Giáp Văn Dương
Triết lý giáo dục của thời
đại mới phải hướng đến việc đào tạo con người tự do, thay vì đào tạo con người
công cụ như hệ thống giáo dục hiện thời. Con người tự do là đích đến của giáo
dục.
Tôi đã dành 22 năm của cuộc đời mình để đi học.
Trong đó, 17 năm học phổ thông và đại học ở Việt Nam, và 5 năm sau đại học ở
nước ngoài. Trong khoảng thời gian đó, tôi đã trực tiếp trải nghiệm ba nền giáo
dục khác nhau.
Tôi cũng là một phụ huynh có ba con nhỏ. Con đi
học, tôi vì trách nhiệm và vì tò mò mà dành thời gian tìm hiểu chương trình,
rồi học cùng con ở hai quốc gia khác nhau nữa. Vậy tính ra, tôi đã đi qua năm
nền giáo dục Á - Âu, cả trực tiếp và gián tiếp.
Vậy tôi thấy gì khác nhau trong năm nền giáo dục
đó? Và quan trọng hơn, bài học nào sẽ được rút ra từ những trải nghiệm thực tế
đó.
Tôi thấy rằng, dù khác nhau
về văn hóa, thể chế và tôn giáo, nhưng mục tiêu giáo dục nơi đâu cũng chỉ chia
ra thành hai loại: Đào tạo con người công cụ và đào tạo con người tự do.
Hai mục tiêu này không tách bạch tuyệt đối,
thường lồng ghép xen lẫn vào nhau theo chủ ý hoặc vô thức do tập tục. Tùy theo
mức độ công cụ hay tự do nhiều hay ít, mà hệ thống giáo dục đó sẽ tạo ra con người
công cụ hay con người tự do theo cách tương ứng.
Như mọi hệ thống sản xuất khác, một hệ thống chỉ
có thể vận hành trơn tru hiệu quả và không rơi vào hỗn loại khi hình dung đích
xác được sản phẩm đầu ra có những thuộc tính nào. Với giáo dục, thì đó chính là
việc gọi tên triết lý giáo dục thông
qua việc trả lời câu hỏi cốt yếu: Hệ thống giáo dục hướng đến việc đào tạo con người nào?
Câu trả lời cho câu hỏi này không là gì khác, mà
chính là triết lý giáo dục. Chỉ khi nào câu hỏi này được trả lời rõ ràng, dõng
dạc và chính danh thì triết lý giáo dục mới tỏ lộ và trở thành tư tưởng và kim
chỉ nam cho mọi hoạt động của hệ thống giáo dục. Nếu không, giáo dục sẽ rơi vào bế tắc.
Với cách hiểu về triết lý giáo dục như thế, với
việc phân tích nội dung chương trình giáo dục và với những trải nghiệm về hệ
thống giáo dục hiện hành, tôi hoảng hốt nhận ra rằng, triết lý giáo dục của hệ
thống hiện thời là đào tạo con người công cụ.
Đó là lý do vì sao tôi đã gặp nhiều khó khăn khi
ra nước ngoài du học trong những ngày đầu. Tôi gần như phải tự đào tạo lại từ
đầu, không chỉ kiến thức, kỹ năng, mà còn là những quan niệm về bản thân mình
và cuộc sống, và cả những giá trị mà một xã hội cần hướng tới.
Tôi hiểu rất rõ cái giá mà tôi phải trả trong
suốt thời gian đó. Và sau khi tỉnh ngộ ra điều đó, tôi bắt đầu gây dựng và theo
đuổi một triết lý giáo dục mới, phát biểu giản dị rằng: Con người tự do là đích đến của giáo
dục.
Vấn đề đặt ra: Con người tự do là gì? Và vì sao
giáo dục lại cần hướng đến việc đào tạo ra những con người tự do như vậy?
Con người tự do, như tên gọi của nó, thể hiện
trước hết ở việc tự do đi tìm câu trả lời cho câu hỏi cốt yếu “Tôi là ai?” Đó
chính là tự do tư tưởng. Tư tưởng về chính bản thân mình. Con người khác với
con vật ở chỗ con người biết hỏi “Người là gì, tức Tôi là ai?”, còn con vật thì
không. Chính việc tự do đi tìm câu trả lời cho câu hỏi này là cội nguồn của văn
minh nhân loại, hình thành nên nhân tính và xã hội con người.
Mà muốn vậy, điều kiện tiên quyết là họ phải có
được tự do tư tưởng để tư duy và trước khi đi đến câu trả lời cho câu hỏi tôi
là ai của riêng họ đó.
Mà để tư duy hiệu quả và chính xác, họ cần thông
tin như những nguyên liệu đầu vào. Vì thế, tự do tư tưởng đòi hỏi tự do thông
tin như một điều kiện cần. Nếu không có tự do thông tin, sẽ không có tự do tư
tưởng. Trong giáo dục, điều này có nghĩa, học sinh và giáo viên phải được quyền
tiếp cận với các nguồn tư liệu và tài liệu tham khảo khác nhau, thể hiện trước
hết ở nhiều bộ sách giáo khoa khác nhau được lưu hành.
Trong lớp học, học sinh phải được tự do bày tỏ ý
kiến và diễn giải của mình. Nội dung bài học vì thế không được phép đóng cứng
vào một diễn giải cụ thể nào, dù đó là diễn giải của người thầy đáng kính. Nếu
không, học sinh sẽ mắc kẹt vào một diễn giải cụ thể, làm thui chột sáng tạo và
trở nên máy móc. Việc học rõ ràng không phải chỉ là ghi nhớ giải pháp của thầy
cô, mà là tìm được bao nhiêu giải pháp theo cách của riêng mình cho vấn đề mình
đang đối mặt.
Tự do tư tưởng vì thế gắn liền với việc dịch
chuyển nhận thức để không bị đóng cứng vào một nhận thức đã có. Chỉ khi đó,
người học mới có khả năng mở ra những nhận thức mới, tương thích với thời đại
mới, thời đại mà những người sinh ra và dạy dỗ họ không có cơ hội để bước vào.
Việc thi cử khi đó cũng không đi theo hướng có
học thuộc, biết đúng điều đã được dạy để thi hay không, mà trở thành thước đo
cho sự trưởng thành của người học, mà quan trọng nhất là sự trưởng thành trong
tư duy của họ, biểu hiện qua một năng lực cốt yếu: Năng lực tư duy độc lập.
Vì sao như vậy, vì nếu không có năng lực tư duy
độc lập, một người dù đã bạc đầu, vẫn cần phải cậy nhờ đến tư duy của kẻ khác,
do đó trên thực tế vẫn là trẻ vị thành niên. Đất nước không cần nhiều trẻ vị
thành niên bạc đầu như vậy. Đất nước cần những con người trưởng thành, có
tư duy độc lập, để xây dựng một đất nước độc lập và trưởng thành.
Rồi nữa, sau khi có tự do tư tưởng, thì lại phải
có một hình thức nào đó để biểu đạt cái tự do tư tưởng đó, vì thế mà tự do ngôn
luận phải được hình thành. Nếu không, tự do tư tưởng chỉ diễn ra trong đầu của
mỗi cá nhân, bị giới hạn bởi chính nhận thức chủ quan của cá nhân đó, do đó
không mang lại lợi ích gì nhiều cho xã hội.
Con người khác con vật chủ yếu ở khả năng nhận
thức và tư tưởng, trong đó có nhận thức và tư tưởng về chính bản thân mình. Vì
thế, tự do tư tưởng là tầng thứ nhất, là nền móng quan trọng nhất
của con người tự do.
Tầng thứ hai của
con người tự do là tự do lựa chọn. Lựa chọn là cấp độ cơ bản nhất của hành
động. Nhìn thật kỹ chúng ta sẽ thấy mọi hành động có nghĩa đều bắt đầu bằng một
lựa chọn. Ngay cả khi không lựa chọn cũng là một lựa chọn. Vì thế, để cho sức
mạnh và sự hữu ích của tự do tư tưởng được hiện thực hóa, cần thiết phải có tự
do lựa chọn.
Vì sao? Vì sau khi đã có tự do tư tưởng, đã có
thể tư duy độc lập, thì ta phải làm điều gì đó chứ? Không ai trả lương cho
người lao động vì họ biết gì và nghĩ gì trong đầu. Người lao động được trả
lương vì họ tạo ra được giá trị gì cho người sử dụng. Nếu giáo dục chỉ đào tạo
ra những thế hệ học nhiều thi giỏi mà không biết làm việc, không có khả năng
lựa chọn thì rõ ràng nền giáo dục đó đã sai đường.
Với giáo dục, tự do lựa chọn thể hiện trước hết
trong việc được quyền lựa chọn hình thức học tập phù hợp với mình. Vì thế, bên
cạnh những loại hình trường hiện có, loại hình homeschooling, tức học
tại nhà, cần được thừa nhận về mặt pháp lý. Trẻ vì
lý do gì đó, như sức khỏe yếu, mới ở nước ngoài về, hoặc đơn giản là muốn thay
đổi cách học một thời gian, mà chọn hình thức học tại nhà thì cần được thừa
nhận, miễn sao có cơ chế kiểm tra đánh giá.
Quyền tự do lựa chọn còn thể hiện ở việc được lựa
chọn chương trình học tập. Vì lẽ đó, cần phải có nhiều bộ sách giáo khoa, thay
vì chỉ một bộ sách giáo khoa như hiện giờ. Rồi xa hơn thế, người học cần được
quyền lựa chọn giáo viên phù hợp. Vì thế hệ thống giáo dục cần phải tổ chức sao
cho lựa chọn này thực hiện được, ví dụ bỏ biên chế suốt đời. Không thể nào một
giáo viên kém, nhưng vì lý do nào đó, vào được hệ thống giáo dục, thì nghiễm
nhiêm ở đó gần 40 năm cho đến lúc về hưu mà không có cách nào để thay thế.
Tự do lựa chọn được đặt cơ sở trên tự do tư
tưởng. Tự do tư tưởng diễn ra ở bên trong bản thân mình, còn tự do lựa chọn là
sự thể hiện cái tự do bên trong đó ra bên ngoài thông qua lựa chọn. Nhờ đó, tự
do bên trong mỗi người được thể hiện ra đời sống, và hòa cùng tự do của người
khác, trên cơ sở tôn trọng tự do của chính người khác đó.
Nhờ có tự do lựa chọn mà một người có khả năng
tự quyết về cuộc đời mình, do đó làm chủ cuộc đời mình, và do đó tự chịu trách
nhiệm về cuộc đời mình như một hệ quả tất yếu. Đó là sự trưởng thành đích thực.
Đó là điều mà giáo dục hướng tới. Nếu không, xã hội sẽ thì là một tập hợp những
kẻ vị thành niên, dù đầu đã bạc và khi đi học thì điểm cao ngất ngưởng.
Nói cách khác, một người có tự do lựa chọn là
một người đã có khả năng lãnh đạo bản thân, làm chủ cuộc đời mình, và tự chịu
trách nhiệm về sự làm chủ đó. Đó chính là những phẩm chất mà một người học cần
hướng tới. Lãnh đạo bản thân, làm chủ cuộc đời mình là thước đo cho sự trưởng
thành thực sự cho người học.
Sau khi đã có được tự do tư tưởng và tự do lựa
chọn, chúng ta đã thành con người tự do ở cấp độ cơ sở nhất. Nhưng con người
không chỉ có tư tưởng. Con người còn có cơ thể này và muôn vàn cảm xúc và các
trạng thái tinh thần đi kèm. Mỗi sự thay đổi trạng thái của cơ thể, trạng thái
cảm xúc, trạng thái tinh thần thì đều tạo ra một sự trở thành mới.
Nguồn gốc của những sự trở thành mới này là sự tương tác của những gì đang diễn
ra bên trong và bên ngoài mình, cũng như sự kết nối của những gì đang diễn ra
bên trong và bên ngoài mình đó.
Tầng thứ ba của
con người tự do sẽ là tự do trở thành, tức được tự do trong việc quyết định trở
thành người mình chọn để trở thành. Nó bao gồm tự do thân thể, tự do biểu đạt
cảm xúc, tự do biểu lộ tinh thần. Sự thay đổi của chúng chính là sự thay đổi
của chúng ta. Người học phải nhận biết và làm chủ được những sự thay đổi
đó, thông qua lựa chọn trong tự do và sau khi suy xét.
Vì thế, tự do trở thành đặt cơ sở trên tự do lựa
chọn và tự do tư tưởng.
Cho đến nay, tự do thân thể đã được pháp luật
bảo hộ, nhưng nhiều khi còn mâu thuẫn khi triển khai. Quyền tự do thân thể chưa
được nhận thức đúng. Bạo hành trong gia đình và nhà trường, một sự xâm phạm tự
do thân thể điển hình, vẫn xảy ra thường xuyên. Bạo lực học đường bùng phát
cũng là chỉ dấu xấu cho thấy tự do thân thể đã bị xâm phạm ngay trong môi
trường trong sáng nhất là nhà trường.
Còn tự do biểu đạt, dù là cảm xúc hay tinh thần,
gần như ít khi được xét đến. Một phần do văn hóa truyền thống, một phần do giáo
dục đã bỏ qua thứ tự do trở thành này, nên con người không được sống thật với
cảm xúc và các giá trị tinh thần của mình, lại càng không dám biểu đạt chúng ra
cho người khác thấy. Tất cả những điều này đều không tốt cho sức khỏe tâm thần,
cho sức sáng tạo, và rộng hơn là cho một xã hội lành mạnh.
Vì sự trở thành có nguồn gốc từ sự kết nối và
phản ứng với những gì đang diễn ra bên trong và bên ngoài mình, tự do trở thành
vì thế là cơ sở cho sự triển khai việc sống của một người ở trong đời sống. Nhờ
đó, một người có thể tự phát triển bản thân mình, tự hoàn thiện việc sống của
mình trở nên lịch lãm, tinh thông và đẩy việc sống trở thành một nghệ thuật
đáng ngưỡng mộ.
Khi đó, người ấy không chỉ trả lời được câu hỏi
“Tôi là ai?”, mà còn có thể trả lời được câu hỏi cốt yếu khác, như: Ý nghĩa
cuộc sống là gì? Ta đang đi qua cuộc sống này như thế nào? Ta sẽ làm gì với
cuộc đời mình? Trên tất cả, những câu trả lời này sẽ không chỉ đến được từ lý
trí nhờ tự do tư tưởng, mà đến từ toàn bộ khối trải nghiệm của mình ở trong đời
sống, chân thật như một phần của đời sống đang-là.
Tầng thứ tư của
con người tự do là tự do kiến tạo, có được trên nền móng từ ba thứ tự do đã nói
ở trên. Tương lai của một con người, tương lai của một quốc gia, nằm ở thứ tự
do kiến tạo này.
Vì con người ta chỉ có thể sống ở thì hiện tại,
tức ở cái bây-giờ, nên cả bốn tầng bậc tự do này đều diễn ra ở thì hiện tại.
Tuy nhiên, tự do kiến tạo lại có mục tiêu hướng đến tương lai, cụ thể là kiến
tạo một tương lai tốt đẹp hơn so với những gì đang có.
Tự do kiến tạo vì thế là tự do trong việc tư
tưởng, lựa chọn và trở thành một tương lai mới tốt đẹp hơn, hiệu quả hơn, xứng
đáng hơn. Điều này là cần thiết, vì nếu không, mỗi người và do đó cả xã hội, sẽ
chỉ giậm châm tại chỗ mà không tiến lên được bước nào trên hành trình phát
triển.
Tuy nhiên, có được tương lai kiến tạo không hề
dễ. Một người chỉ có thể kiến tạo tương lai nếu tương lai đó đã được kiến tạo
trong tâm trí mình trước hết. Do đó, tự do kiến tạo lại trở về với nền móng ban
đầu của nó, đó là tự do tư tưởng. Không có tự do tư tưởng sẽ không có tự do
kiến tạo.
Vì nhận thức của con người là kết quả của một
chuỗi những trải nghiệm mà họ đã kinh qua, nên họ chịu giới hạn bởi chính những
trải nghiệm họ đã kinh qua đó. Nói cách khác, nhận thức của chúng ta bị giới
hạn bởi chính nhận thức của chúng ta ở trong quá khứ. Vì thế, nếu không ra khỏi
quá khứ, tương lai sẽ bị giam hãm bởi chính quá khứ. Lịch sử của đất nước chúng
ta trong mấy chục năm gần đây đã minh chứng cho điều này, rằng quá khứ vẫn còn
đang ngự trị. Với giáo dục thì điều này lại càng trở nên rõ nét, khi cải cách
giáo dục cứ mãi sa vào sự vụ hết lần này đến lần khác mà không ra khỏi được bế
tắc do chính quá khứ mang lại.
Vì vậy, để có được tự do kiến tạo, giáo dục phải
là cho người học có khả năng vượt qua những rào cản nhận thức gây ra bởi quá
khứ. Nói cách khác, giáo dục phải có khả năng làm cho người học vượt thoát khỏi
những giới hạn do chính giáo dục mang lại. Điều này thể hiện trước hết ở khả
năng thay thế những nhận thức cũ, giá trị cũ, tham chiếu cũ bằng những cái mới.
Nhờ đó, chúng ta có thể vượt qua chính mình để tạo chính mình.
Thực tế cho thấy, ai không làm chủ cuộc sống sẽ
bị cuộc sống làm chủ. Ai không làm chủ tương lai sẽ bị tương lai gạt bỏ ngoài
lề. Tự do kiến tạo vì thế là thứ tự do vượt thoát chính mình để tồn tại và phát
triển.
Một con người tự do như thế, tức một con người
có tự do tư tưởng, tự do lựa chọn, tự do trở thành và tự do kiến tạo, là một
con người của thời đại mới. Và cũng chỉ một con người tự do như thế mới có khả
năng sống một cuộc đời đáng sống, cho mình và xã hội.
Đó là lý do vì sao tôi luôn tâm niệm rằng, triết
lý giáo dục của thời đại mới phải hướng đến việc đào tạo con người tự do, thay
vì đào tạo con người công cụ như hệ thống giáo dục hiện thời.
Con người tự do là đích đến của giáo dục.
G.V.D.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét