Quá trình cổ phần
hóa và thoái toàn bộ phần vốn nhà nước tại cảng Quy Nhơn diễn ra nhanh đến bất
thường. Kết cục là khối tài sản đồ sộ của cảng này rơi vào tay một doanh nghiệp
với giá chỉ vài trăm tỉ đồng
Theo chỉ đạo của Phó
Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình, trong những ngày tới, đoàn
công tác của Thanh tra Chính phủ sẽ vào Bình Định để thanh tra toàn diện việc
cổ phần hóa (CPH) cảng Quy Nhơn. Kết quả thanh tra báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước
ngày 1-7-2017.
Tài sản đồ
sộ, định giá 404 tỉ đồng
Cảng Quy Nhơn được
hình thành năm 1976 do Cục Đường biển (Bộ Giao thông Vận tải - GTVT) quản lý.
Đến năm 1993, Bộ GTVT quyết định thành lập doanh nghiệp nhà nước (DNNN) Cảng
Quy Nhơn. Năm 2009, cảng trực thuộc Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines),
đổi tên là Công ty TNHH MTV Cảng Quy Nhơn. Tháng 7-2013, Vinalines phê duyệt
phương án CPH, chuyển Công ty TNHH MTV Cảng Quy Nhơn thành Công ty CP Cảng Quy
Nhơn (QNP).
Trước khi CPH, cảng
Quy Nhơn là một trong những cảng tổng hợp quốc gia, đầu mối khu vực loại 1 của
nhóm cảng biển Nam Trung Bộ với hệ thống 20.960 kho, 48.000 m2 bãi chứa
container. Cùng với đó, cảng có trụ sở làm việc 3 tầng đồ sộ, hàng chục gian
nhà ở và hơn 300.000 m2 đất các loại ngay trong nội thành Quy Nhơn dưới hình
thức thuê đất 50 năm hoặc giao đất không thu tiền sử dụng đất.
Ngoài hạ tầng cơ sở
và diện tích đất bạt ngàn, cảng Quy Nhơn còn có 6 cầu tàu với tổng chiều dài
824 m, trong đó lớn nhất là cầu tàu số 6 có thể tiếp nhận tàu tải trọng 50.000
tấn giảm tải ra vào làm hàng. Theo nhiều chuyên gia về cảng biển, để có thể
tiếp nhận tàu có tải trọng 50.000 tấn, mức đầu tư xây dựng cho riêng cầu tàu
này phải hơn 1.000 tỉ đồng.
Bên cạnh đó, cảng sở
hữu 165 phương tiện, thiết bị chuyên dùng trị giá hàng trăm tỉ đồng, như cần
cẩu có sức nâng từ 7 đến 100 tấn, xe nâng, tàu lai, ô tô tải, xe xúc, xe đào,
trạm cân. Trong đó, riêng cần cẩu bờ di động sức nâng 100 tấn có giá trên thị
trường khoảng 150 tỉ đồng.
Với khối tài sản đồ
sộ như vậy nhưng trước khi CPH, QNP chỉ được định giá hơn 404 tỉ đồng (thời
điểm này QNP có lượng tiền mặt gần 53 tỉ đồng và chỉ nợ ngắn hạn hơn 100 tỉ
đồng). Đáng chú ý, nhiều tài sản, thiết bị của QNP được định giá thấp hơn nhiều
so với giá trị thực tế. Điển hình như hàng chục cần cẩu, xe cẩu, xe nâng, tàu
lai chuyên dụng trị giá hàng trăm tỉ đồng nhưng chỉ được định giá... hơn 1,9 tỉ
đồng.
“Nhà đầu tư
chiến lược” hưởng trọn
Theo Quyết định số
336/QĐ-HHVN ngày 22-7-2013 của Vinalines, quá trình CPH và thoái vốn nhà nước
tại QNP được chia làm 2 giai đoạn. Theo đó, giai đoạn 1 phát hành lần đầu
40.409.950 cổ phần (CP), trong đó nhà nước chiếm 75% vốn điều lệ; người lao
động và tổ chức công đoàn 5%; nhà đầu tư chiến lược 10% và phát hành ra bên
ngoài 10%. Giai đoạn 2, nhà nước giảm tỉ lệ CP nắm giữ xuống còn 49%, thực hiện
trong khoảng thời gian 2014-2015.
Trên cơ sở đó, tháng
9-2013, QNP tổ chức bán đấu giá thành công, bán ra 10% vốn điều lệ cho cổ đông
tự do, tương đương 4,04 triệu CP với mức giá bình quân 12.792 đồng/CP. Ngoài
ra, QNP cũng bán 4,04 triệu CP khác cho “nhà đầu tư chiến lược” là Công ty CP
Đầu tư và Khoáng sản Hợp Thành (gọi tắt: Công ty Hợp Thành; trụ sở ở TP Hà Nội).
Theo Đề án tái cấu
trúc Vinalines giai đoạn 2012-2015 và Quyết định số 37/2014/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại DNNN, QNP nằm trong
diện nhà nước (Vinalines đại diện phần vốn) phải nắm giữ 75% vốn điều lệ. Thế
nhưng, tháng 6-2015, Vinalines bất ngờ chuyển nhượng đợt 2 với 10,5 triệu CP,
tương đương 26,01% tỉ lệ sở hữu QNP cho Công ty Hợp Thành. Chỉ 3 tháng sau,
tháng 9-2015, Vinalines tiếp tục bán toàn bộ phần vốn còn lại trong QNP (19,8
triệu CP với tỉ lệ 49%) cho Công ty Hợp Thành, giúp DN này tăng tỉ lệ nắm giữ
QNP lên 86,23% với tổng trị giá chỉ 440 tỉ đồng.
Đáng nói là trước
khi chuyển nhượng toàn bộ CP cho Công ty Hợp Thành trong đợt 2 và đợt 3, giữa
năm 2015, lãnh đạo QNP có văn bản gửi Vinalines và Bộ GTVT, đề nghị giữ lại 51%
phần vốn nhà nước nhưng không được xem xét. Trong khi đó, tháng 7-2015, khi
đang giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Bình Định, ông Nguyễn Văn Thiện (nay đã nghỉ hưu)
lại có văn bản đề nghị Bộ GTVT khẩn trương bán phần vốn còn lại cho “nhà đầu tư
chiến lược” để tạo nguồn vốn đầu tư, nâng cấp, mở rộng cảng Quy Nhơn (?).
Từng được đề
nghị mua 2.000 tỉ đồng
Tiến sĩ Võ Ngọc Anh,
Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Định, cho
rằng cảng Quy Nhơn có vị trí hết sức đắc địa mà nếu không dựa vào nó để phát
triển kinh tế thì thất sách. “Tôi cảm thấy rất tiếc khi nhà nước đã bán toàn bộ
phần vốn tại cảng Quy Nhơn cho tư nhân. Một khi tư nhân nắm quyền thì họ chỉ
tập trung vào thu hồi vốn còn chuyện khác tính sau ” - ông Anh bày tỏ. Còn theo
ông Nguyễn Hữu Phúc, nguyên Tổng Giám đốc và là thành viên Ban Chỉ đạo CPH QNP,
cảng Quy Nhơn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với an ninh quốc phòng. Vì lý
do này, khi còn đương chức, ông đề nghị giữ lại 51% phần vốn nhà nước chứ không
bán hết 100% cho nhà đầu tư.
Nhiều cựu cán bộ QNP
cho biết thêm trong quá trình CPH, một số DN đến đặt vấn đề mua toàn bộ QNP với
giá khoảng 2.000 tỉ đồng nhưng không được. Thay vào đó, chỉ trong 2 năm
(2013-2015), Công ty Hợp Thành ôm trọn 86,23% CP của QNP chỉ với giá 440 tỉ
đồng.
Ông chủ Công ty Hợp Thành là ai?
Ông chủ Công ty Hợp Thành là ai?
Theo tìm hiểu, người
đang nắm giữ chức Chủ tịch HĐQT Công ty Hợp Thành là ông Lê Hồng Thái, SN 1974,
hiện ngụ tại TP Hà Nội. Trong tỉ lệ 86,23% CP của QNP mà Công ty Hợp Thành sở
hữu, ông Thái nắm giữ 45%; số còn lại đều do vợ, con ông đứng tên, lần lượt là
36% và 19%. Từ năm 2015, sau khi mua phần lớn CP của QNP, ông Thái tiếp tục giữ
chức Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc QNP.
Trước khi mua CP của
QNP, Công ty Hợp Thành là DN chuyên sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác
khoáng sản và kinh doanh bất động sản, chưa có kinh nghiệm trong việc điều hành
cảng biển. Vậy nhưng, chẳng hiểu vì lý do gì, Vinalines lại chọn Công ty Hợp
Thành là “nhà đầu tư chiến lược” để rồi nhanh chóng bán toàn bộ phần vốn nhà nước
tại QNP cho DN này. Vì sao có sự ưu ái bất thường này?
Theo điều tra của
chúng tôi, ông Lê Hồng Thái từng là thành viên HĐQT Tổng Công ty CP Xây lắp Dầu
khí Việt Nam (PVC), cùng thời điểm Trịnh Xuân Thanh là chủ tịch HĐQT. Ngoài ra,
ông Thái còn là Chủ tịch HĐQT Công ty CP Đầu tư Xây lắp Dầu khí Imico (PVC-
IMICO), công ty con của PVC. Thời điểm này, không chỉ PVC mà PVC-IMICO cũng
thua lỗ nghiêm trọng. Tuy nhiên, năm 2013, khi đang thi công cho dự án Nhà máy
Nhiệt điện Thái Bình 2 do PVC làm chủ đầu tư, PVC-IMICO được PVC ưu ái ứng vượt
khối lượng trong hợp đồng gần 77 tỉ đồng. Sau đó, PVC-IMICO không chuyển trả
lại phần vốn ứng, bị PVC “liệt” vào dạng “nợ khó đòi”.
NHÓM PHÓNG VIÊN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét