Tuyết Mai
Đảng Cộng sản Trung
Quốc (ĐCSTQ) thành lập năm 1921, giành được chính quyền năm 1949. Theo thống
kê, có khoảng 80 triệu người Trung Quốc đã bị chết bất thường (bức hại, đói
khổ, hành quyết…) dưới thời cai trị của ĐCSTQ. Con số này nhiều hơn số người
chết trong hai cuộc chiến tranh thế giới. Hãy cùng điểm lại hành trình giết và
giết của ĐCSTQ…
Đoàn AB là một tổ chức thuộc Quốc dân đảng được thành lập tại
Giang Tây vào tháng 12/1926, mục đích nhằm chống lại ĐCSTQ đã chiếm quyền lực
của Quốc dân đảng tại Giang Tây. Tháng 4/1927 Đoàn AB tan vỡ. Nửa sau năm 1930,
ĐCSTQ phát động phong trào chống Đoàn AB và đã giết hại vô số người từng làm
việc cho tổ chức này.
Tháng 12/1930, Quân đoàn 20 Hồng quân Công nông Trung Quốc phát
động binh biến tại Phú Điền – Giang Tây, chiếm thị trấn Phú Điền và thả tất cả
người bị bắt, bắt nhân viên chính phủ bản địa của ĐCSTQ. Ngày 28/3, lãnh đạo
tối cao ĐCSTQ Vương Minh (Wang Ming) cử Bật Nhậm Thời phụ trách khu Xô-Viết
trung ương, tuyên bố biến cố Phú Điền là “bạo
động chống cách mạng”. Ngày 18/4, lãnh đạo binh biến của Quân đoàn 20 bị
bắt trong lúc đi tham gia đàm phán, sau đó bị hành quyết. Tháng Bảy cùng năm,
Quân đoàn 20 bị điều đến trại Bình Đầu Giang Tây và bị quân của Bành Đức Hoài
cùng Lâm Bưu bao vây tước vũ khí, hơn 700 quân bị đưa đi hành quyết.
Sau biến cố Phú Điền, phong trào tấn công Đoàn AB nổi lên cao trào
mới, mức tàn khốc khác thường, “trói tay treo người lên tra tấn, kẻ nào
ngoan cố còn bị dùng dầu lửa thiêu thân, thậm chí dùng đinh đóng tay vào bàn gỗ
và dùng nạt tre đâm vào trong móng tay”. Chỉ trong một thời gian ngắn, mọi
người tại khu Xô-Viết Giang Tây đều sống trong tình trạng nguy hiểm tính mạng,
trong nhiều cơ quan của ĐCSTQ tại khu vực có đến 80 – 90% người trở thành “phần
tử AB”, tổng cộng hơn 70.000 người đã bị giết.
Ông Mao Trạch Đông là người trực tiếp phụ trách trấn áp. Sau này
ĐCSTQ thừa nhận, đa số những người hành quyết đều là người vô tội.
Chỉnh đốn Diên An
Từ đầu năm 1942 đến tháng 4/1945 nổ ra phong trào chỉnh đốn tại
Diên An, đây cũng là phong trào quy mô lớn đầu tiên do đích thân ông Mao Trạch
Đông lãnh đạo, phong trào khủng bố đẫm máu này đã đưa Mao lên địa vị quyền lực
tột đỉnh trong Đảng.
Trong phong trào chỉnh đốn Diên An đã giết hại hơn 1.000 người.
Người bị hại nổi tiếng nhất là trí thức Vương Thực Vị. Ông Vương Thực Vị đến
Diên An vào tháng 10/1937, làm việc tại phòng biên dịch học viện Marx, đã dịch
tổng cộng hơn hai triệu chữ trong bộ tác phẩm kinh điển của Marx. Từ tháng
2/1942, học giả Vương Thực Vị đã viết bài cho các tạp chí Cốc Vũ, Nhật báo Giải phóng, và tạp chí
của Viện Nghiên cứu Trung ương, tố cáo khoảng tối trong “cuộc sống mới” tại
Diên An, đặt vấn đề chế độ đẳng cấp và xu thế quan liêu hóa của ĐCSTQ. Những
bài viết đã khiêu chiến với quan điểm của Mao, và bị liệt vào phần tử chống
cách mạng, đặc vụ ngầm của Quốc dân đảng.
Ngày 1/4/1943, Khang Sinh ra lệnh bắt Vương Thực Vị. Tháng 6/1947,
máy bay của quân Quốc dân đảng đã phá hủy trại giam Vương Thực Vị. Bộ trưởng
Công an ĐCSTQ Khang Sinh và Thứ trưởng Lý Khắc Nông chỉ đạo cho hành quyết bí
mật Vương Thực Vị. Ngày 1/7/1947 tại huyện Hưng – Sơn Tây, học giả Vương Thực
Vị bị đưa đi chém tại một khu hẻo lánh ven sông Hoàng Hà, thi thể bị quăng
xuống sông.
Hiện nay chưa từng có công bố số liệu phong trào chỉnh đốn Diên An
giết chết bao nhiêu người.
Vây khốn thành Trường Xuân
Ngày 13/3/1948, liên quân dân chủ Đông Bắc chiếm Tứ Bình, và
Trường Xuân trở thành một ốc đảo bị quân của ĐCSTQ bao vây. Ngày 7/6/1948, ông
Mao Trạch Đông chính thức cho phép dùng phương án bao vây cắt đường lương thực
tại Trường Xuân. Khẩu hiệu được đề ra: “Không cho kẻ thù tiếp viện lương
thực, cho quân tướng Trường Xuân bị chết đói trong thành”.
Ban đầu Quốc dân đảng không cho phép người dân rời khỏi thành
Trường Xuân, nhưng vì số lương thực trong thành chỉ còn dùng đủ đến cuối tháng
Bảy, vì thế sau đó ông Tưởng Giới Thạch chấp nhận yêu cầu từ ngày 1/8 cho sơ
tán dân chúng. Nhưng ĐCSTQ thực hiện biện pháp “giới nghiêm không cho dân chúng ra
khỏi thành”. Sau ba tháng bao vây, ngày 9/9 Lâm Bưu cùng La Vinh Hoàn, Lưu
Á Lâu, Đàm Chính cùng nhau báo cáo với Mao: “Bao vây đã thu được thành quả,
trong thành đang thiếu lương thực nghiêm trọng… nhiều người dân phải ăn lá cây,
cỏ xanh lót dạ, nhiều người chết đói”.
Học giả Homare Endo lúc 5 tuổi, bà may mắn sống sót trong đợt vây
khốn Trường Xuân, năm 1953 bà theo người thân trở về Nhật Bản, hiện là Giáo sư
danh dự Đại học Tsukuba. Cả đời bà chưa thoát khỏi ám ảnh kiếp sống đói khát
trong thời gian bị vây khốn tại Trường Xuân.
Ông Đoàn Khắc Văn (Duan Kewen), cựu lãnh đạo tỉnh Cát Lâm từng viết
trong hồi ký tả cảnh một người lính của ĐCSTQ trông thấy nạn dân tiến lại gần
đã quát: “Đồng hương, không được tiến lên, các người còn tiến lên chúng tôi
sẽ nổ súng”. Nạn dân khẩn
cầu: “Chúng tôi toàn người dân lương thiện, sao có thể nhẫn tâm ép chúng tôi
chết đói tại đây?” Người lính
kia đáp: “Đây là lệnh của Mao Chủ tịch, chúng tôi không dám chống lệnh”. Một người liều mạng lao về trước, một
tiếng súng “bằng” vang lên…
Ngày 24/10/1948, Nhật báo Trung ương Nam Kinh viết trong bài «Quá
trình phòng thủ Trường Xuân» :
“Theo tính toán thấp nhất, từ cuối tháng 6 – đầu tháng 10, tổng số hài cốt
không dưới 150.000”. Con số người chết đói do phía chính quyền ĐCSTQ thừa
nhận là 120.000 người, trong cuốn hồi ký của Thị trưởng kiêm Giám đốc sở Dân
chính Thượng Truyền Đạo (Shang Chuandao) cũng nhắc đến số liệu này.
Chính phủ Quốc dân đảng từng nhận định hành động bao vây Trường
Xuân của ĐCSTQ đủ cấu thành tội ác chiến tranh.
Cải cách ruộng đất và đàn áp “phản cách mạng”
Tháng 3/1950, ĐCSTQ phát động «Chỉ
thị trấn áp phần tử phản cách mạng», Mao Trạch Đông tuyên bố trong một văn
bản “nhiều nơi sợ sệt không dám giương ngọn cờ giết bọn phản cách mạng”.
Mao chỉ thị “giết phần tử phản
cách mạng, ở nông thôn cần vượt qua tỉ lệ một phần ngàn dân số… ở thành thị nên
ít hơn một phần ngàn”.
Một phần ngàn ở đây chính là chỉ tiêu giết người, nhưng trên thực
tế số người bị giết hại cao hơn nhiều. Theo thống kê của ĐCSTQ, số phần tử
“phản cách mạng” bị giết, cải tạo lao động hoặc quản chế vào khoảng 30 triệu
người.
Theo tài liệu «Phong trào chính trị trong lịch sử ĐCSTQ từ sau
khi kiến quốc» do Phòng nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương Trung Quốc biên
soạn, trong kế hoạch đàn áp “phản cách mạng” từ đầu năm 1949 đến tháng 2/1952,
số người bị đàn áp khoảng 15,8 triệu người, trong đó có khoảng 873.600 người bị
tử hình.
Cùng với phong trào trấn áp “phản cách mạng” sôi sục là phong trào
“cải cách ruộng đất”. Thực tế phong trào này tương tự như lý tưởng “có ruộng
cùng cày” thời Thái Bình
Thiên Quốc. Mục đích thực tế là mượn cớ giết người.
Thời cải cách ruộng đất thường tổ chức hội đấu tranh, lôi địa chủ
và phú nông ra luận tội. Những kẻ luận tội là Đảng viên ĐCSTQ hoặc phần tử tích
cực với Đảng, việc hành quyết thực thi khi kẻ đứng đầu hô to “nên giết!”
Mục đích của phong
trào trấn áp phần tử “phản cách mạng” để củng cố chính quyền mới. Trong hình là
các “địa chủ” bị thanh trừng vào năm 1951 (National Archives).
Quân lính ĐCSTQ hành
quyết “địa chủ” và “phần tử phản cách mạng” tại Phụ Khang – Tân Cương năm 1953
(National Archives)
Theo công bố của ĐCSTQ, đến cuối năm 1952, số “phần tử phản cách
mạng” bị tiêu diệt là hơn 2,4 triệu người, thực tế tổng số quan chức Quốc dân
đảng, nhà giáo và địa chủ bị bức hại lên đến hơn 5 triệu người.
“Tam phản” và “ngũ phản”
Từ năm 1951 – 10/1952, ĐCSTQ triển khai phong trào “Tam phản” và
“Ngũ phản”. “Tam phản” là phong trào “chống tham ô lãng phí” trong doanh nghiệp và cơ quan nhà
nước, “chống chủ nghĩa quan liêu”; “Ngũ
phản” là phong trào “chống hối
lộ, trốn thuế” đối với giới
doanh nghiệp tư nhân, “chống
ăn cắp tài sản quốc gia”, “chống
đánh cắp thông tin tình báo kinh tế quốc gia”.
Phong trào “Tam phản” để xử lý cán bộ ĐCSTQ hủ bại, nhưng rồi
ĐCSTQ cho rằng cán bộ biến chất là do bị nhà tư bản dụ dỗ, hệ quả là sau đó đã
thực hiện “Ngũ phản”. Thực tế “Ngũ phản” chính là cướp tiền của nhà tư bản, là
giết người cướp của. Trong mục «Lịch sử giết người của ĐCSTQ» trong «Cửu
bình» có ghi: “Buổi tối mỗi ngày Thị trưởng thành phố Thượng Hải ngồi trên
ghế xô-pha bưng ly trà nghe báo cáo, hỏi câu hờ hững: Hôm nay có bao nhiêu lính
nhảy dù?” Thực tế ý câu này
là hỏi có bao nhiêu thương nhân nhảy lầu.
Theo số liệu trong «Phong trào chính trị trong lịch sử ĐCSTQ từ
khi kiến quốc» xuất bản năm 1966, có hơn 323.000 người bị bắt trong phong
trào “Tam phản Ngũ phản”, hơn 280 người tự sát hoặc mất tích; có hơn 5.000
người bị liên lụy và hơn 500 người bị bắt trong “phong trào chống Hồ Phong”,
hơn 60 người tự sát, 12 người chết bất thường; sau đó trong phong trào “dẹp
phản động” có khoảng 21.300 người bị phán tội tử hình, hơn 4.300 người tự sát
và mất tích.
Phóng viên Nicholas Kristof của New York Times trú tại Bắc Kinh viết trong «Trung
Quốc thức tỉnh» (China
Wakes): “Theo báo cáo của cựu
Bộ trưởng Công an La Thụy Khanh, từ 1948 – 1955 có bốn triệu người bị hành
quyết”.
Thảm họa “Đại nhảy vọt”
Nhiều triệu người Trung Quốc đã chết bất thường trong thảm họa mất
mùa vào cuối thập niên 50 – đầu 60 thế kỷ 20. Trong hình là cảnh người cha chôn
người con bị chết đói.
Từ 1958 – 1962, Mao Trạch Đông thực hiện kế hoạch “Đại nhảy vọt”,
cưỡng chế tập thể hóa nông nghiệp và chế độ nhà ăn tập thể đã làm số người chết
đói la liệt khắp nơi. Theo con số do Cục trưởng Cục Thống kê Quốc gia Tiết Mộ
Kiều (Xue Muqiao) đưa ra, số lương thực bị hao hụt do những nhà ăn tập thể
khổng lồ này gây ra năm 1958 là 17,5 triệu tấn. Thực tế vụ mùa năm đó không
phải quá tệ, nhưng chỉ sau nửa năm đã xảy ra nạn đói.
Hồ sơ giải mật của ĐCSTQ trong vài năm gần đây đã chính thức thừa
nhận có 37,56 triệu người chết đói trong “Đại nhảy vọt”. Số liệu được giới học
thuật trong và ngoài Trung Quốc thừa nhận là vào khoảng 37 – 43 triệu người
chết đói. Chỉ riêng vùng Tín Dương tỉnh Hà Nam đã chết một triệu người, xảy ra
hiện tượng người ăn thịt người, lịch sử gọi là “sự kiện Tín Dương”.
Mùa đông năm 1959 – mùa xuân 1960 là thời đỉnh cao của nạn người
chết đói, nhưng năm 1959, ĐCSTQ lại xuất khẩu 4,15 triệu tấn lương thực. Số
lương thực này nếu chia cho 30 triệu người thì mỗi được có được 138,6 cân, sẽ
không ai bị chết đói. Năm 1960, ĐCSTQ còn xuất khẩu 2,7 triệu tấn lương thực.
Giết người điên cuồng trong “Cách mạng Văn hóa”
Sau “Cách mạng Văn hóa”, tướng Diệp Kiếm Anh (Ye Jianying) từng
nói: “Cách mạng Văn
hóa” đã chỉnh đốn 100 triệu người, giết chết 20 triệu người. Theo tính toán của
giáo sư R.J. Rummel thuộc Đại học Hawaii (Mỹ)
trong tác phẩm «Thế kỷ sắt máu Trung Quốc» (China ’s Bloody Century) xuất bản
năm 1991, có khoảng 7,73 triệu người chết trong “Cách mạng Văn hóa”.
Trong sách «Phong trào chính trị của ĐCSTQ từ khi xây dựng
chính quyền» viết: Tháng
5/1984 ĐCSTQ thực hiện cuộc điều tra toàn diện kéo dài 2 năm 7 tháng và đưa ra
con số thống kê mới về “Cách mạng Văn hóa”: 17,28 triệu người chết bất thường;
135.000 người bị hành quyết vì tội chống cách mạng; trong “Võ đấu” (1966 –
1969) giết chết 237.000 người, 70.300 người bị thương tật.
Làn sóng giết người đầu tiên vào năm 1966. Tháng Sáu năm đó, dưới
chỉ thị “Quét sạch quỷ trâu
thần rắn”, làn sóng càn quét của Hồng vệ binh từ Bắc Kinh nhanh chóng mở
rộng trên toàn quốc nhằm tra khảo và giết “quỷ
trâu thần rắn”.
Tháng 8/1966, Hồng vệ binh Bắc Kinh đã giết chết 1.772 người. Học
giả Đinh Trữ (Ding Shu) bình luận: “Tại
Trung Quốc đại lục chưa bao giờ có số người chết nhiều trong một thời gian ngắn
như thế, chết vì những dụng cụ tra tấn kiểu cổ đại như côn và dây da. Những
người bị giết bởi những kẻ mà họ không có thù oán gì, học sinh trung học mười
mấy tuổi mang thầy hiệu trưởng, người hàng xóm ra tra tấn đến chết…”.
Trong sách «Tháng Tám khủng bố đỏ», học giả Vương Hữu Cầm
(Wang Youqin) viết: “Nửa sau
tháng 8/1966, hàng loạt người bị tra tấn chết không rõ danh tính cùng bị chất
thành đống tiêu hủy. Hiệu trưởng Cao Vân (Gao Yun) và Bí thư Đỗ Quang (Du
Guang) thuộc Đại học Sư phạm Bắc Kinh đều cùng bị đánh bất tỉnh và mang đi hỏa
thiêu. Người làm việc tại nơi hỏa thiêu phát hiện họ chưa chết nên không thiêu.
Họ lại trở về nhà. Vô số thi thể chất thành đống không thiêu kịp phải ướp băng,
máu và nước trộn lẫn vào nhau”.
Ngày 26/1/1967 xảy ra sự kiện Thạch Hà Tử tại Tân Cương gióng phát
súng đầu tiên trong đợt võ đấu trên toàn quốc mở ra làn sóng giết người thứ
hai. Từ tháng 8/1967, đã nổ ra màn võ đấu quy mô lớn tại các địa bàn Thượng
Hải, Nam Kinh, Trịnh Châu, Trường Xuân, Thẩm Dương, Trùng Khánh và Trường Sa,
đến cuối năm 1968 mới tạm lắng xuống. Quân đội Vân Nam bao vây một tổ chức quần
chúng có tên “đội Điền Tây” và dùng súng máy quét, sau 20 phút hàng ngàn người
của tổ chức này thiệt mạng. Dự tính số người chết trong “võ đấu” khoảng 300.000
– 500.000 người.
«Phong trào chính trị của ĐCSTQ từ khi kiến quốc» ghi lại
có khoảng 237.000 người chết trong đợt võ đấu. Thực tế dự tính số người chết
trong võ đấu khoảng 300.000 – 500.000 người.
Đợt “thanh trừng giai cấp” 1968 – 1969 là cao trào càn quét “quỷ trâu thần rắn” của Chủ
tịch Mao Trạch Đông, cũng là thời kỳ có số người chết nhiều nhất trong “Cách
mạng Văn hóa”. Theo tư liệu, trong hơn 2.000 huyện trên toàn quốc, bình quân
mỗi huyện khoảng 100 người bị hành quyết.
Ngoài những người bị giết hại tàn nhẫn, thời đầu “Cách mạng Văn
hóa” có khoảng 100.000 – 200.000 người vì không cam chịu bị làm nhục nên tự
sát, con số người tự sát này hiếm thấy trong lịch sử thế giới. Nhà văn Ba Kim
nhớ lại:
Mọi người đều sống
như người điên, trông thấy một
người nhảy từ trên lầu xuống cũng
không chút cảm xúc mà trái lại
còn phê bình, dùng những lời lẽ độc địa
chửi người tự sát. Mao Trạch Đông từng nói với bác sĩ Lý Chí Tuy: “Tôi
vui vì thấy thiên hạ đại loạn”.
Ngoài ra còn vô số người dũng cảm lên tiếng phê phán mà bị hại
thân, bị bắn chết hoặc chết oan trong tù. Ông Thái Thiết Căn, Trưởng ban huấn
luyện Học viện Quân sự cao cấp Nam Kinh bị phát hiện có ghi trong nhật ký những
lời bất bình đối với tướng Bành Đức Hoài, thế là lập tức bị bắt. Ngày
11/3/1970, quân lính nhà tù đến mang ông trói lại rồi đọc lệnh bắt, sau đó đọc
luôn lệnh hành hình mà không cho khiếu kiện. Giáo sư Hồng Ân (Hong En), chỉ huy
đoàn nhạc giao hưởng Thượng Hải vì viết xấu về ông Mao Trạch Đông trong «Mao chủ tịch ngữ lục» cũng bị
xử tử hình, trước khi đưa ra pháp trường cổ họng còn bị cắt đứt.
Thảm sát Thiên An Môn
Ngày 4/6/1989, ĐCSTQ đã đàn áp đẫm máu phong trào sinh viên đòi dân
chủ kéo dài hơn 50 ngày gây chấn động thế giới. Đến nay, phong trào Thiên An
Môn vẫn là một đề tài cấm kỵ của ĐCSTQ. Con số người thiệt mạng trong sự kiện
này không được chính quyền Trung Quốc công bố, con số dự tính của các giới đưa
ra không thống nhất.
Chiều ngày 3/6/1989, ĐCSTQ quyết định trấn áp, tuyên bố “bộ đội giới nghiêm có quyền dùng
các biện pháp tự vệ”. Tối hôm đó, Giải phóng quân từ vùng ngoại thành tiến
vào Bắc Kinh.
Sau 10 giờ tối khi quân đội đột nhập vào Bắc Kinh đã bắt đầu bắn
giết dân chúng, ban đầu các sinh viên tưởng quân đội chỉ dùng súng bắn đạn cao
su và hơi cay, không ngờ quân đội lại dùng đạn thật.
Vương Quân Đào (Wang Juntao), người tổ chức phong trào sinh viên
nói: “Tối ngày 3/6 tôi phát hiện có người dùng bạo lực đối với người dân rồi
bỏ chạy, khi đến hiện trường tôi cảm giác có âm mưu gì đó, muốn điều tra, nhưng
thấy mọi người dân bắt đầu nổi giận và dùng gạch đá ném vào quân lính, thế là
quân lính bắt đầu nổ súng từ đường ngoại ô phía tây Bắc Kinh. Họ đi đến đâu thì
bắn đến đó, vô số người trúng đạn thiệt mạng…”
Vương Hữu Tài (Wang Youcai), một trong những người tổ chức phong
trào nói: “Từ quan sát của cá
nhân tôi, khi đó có nhóm sinh viên Đại học Bắc Kinh đã đi các bệnh viện điều
tra, được biết khoảng hơn hai ngàn người thiệt mạng. Dĩ nhiên tôi không có khả
năng chứng minh điều này, vì khi đó tôi đang bị bắt giam”.
Nhà văn Tào Trường Thanh (Cao Changqing) viết: “Trong «Trung
Quốc thức tỉnh» có đề cập số người chết trong sự kiện đàn áp tại Thiên An Môn
do một số Bác sĩ cung cấp thông tin, theo đó số người chết khoảng 400 – 800,
hàng ngàn người bị thương. Cho dù chỉ 400 người cũng vượt quá tổng số học sinh
sinh viên kháng nghị bị chính quyền Trung Quốc giết chết trong cả thế kỷ 19.
Sách cũng dẫn số liệu của Chính phủ Mỹ với khoảng 3.000 người bị thiệt mạng
trong sự kiện này”.
Bức hại Pháp Luân Công
Tháng 7/1999, ĐCSTQ phát động đàn áp những người tập Pháp Luân Công,
khởi đầu giai đoạn bức hại nhân quyền kéo dài gần 18 năm. Ông Giang Trạch Dân
lợi dụng cỗ máy quyền lực nhà nước thực hiện chính sách tận diệt những người
theo Pháp Luân Công.
Theo thống kê chưa hoàn chỉnh của trang mạng Minh Huệ của Pháp
Luân Công cho đến ngày 17/2/2017, khoảng 4.075 người tập Pháp Luân Công bị hại
chết, còn số người bị mổ cướp nội tạng còn ghê rợn hơn. Ngoài ra, còn có hàng
triệu người bị bắt bớ, bị cưỡng bức lao động phi pháp. Trang Minh Huệ cũng nhận
định, vì tình hình bức hại bị che giấu nên con số người bị hại thực tế còn
khủng khiếp hơn nhiều.
Những người theo tập Pháp Luân Công bị hành hạ đến chết trong các
trại giam, trại cưỡng bức lao động, nhà tù, các trung tâm tẩy não và bệnh viện
tâm thần. Họ bị đủ hình thức tra tấn như bị đánh, điện giật, tiêm thuốc độc, cố
định ghế hổ, hãm hiếp… khiến vô số người bị thương tật. Rất nhiều vụ thảm án đã
lan truyền ra nước ngoài phơi bày tội ác của ĐCSTQ.
Ngày 23/6/2000, Washington
Post đưa tin vụ thảm án của
Kỹ sư máy tính Trung Quốc đại lục Tô Cương (Su Gang, 32 tuổi) vì theo tập Pháp
Luân Công. Ngày 25/4/2000, Tô Cương bị bắt vì đi Bắc Kinh khiếu kiện; ngày 23/5
Tô Cương bị ép vào bệnh viện tâm thần. Ông Tô Đức An, cha của Tô Cương nói, mỗi
ngày hai lần họ tiêm cho Tô Cương thứ thuốc gì đó không rõ, sau một tuần thì Tô
Cương không thể ăn uống và đi lại bình thường. Ngày 10/6, Tô Cương chết vì suy
tim.
Anh Trần Tương Duệ (Chen Xiangrui, 29 tuổi) người tỉnh Hồ Nam bị đánh
chết vì theo Pháp Luân Công. Ngày 11/3/2003, công an thành phố Hành Dương đã
bắt anh Trần Tương Duệ về đồn và tra tấn điện, dùi cui sắt, gậy cao su, trong
tình trạng lục phủ ngũ tạng thương tổn nghiêm trọng, Trần Tương Duệ qua đời vào
sáng hôm sau.
Tháng 3/2006, nhân chứng Anne đã tiết lộ câu chuyện về tội ác mổ cướp nội tạng những người theo Pháp Luân Công trước
giới truyền thông nước ngoài. Sau đó, Luật sư nhân quyền David Matas nổi
tiếng quốc tế và cựu Ngoại trưởng Canada phụ trách vấn đề Châu Á-Thái
Bình Dương David Kilgour đã được mời để tiến hành một cuộc điều tra độc lập.
Tháng 7/2006 họ công bố báo cáo điều tra gồm 53 bằng chứng về tội ác mổ cướp nội tạng và khẳng định “đây là tội ác chưa
từng có trên hành tinh này”.
“Tổ chức Thế giới Điều tra đàn áp Pháp Luân Công” đã thực hiện
điều tra hơn 10 năm và thu được nhiều chứng cứ (tài liệu và ghi âm) chứng minh:
Ông Giang Trạch Dân đã dùng toàn bộ cỗ máy nhà nước kết hợp với thế lực xã hội
đen tạo thành mạng lưới giết người cướp
nội tạng kiếm lợi
nhuận rộng khắp. Theo phân tích của tổ chức này, vì nhiều người sau khi bị giết
đã bị thiêu hủy thi thể nên rất khó biết chính xác số người bị giết lấy nội tạng mang bán là bao nhiêu.
T.M. (T/H)
Tài liệu tham khảo:
1. «Lịch sử giết
người của ĐCSTQ» trong «Chín bình luận về ĐCSTQ», Epochtimes xuất bản tháng
12/2004.
2. «Năm 60 Trung
Quốc đẫm máu: Ghi chép về tội ác giết người của ĐCSTQ» Tùng Lãm Trung Quốc
(Chinainperspective) xuất bản tháng 9/2009.
3. Lãnh Đào: «Mao
Trạch Đông: Lông vũ cuối cùng của ‘hệ thống thăng bằng’ ĐCSTQ», Đài Phát thanh
Quốc tế Hy Vọng ngày 17/1/2017.
4. Đường Ngọc Vi
(Tang Qiwei): «Kể bạn nghe về chân tướng sự kiện Thiên An Môn 1989», Đài Á châu
Tự do ngày 3/6/2009.
5. Xuyên Nhân
(Chuan Ren) «Sự thật lịch sử về cuộc chiến bao vây Trường Xuân», Nhìn Trung
Quốc, ngày 1/4/2012.
6. Trương Chính
Long (Zhang Zhenglong): «Tuyết trắng máu đỏ», Nhà xuất bản Thiên Địa Đồ Thư
(Hồng Kông), năm 2002.
7. Diệp Quan Tinh
(Ye Guanqing): «Từ ba năm Đại nhảy vọt nhìn bộ mặt ma quỷ của ĐCSTQ»,
Epochtimes ngày 11/1/2016.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét