủng thuyền giặc Nam Hán từ hơn ngàn năm trước, đã đâm
gục nền Bắc thuộc kéo dài gần ngàn năm.
Phía trước đền, cách vài trăm mét
trên sườn dốc gò đồi là ngôi mộ Vua Ngô Quyền, bé nhỏ, đơn sơ, dung dị như một
ngôi miếu dân dã cũng do dân làng quê Vua lập. Đền thờ Vua liền kề ngõ xóm nhà
dân. Mái ngói đền Vua còn thấp hơn mái bằng tòa nhà lầu của người nông dân
trong xóm. Mộ Vua kế bên vườn rau, vạt ngô, ruộng lúa của dân. Diện tích cả đền
và mộ vị Vua đứng đầu các Vua của người Việt chỉ xấp xỉ một sào Bắc Bộ, ba trăm
sáu mươi mét vuông. Ba trăm sáu mươi mét vuông của mái ngói nền nã màu đất
trung du, của sân gạch Bát Tràng rêu phong, của đoạn đường lát đá ong vô cùng
thân thuộc với đời sống hàng ngày của người dân. Ba trăm sáu mươi mét vuông của
màu xanh cỏ cây hòa trong màu xanh mênh mang vô tận của làng quê Việt Nam.
Không có gì khác biệt, không có gì ngăn cách với cảnh sắc, với không gian làng
quê Việt Nam.
Không tốn một xu tiền thuế của
dân cho việc trông coi đền nhưng suốt hơn ngàn năm qua hương khói không ngày
nào tắt trong đền Vua, trước mộ Vua. Suốt hơn ngàn năm qua hồn thiêng Ngô
Quyền, khí phách Ngô Quyền vẫn luôn hiện hữu giữa làng quê trung du yên ả.
Chấm dứt kiếp nô lệ cho dân, kết
thúc ngàn năm Bắc thuộc cho nước, để lại cho nước trang sử vàng độc lập, lập
lên triều đại phong kiến nhà Ngô rồi vua Ngô Quyền thanh thản trở về gửi xác
trong mảnh vườn đồi bình dị quê nhà và gửi hồn trong màu xanh cỏ cây đất nước.
Không phải chỉ có một ông vua
phong kiến Ngô Quyền biết kết thúc cuộc đời của bậc đế vương như một dân
thường. Chỉ số chính xác nhất, rõ rệt nhất, ứng nghiệm nhất về sự thịnh suy của
một triều đại chính là chỉ số về sự gần dân của bậc cai trị. Bậc cai trị nào
cũng từ dân mà ra. Có chức quyền thì thành bậc cai trị nắm vận nước, lo phận
dân. Khi sống chăm lo sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc, dân giầu nước mạnh. Cuộc
đời gần gũi thân thiết với từng số phận người dân. Khi chết, chức quyền giao
lại cho người khác, lại về làm dân, kết thúc đời người lặng lẽ, bình dị như mọi
người dân. Những bậc cai trị đó đã tạo ra những thời huy hoàng của đất nước,
triều thịnh, nước mạnh, dân an vui.
Trong lịch sử Việt Nam từ thời
Hùng Vương đến hôm nay chưa có vị tướng cầm quân nào có chiến công lừng lẫy như
Trần Hưng Đạo. Đạo quân Nguyên Mông hùng mạnh đã chinh phạt, khuất phục cả dải
lục địa từ Á sang Âu. Suốt 30 năm 1258 – 1288, ba lần Nguyên Mông cất quân đông
tướng tài tràn vào đánh Đại Viêt. Ba lần Trần Hưng Đạo thống lĩnh ba quân nhà
Trần đánh giặc Nguyên Mông tan tác, giữ vững nền độc lập của Đại Việt. Vị tướng
lẫm liệt, kiệt xuất để lại công lớn cho dân cho nước, viết lên trang sử Việt
chói lọi như vậy, khi chết cũng chỉ có nấm mồ nhỏ âm thầm trong cánh rừng làng
Vạn Kiếp, bên dòng sông Bạch Đằng lịch sử nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải
Dương.
Ngược lại kẻ cai trị khi sống đã
xa dân vời vợi bằng cuộc sống ăn tàn phá hại, cuộc sống giầu sang có được trên
sự kiệt quệ của nước, trên sự khốn cùng của dân. Khi sống, bòn rút của nước,
cướp bóc của dân. Cả cái chết vẫn còn làm hại nước khi chiếm đất sống của dân xây
mả lớn, đền to ở một cõi riêng, tạo ra cả một không gian thần thánh cho cái
chết của kẻ cai trị đầy tội ác với dân với nước.
2. LĂNG MỘ HOÀNH TRÁNG CỦA ÔNG CÒ
CẢNH SÁT CỘNG SẢN
Cách hôm nay hơn ngàn năm, thời
Ngô Quyền, xã hội Việt Nam còn là thời phong kiến sơ khai. Nhà nước cộng sản
ngày nay thực chất cũng chỉ là nhà nước phong kiến, chỉ khác là: nhà nước cộng
sản không những học đòi tất cả những cái xấu xa, tệ hại của nhà nước phong kiến
mà cái tệ hại phong kiến còn được cô đặc, nâng lên rất cao. Còn những nề nếp
tốt đẹp của phong kiến thì người cộng sản không thể học được. Tuy có học hàm
học vị cao chót vót, giáo sư, tiến sĩ nhưng văn hóa thực sự chỉ là văn hóa bổ
túc công nông, đại học chuyên tu, đại học tại chức, nền tảng văn hóa đó không
thể thấy và không thể học những giá trị, những khuôn mẫu tốt đẹp của xã hội
phong kiến, những người cộng sản cầm quyền mở miệng ra là lên án xã hội phong
kiến thối nát, bất công, nguyền rủa giai cấp phong kiến tội lỗi và những người
cộng sản luôn vỗ ngực tự nhận là đảng cộng sản của họ không có lợi ích nào khác
ngoài lợi ích của nhân dân.
Trả lời cho tuyên truyền lừa bịp
cộng sản không có gì xác đáng, thuyết phục hơn là hiện thực cuộc sống. Từ cuộc
đời hiển hách công trạng để lại cho dân cho nước và cõi trở về trong lòng dân
của ông vua phong kiến Ngô Quyền, của vị tướng phong kiến Trần Hưng Đạo đối
chiếu với cuộc đời mang nặng nợ máu với dân, cuộc đời chiếm đoạt quá nhiều của
dân và cõi trở về ngàn trùng xa cách với dân của ông cộng sản vừa lìa đời, ông
cò cảnh sát cộng sản Trần Đại Quang, để thấy sự giả dối ghê tởm của tuyên
truyền cộng sản và bản chất phản dân hại nước của người cộng sản.
Chưa cần xét đến mức độ kệch cỡm
về thẩm mĩ, sự vung phí nguồn lực của đất nước, sự lạc lõng với thời đại của
lăng mộ lạnh toát màu đá và ngạo nghễ đúng thói kiêu ngạo cộng sản, sừng sững
trên cả trăm ngàn mét vuông đất kim cương giữa kinh kì của ông Vua cộng sản số
một Hồ Chí Minh. Chỉ riêng tiền bảo quản xác ướp ông Hồ mà dân gian gọi là ông
Minh Râu và duy trì hoạt động của cả một Bộ tư lệnh lăng, mỗi tháng đã ngốn
hàng trăm tỉ tiền thuế của dân. Chỉ lăng mộ của một ông cò cảnh sát cộng sản
chiếm hơn sáu mươi ngàn mét vuông đất bờ xôi ruộng mật của người nông dân đồng
bằng Bắc Bộ ngàn đời đói đất cũng thấy sự giả dối, nhẫn tâm và bất lương cộng
sản.
Tuy có hai năm cuối đởi ông cò
cảnh sát leo lên đến tột đỉnh quyền lực, Chủ tịch nhà nước cộng sản, nhưng
quãng đời hai năm ngắn ngủi đó ông Chủ tịch nhà nước cộng sản đã dành phần lớn
thời gian cho những đợt nằm chữa bệnh trong bệnh viện và những chuyến đi tìm
kiếm sự cứu rỗi nơi cửa Phật. Sáu lần nằm bệnh viện tận bên Nhật Bản, mỗi lần
kéo dài cả tháng. Những lần vào điều trị bệnh viện trong nước còn nhiều hơn.
Rồi thời gian tìm đến cửa Phật trong nước, ngoài nước. Đến tận thủ đô Phật giáo
thế giới ở Gaya, bang Bihar, heo hút Tây Bắc Ấn Độ, nơi Đức Phật sống những
ngày cuối cùng của kiếp người hữu hạn, nơi bắt đầu cuộc sống vĩnh hằng của Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni. Tìm đến để gục đầu vào bức tường đá ngôi đền Mahabodhi,
nơi Phật đi vào bất tử, mong Đức Phật đoái thương. Vì vậy dù có hai năm danh
nghĩa là Chủ tịch nhà nước cộng sản nhưng cuộc đời thật sự của ông cộng sản
Trần Đại Quang là cuộc đời ông cò cảnh sát cộng sản. Và hơn sáu mươi ngàn mét
vuông đất ruộng màu mỡ của dân cho năng suất lúa cao đã về tay ông từ thời ông
còn làm cò cảnh sát.
Ngàn đời đói đất, với người nông
dân đồng bằng Bắc Bộ đất là vàng ròng, được tính từng tấc, từng li chứ không
thể hào phóng, xa xỉ tính bằng thước, bằng mét và câu cửa miệng của người dân
mang nỗi đói đất truyền kiếp là: bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu. Không có
đất cày cấy, bố ông cò cảnh sát cộng sản phải mưa nắng lặn sông, lội đầm đơm
đó, đánh dậm kiếm con cua con cá, mẹ ông phải buôn thúng bán bưng, đòn gánh đè
xuống vai, gánh vã nải chuối, thúng khoai, sản phẩm của đất quê đi chợ xa chợ
gần. Vậy mà ngay từ khi còn sống, biết rõ nỗi nghèo khó vì thiếu đất sống của
người dân Kim Sơn, Ninh Bình quê ông, ông cò cảnh sát cộng sản Trần Đại Quang
cũng nỡ chiếm 6,2 hecta, sáu mươi hai ngàn mét vuông đất ruộng màu mỡ, đất sống
của người nông dân đói đất quê ông làm đất chết cho ông, làm khu lăng mộ kì vĩ
cho ông về với tổ tiên của ông.
Thời nhà Nguyễn, dân số cả nước
ta chỉ có mười triệu người. Đất rộng, người thưa, các Vua nhà Nguyễn thời phong
kiến xấu xa, tồi tệ nhưng khi xây lăng mộ cho Vua còn biết nghĩ đến dân, dành
đất sống cho dân. Ngày nay, nhà nước cộng sản Việt Nam đã cắt mười lăm ngàn cây
số vuông đất biên giới phía Bắc, bằng diện tích tỉnh Thái Bình, dâng cho Tàu
Cộng. Rồi những vùng đất rộng lớn đã trở thành đất sang nhượng cho Tàu Cộng như
đất bô xít Tây Nguyên, đất Formosa Vũng Áng, Hà Tĩnh. Những vùng đất đã trở
thành đất chết như đất phủ bùn đỏ ở Tân Rai, Lâm Đồng, đất bụi than Vĩnh Tân,
Bình Thuận. Diện tích đất sống đang mất đi, đang co lại ngày càng lớn. Trong
khi dân số cứ phình ra, đến nay dân số nước ta đã lên tới gần trăm triệu người.
Dân số tăng gấp hơn chín lần so với thời triều Nguyễn. Đất sống của người dân
vô cùng ít ỏi. Vậy mà một ông cộng sản từ khi chỉ là ông cò cảnh sát đã chiếm
sáu mươi hai ngàn mét vuông đất màu của người nông dân đói đất quê ông làm lăng
mộ cho mình.
Khu lăng mộ Vua Khải Định nhà
Nguyễn trên núi giữa thiên nhiên hoang sơ cũng chỉ rộng 5.674 mét vuông. Lăng
mộ của ông cò cảnh sát cộng sản Trần Đại Quang chiếm 62 000, sáu mươi hai ngàn
mét vuông ruộng lúa của dân, rộng gấp 11 lần lăng Khải Định.
Thuê thầy địa lí vạch kênh tạo
dòng chảy, tạo long mạch. Khoanh hồ hứng nước mưa tụ lộc trời. Chỉ riêng việc
đào kênh, kè bờ, vét ao, trồng cây cổ thụ, tạo cảnh quan phong thủy cho khu
lăng mộ và làm con đường nhựa thênh thang dẫn đến lăng của ông cò cảnh sát cộng
sản đã phải đổ ra cả núi tiền, phải tính tới hàng trăm, hàng ngàn tỉ đồng. Nhìn
núi tiền đổ ra dựng lên lăng mả ông cò cảnh sát cộng sản Trần Đại Quang lại
phải nhớ đến lời khai của ông quan tham nhũng Dương Chí Dũng đã phải chi ra cả
triệu đô la tìm kiếm sự che chở của những ông tướng cảnh sát điều tra vụ án
Dương Chí Dũng. Lại phải nhớ đến tên tội phạm Phan Văn Anh Vũ núp danh nghĩa
công an đã chiếm đoạt của nhà nước hàng ngàn tỉ đồng và bóng dáng tên tội phạm
Anh Vũ luôn thấp thoáng, cặp kè phía sau ông cò cảnh sát Trần Đại Quang.
Hàng ngàn tỉ tiền đổ ra cho lăng
mộ ông cò cảnh sát cộng sản trong khi người dân nghèo chỉ mắc bệnh thông
thường, dễ chữa như lao phổi. Ngày nay được chữa kịp thời bệnh lao cũng chỉ như
bệnh cảm cúm. Biết là bệnh lao nhưng không có tiền mua thuốc, không có tiền
viện phí không dám vào bệnh viện. Đến lúc hấp hối đành đánh liều vào bệnh viện
thì đã quá muộn vì lá phổi đã bị vi trùng lao khoét ruỗng rồi, không còn thuốc
nào cứu được nữa. Chết rồi, không có tiền thuê ô tô đưa xác người chết từ bệnh
viện về nhà, người thân đành bó xác chết trong mảnh chiếu rách, buộc xác chết
sau xe máy. Manh chiếu hẹp, hai chân xác chết người nghèo thòi ra ngoài chiếu
cứ lắt lẻo trên suốt chặng đường dài như đôi chân đó đang cuống cuồng chạy trốn
số phận người dân đen trong nhà nước cộng sản.
Nhà nước cộng sản mua sự trung
thành của khẩu súng, của sức mạnh bạo lực bằng ân sủng, bằng biệt đãi, bằng lon
tướng ban phát tràn lan cho công an. Thời lạm phát tướng công an thì ông tướng
Trần Đại Quang cũng chỉ sàn sàn cá mè một lứa giữa hàng trăm ông tướng công an
khác. Vụ nhà nước Dega nổ ra, người dân Ê Đê, Ba Na, Gia Rai Tây Nguyên nổi dậy
đòi quyền sống, đòi quyền làm chủ núi rừng ngàn đời của họ là dịp để ông tướng
công an Trần Đại Quang lấy máu người dân Ê Đê, Ba Na ghi công với nhà nước cộng
sản và bộc lộ lòng trung thành với đảng cộng sản của ông.
Cả cuộc đời làm cò cảnh sát, làm
công cụ bạo lực của nhà nước chuyên chính vô sản, ông cò cảnh sát Trần Đại
Quang đã có công rất lớn với nhà nước cộng sản trong việc duy trì nền độc tài
cộng sản nhưng lại có tội rất lớn với dân, tước đoạt những giá trị làm người
của người dân, trói buộc kìm hãm người dân trong tăm tối nô lệ cộng sản mà nô
lệ cộng sản còn độc ác, man rợ hơn cả nô lệ Bắc thuộc và nô lệ Pháp thuộc. Máu
dân và thân phận nô lệ của người dân đã đưa ông cò cảnh sát Trần Đại Quang lên
tới chức bộ trưởng bộ Công an và lên tới hàm đại tướng. Thời ông cò cảnh sát
Trần Đại Quang là Bộ trưởng bộ Công an đã mở ra thời kiêu binh của công an.
Công an lạm quyền. Bạo lực công an tràn lan. Hàng trăm người dân lương thiện bị
công an đánh chết diễn ra khắp nơi, trên đường phố bình yên, giữa làng quê
thanh bình, trong trụ sở công an, trong trại tạm giam. Dân oan bị quan tham
cướp đất biểu tình ôn hòa đòi đất, người dân yêu nước biểu tình hợp pháp phản
đối giặc Tàu Cộng xâm lược biển đảo đều bị công an vu cho người biểu tình tội
gây rối trật tự công cộng, bị đàn áp dã man, bị bắt giam phi pháp. Phụ nữ bị
đánh chan hòa máu mặt ngay trên đường phố. Đàn ông bị đánh chấn thương sọ não
trong nhà giam.
Tồn tại bằng công cụ bạo lực nhà
nước, nhà nước cộng sản dung túng bao che cho những tội ác tày trời mà đám quân
của ông cò cảnh sát cộng sản Trần Đại Quang đã gây nợ máu với dân và những tội
ác đó đã đưa ông cò cảnh sát Trần Đại Quang lên tới vị trí người đứng đầu nhà
nước cộng sản. Tội ác của ông cò cảnh sát cộng sản Trần Đại Quang đã gây ra cho
dân đã được nhà nước cộng sản dung túng bao che nhưng nhân dân dù bao dung vẫn
đòi hỏi công bằng. Còn lịch sử luôn sòng phẳng và nghiêm khắc sẽ phán xét đảng
cộng sản Việt Nam cùng những lãnh đạo hàng đầu của đảng trong đó có ông cò cảnh
sát Trần Đại Quang tội chống lại nhân dân, chống lại dòng chảy tiến hóa của
lịch sử, tội giam cầm, tù đày nhân dân trong nô lệ cộng sản.
Tượng đồng, tượng đá của Lê nin,
ông trùm cộng sản thế giới đang bị giật đổ, đập nát ở khắp nơi trên những đất
nước đã phải trải qua những năm dài tăm tối cộng sản. Ông cò cảnh sát Trần Đại
Quang chồng chất nợ tự do, nợ máu với dân, một tội đồ của lịch sử Việt Nam thì
lăng mộ hoành tráng của một tội ác như vậy sẽ tồn tại được bao lâu?
3. THẦN THÁNH HÓA TỘI ÁC
Triều đại nào đến hồi suy vi cũng
nảy nòi ra nhiều trò hại dân, hại nước. Chỉ đến triều nhà Nguyễn, triều đại
phong kiến cuối cùng mới có lệ dồn của cải tài nguyên của nước, vắt mồ hôi nước
mắt của dân xây lăng tẩm cho Vua. Dồn dập, hối hả xây lăng tẩm nhưng bảy lăng
tẩm bề thế, trùng trùng lớp lớp đền đài của các Vua nhà Nguyễn cũng không chiếm
một tấc đất ruộng của dân. Không để dân mất đất sống, các Vua nhà Nguyễn đều
chọn những triền núi hoang, không có vườn ruộng của dân, xây lăng mộ.
Là lăng tẩm Vua nhà Nguyễn nhưng
không thấy nhà mồ, chỉ thấy những đền đài mang vẻ đẹp của kiến trúc Phật giáo
Việt Nam, mang thẩm mĩ tinh tế và tài hoa sáng tạo của dân gian Việt Nam đã tạo
ra công trình hài hòa cùng thiên nhiên Việt Nam. Mái ngói rêu phong cổ kính đền
đài thấp thoáng trong màu xanh thiên nhiên, như là một phần tư nhiên của thiên
nhiên vĩnh hằng. Không gian trầm tư của lăng tẩm sâu hút trong tiếng rì rầm bất
tận của rừng cây. Vẻ đẹp kiến trúc lăng tẩm của các Vua triều Nguyễn tô điểm
thêm vẻ đẹp mĩ lệ, huyền ảo cho thiên nhiên đất nước đã trở thành công trình
nghệ thuật của muôn đời, trở thành tài sản văn hóa của nhân dân. Đó là sự đền
bù cho tài nguyên của nước, cho công sức của dân đã đổ ra để có lăng tẩm các
vua nhà Nguyễn.
Thời cộng sản, lăng mộ Hồ Chí Minh,
một nhà mồ đơn độc khổng lồ ngạo nghễ giữa không gian mênh mông kinh kì đã
nghĩa trang hóa, tha ma hóa cả kinh đô ngàn năm văn hiến. Trần trụi, bê tông
hóa cả vùng đất bảng lảng sương khói huyền thoại với chùa Một Cột nhỏ nhắn như
một đóa sen, với núi Nùng chỉ là gò đất giữa ngàn xanh bách thảo nhưng lãng
đãng hơi sương Hồ Tây như thực, như ảo. Nhà mồ Hồ Chí Minh xám xịt, lạnh ngắt
màu đá lạc lõng giữa sắc màu đô thị, lạc lõng giữa thời đại liên tiếp những
cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đưa con người tới nền văn minh tin học, giải
phóng con người khỏi những thế lực thần quyền, con người đã trở thành những
siêu nhân làm chủ cả vũ trụ. Lăng Hồ Chí Minh làm sống lại thế lực thần quyền,
thần thánh hóa một thế lực chính trị phàm tục, đẫm máu dân và đã hết vai trò
lịch sử. Lăng Hồ Chí Minh đưa Hồ Chí Minh lên thành vị thánh của cả nước, dìm
cả một dân tộc đau thương thành thần dân của một thế lực thần quyền, thành nô
lệ của một ông thánh do tuyên truyền cộng sản thêu dệt lên.
Cũng như lăng mả Hồ Chí Minh, lăng
mả Trần Đại Quang cùng lăng mả, nhà bảo tàng, nhà tưởng niệm những nhân vật
cộng sản hàng đầu khác như Trần Phú, Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Phạm
Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh . . . đều nhằm thần thánh hóa con người cộng sản và
tổ chức cộng sản đã gây quá nhiều đau khổ cho dân, đã gây quá nhiều mất mát,
nguy hại cho nước. Lăng mộ Hồ Chí Minh đưa Hồ Chí Minh lên hàng thánh của cả
nước thì lăng mộ Trần Đại Quang sẽ đưa ông cò cảnh sát Trần Đại Quang hai tay
ròng ròng máu dân lên hàng thánh của một vùng quê đồng bằng Bắc Bộ. Rồi lăng mộ
Đỗ Mười, lăng mộ Nguyễn Đức Bình và lăng mộ nhiều ông thủ lĩnh cộng sản kế tiếp
sẽ đưa các ông đó lên hàng thánh ở vùng quê các ông. Từ nay, bầu trời tâm linh
của người dân Việt Nam chỉ có các ông thánh cộng sản và đất sống của người dân
Việt Nam trở thành đất sa mạc chết với trùng điệp, san sát, hiu hắt những lăng
mộ cộng sản.
Lí
tưởng sống của người cộng sản được tô vẽ vô cùng cao đẹp: Người cộng sản không
có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân! Nhưng con người cộng sản trong
cuộc đời thực từ lúc sống đến cả cái chết lại vô cùng thấp hèn. Những người
cộng sản đã lấy máu của hàng chục triệu người dân Việt Nam, đã dìm cả dân tộc
Việt Nam vào cuộc chém giết suốt gần nửa thế kỉ để làm cuộc cách mạng trừ phong
phản đế, diệt trừ phong kiến, đánh đuổi đế quốc giành chính quyền cho người
cộng sản. Khi có chính quyền trong tay, những người cộng sản đã thiết lập một
nhà nước vừa là thế quyền độc ác, tàn bạo hơn cả chính quyền đế quốc xâm lược,
vừa là thần quyền mê muội, tăm tối, ngột ngạt hơn cả thời phong kiến cổ hủ.
Cuộc đời và lăng mộ những người lãnh đạo cộng sản đã chứng minh và ghi nhận về
một thời bất hạnh của giống nòi Việt Nam và một thời đen tối của lịch sử Việt
Nam, thời cộng sản.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét