Từ Thức
Những người ly khai (dissidents) đang tranh đấu cho nhân
quyền là lương tâm của xã hội, mà bất cứ một quốc gia nào, nhất là những nước
sống dưới ách độc tài, phải ghi ơn. Đó là kết luận của Michel Eltchaninoff, một
triết gia Pháp, sau khi bỏ ra nhiều năm đi gặp và nghiên cứu về các dissidents tại nhiều quốc gia.
Tác giả cuốn ‘Les Nouveaux Dissidents’ (Những người ly khai mới)[1] vừa xuất bản ở Pháp, viết: những người
ly khai là mối kiêu hãnh của xã hội. “Trong
khi mọi người lo lắng cho sự nghiệp, an toàn, quyền lợi và tự do cá nhân, họ
chấp nhận trả giá cho sự phẫn nộ của họ. Bị chà đạp bởi nhà cầm quyền, trước sự
thờ ơ của người đồng hương, họ đứng dậy sau mỗi thử thách và trung thành với lý
tưởng của mình, đôi khi tới kiệt lực”. Eltchaninoff
nghiên cứu về những người mà ông gọi là “dissidents
mới”, bởi vì những người ly khai của thời đại Internet có nhiều điểm khác
với những thế hệ trước, cả về nhân sinh quan lẫn phương pháp tranh đấu.
Trước hết, từ ngữ dissidents, tạm dịch là những người ly khai[2],
từ những năm 90 được dùng để nói tới những người phản kháng chế độ ở Nga cũng
như ở những nước cộng sản khác. Từ 1989, sau khi bức tường Berlin bị đạp đổ,
kéo theo sự sụp đổ của Xô Viết Nga hai năm sau, chữ dissidents được dùng để nói tới những người
ly khai ở khắp nơi, từ Nam Mỹ tới Trung hoa, VN, Miến Điện, Iran… Nelson
Mandela, Aung San Suu Kyi là những khuôn mặt nổi tiếng nhất. Chữ dissidents, từ nguyên thủy, có
tính cách tôn giáo, để chỉ những người thuộc một cộng đồng, một tôn giáo nhưng
muốn đứng ra ngoài, muốn được độc lập. Người dissidents có thể chống đối, phản kháng, hay chỉ
bày tỏ một thái độ bất hợp tác, không đồng tình, đồng lõa.
Những năm 70-80, những người ly khai Nga, đứng đầu là
Soljenitsyne, Sakharov, bị đàn áp, không ai biết tới ở trong nước, nhưng tiếng
tăm lừng lẫy ở nước ngoài, đã khiến cả một thế hệ trí thức Âu Châu tỉnh mộng về
thiên đường xã hội chủ nghĩa. Dần dần tiếng kêu của họ vọng về quốc nội và đã
góp phần vào sự sụp đổ của chế độ CS Nga. Nhưng sau đó, họ biến mất trên chính
trường. Nhiều người kiệt lực sau nhiều năm bị chà đạp dã man. Một số sống ở
ngoài nước. Và những tàn dư của chế độ CS, trở thành mafia đỏ, có tiền, có tổ
chức, trở lại thao túng chính quyền và gạt những người dissidents ra ngoài để dễ làm ăn với nhau. Họ
bị đẩy vào hố quên của lịch sử, giống như những dissidents Trung Hoa sống sót sau vụ thảm sát
Thiên An Môn. Nhưng chế độ CS sụp đổ, không có nghĩa là dân chủ đã thành hình,
tự do là một chuyện đương nhiên.
Trả lời câu hỏi ‘theo ông cái tệ hại nhất của chế độ CS là gì?’,
Adam Michnik, một trí thức phản kháng Ba Lan[3],
nói: là những gì đến sau đó
(ce qui arrive après). Những hỗn loạn đến sau đó. Chế độ
CS đã tàn phá mọi cơ cấu xã hội, mọi giá trị tinh thần, việc xây dựng lại một
xã hội lành mạnh, một chế độ dân chủ là chuyện vạn nan, nếu không chuẩn bị chu
đáo. Dân chủ là một quá trình lâu dài. Chế độ CS sụp đổ, không có nghĩa là dân
chủ thành hình như một phép lạ. Không phải là sự chấm dứt của lịch sử (la
fin de l’histoire), mượn chữ của Fukuyama. Độc tài biến dạng, chế độ vô sản
trở thành một chế độ tư bản man rợ. Xã hội lại cần những dissidents, những người xâm
mình dám ăn dám nói, những Từ Hải “giữa
đường thấy sự bất bình chẳng tha”. Từ
đó, xuất hiện những người ly khai mới, les
nouveaux dissidents.
Chiến thuật gậy ông đập lưng ông
Những người ly khai là những người xuất thân từ trong lòng chế độ.
Eltchaninoff: ‘Andreï
Sakharov, chẳng hạn, là một nhà bác học được kính nể ở Nga, hoàn toàn hoà đồng
với chế độ trước khi tách ra, tố cáo những vi phạm nhân quyền. Người ly khai
không phải là người chống đối từ bên ngoài nhẩy vào. Cái làm cho họ trở thành
đáng sợ, chính ở chỗ họ là người của chế độ mà họ đả kích. Họ là sản phẩm điển
hình, đôi khi gương mẫu, của chế độ. Điều đó khiến sự phản kháng của họ hữu
hiệu hơn, được nghe hơn’. (plus efficace et plus audible). Chữ ly khai, tạm dùng trong bài này
nhấn mạnh đến khía cạnh rời bỏ hàng ngũ của những người như Sakharov.
Eltchaninoff viết, ngoài sự kiện xuất thân từ trong lòng của chế
độ, người ly khai có ba đặc điểm: bất bạo động, hành động với tư cách cá nhân
và hoạt động công khai.
1. Bất bạo động:
‘Những người ly khai là những người triệt để bất bạo động. Họ từ
chối dùng võ khí chống chính quyền, đôi khi vì nguyên tắc, nhiều khi vì chiến
thuật: gây tử thương người của chính quyền đưa tới đàn áp tàn bạo. Những người
kháng chiến đặt chất nổ, giết kẻ thù. Người ly khai không làm chuyện đó’. Họ dùng dư luận, gây tiếng vang, tạo sự
hỗ trợ trong quần chúng, họ đóng vai trò tự vệ để được các hội đoàn nhân quyền
hỗ trợ. Đó là một vũ khí lợi hại trong thời đại Internet.
2. Hành động cá nhân
Theo tác giả, người ly khai không coi mình là một thành phần của
một tổ chức, một đảng viên thi hành chỉ thị của cấp trên. Nếu hoạt động trong
một nhóm, người ly khai không từ bỏ cá tính, không từ bỏ những suy tư cá nhân.
Anh ta hành động vì trái tim, vì một sự bất bình, không phải vì tham vọng. Vì
vậy, rất ít người ly khai đi vào con đường chính trị. ‘Điều đó cắt nghiã tại sao rất ít
người- trừ trường hợp Vaclav Havel-trở thành lãnh tụ (leaders) sau chiến tranh
lạnh’. Điều đó cũng giải
thích tại sao sau khi chế độ sụp đổ, quyền hành vẫn ở trong tay những người của
chế độ cũ.
3. Hoạt động công khai
Người ly khai không vào rừng, vào bưng như người kháng chiến. Hành
động công khai khiến việc đàn áp trở thành dễ dàng, nhưng cũng khiến hành động
của họ chính đáng. Không việc gì phải dấu diếm khi người ta hành động cho quyền
lợi chung và tin mình nắm chính nghĩa.
‘Tóm lại, người ly khai coi sức mạnh của mình ở thái độ bất bạo
động, tôn trọng cá tính và nguyên tắc minh bạch, công khai’.
Như vậy, anh ta hoạt động theo phương pháp nào? Eltchaninoff trả
lời: phương pháp lấy gậy ông đập lưng ông. Dùng võ khí của chính quyền để đánh
chính quyền.
‘Nếu nhà nước tuyên bố tôn trọng luật pháp, người ly khai cương
quyết khẳng định quyền công dân của anh ta và của người đồng hương. Nếu nhà
nước nói tôn trọng người lao động, người ly khai tố cáo những vi phạm quyền
công nhân. Người ly khai là một cao thủ judo: anh ta dùng sức mạnh của đối
phương để quật ngã đối phương mà không cần vũ lực. Vì vậy, anh ta như David,
luôn luôn tìm ra những phương cách mới để đưa người khổng lồ Goliath vào tròng.
Anh ta làm thơ, viết nhạc, vẽ tranh, tổ chức những happenings, những cuộc gặp
gỡ, những nơi tụ họp độc đáo, đưa những sáng kiến ly kỳ’. Anh ta tranh đấu bằng bộ óc, bằng sáng
tạo, khiến nhà cầm quyền không biết đâu mà mò. Sáng kiến càng kỳ cục, càng ngộ
nghĩnh càng hữu hiệu. Nhưng đối kháng không phải là một trò chơi. Nhiều người
ly khai đã trả giá đắt, quá đắt. Cái can đảm và quyết tâm phi thường của họ
khiến ta phải ngả mũ chào. (Viết ‘anh ta’ là một cách nói, cho tiện. Sự thực,
trong số những dissidents có rất nhiều phụ nữ. Chỉ cần nhìn
hàng ngũ phụ nữ đông đảo, ở Việt Nam hay ngay cả những nước Ả Rập, nơi phụ nữ
bị chèn ép. Và họ, phụ nữ, không phải là những người ít can đảm nhất, ít hữu
hiệu nhất).
Một điểm cần nhấn mạnh: thái độ bất bạo động là một nhận xét nơi
những dissidents mà tác giả cuốn sách đã gặp. Không
phải là một kêu gọi bất bạo động. Tranh đấu dưới hình thức nào là sự lựa chọn,
cân nhắc của những người đấu tranh. Cũng như đấu tranh với tính cách cá nhân
cũng chỉ là một ghi nhận (constatation), không phải là một khuyến cáo.
Người đọc vẫn có thể nghĩ hành động muốn mang lại kết quả phải có tổ chức, chỉ
đạo.
Hiện tượng cá nhân có thể giải thích bằng những tiến bộ kỹ thuật:
chúng ta sống trong một thời đại mỗi người, hay một nhóm bạn bè, không cần
phương tiện tài chánh hay kỹ thuật lớn lao, có thể làm một cuốn phim, in một
cuốn sách, ra một diễn đàn, phát hành một băng nhạc, lên Facebook kêu gọi.
Sau khi bức tường Berlin đổ, sau khi Mao chết, sau những Mùa Xuân
Ả Rập, người ta chua chát thấy dân chủ không tự nhiên vác xác tới. Bạo hành
tiếp tục, dưới hình thức khác. Những người ly khai lại rục rịch xuống đường. Đó
là một cuộc trường kỳ kháng chiến.
Eltchaninoff đi nhiều nơi, tới tận chỗ để gặp gỡ những người ly
khai mới. Ông ta đi một vòng Nga, Ukraine, Trung hoa, Tibet, Iran, Palestine,
Mễ, gặp những người chống đối, nhất là những người không được báo chí Tây
phương nói tới. Ông ta nhận xét: giữa người ly khai mới và những người thuộc
thế hệ trước có những điểm tương đồng, nhưng cũng có nhiều điểm rất khác nhau.
Những nguyên tắc căn bản của thế hệ đàn anh vẫn được áp dụng,
nhưng cải tiến để thích ứng với thời đại mới. Bất bạo động không còn là một
triết lý ôn hoà, nhưng là một phương pháp hữu hiệu nhất trước bạo lực. Cá nhân
vẫn là một yếu tố quan trọng. Người ly khai không muốn làm quân cờ cho một tổ
chức. Và, trong thế hệ của iPhone, của Internet, mọi người quay phim, chụp hình
loạn cào cào, muốn hoạt động kín, muốn giữ bí mật là một chuyện ngớ ngẩn. Trái
lại, cách giữ an ninh hữu hiệu nhất là truyền bá tin tức, hình ảnh thật nhanh,
thật rộng. Cái bảo hiểm tính mạng của người tranh đấu ngày nay là vua biết mặt,
chúa biết tên.
5 điểm khác biệt:
Elchaninoff nhận thấy ít nhất 5 điểm khác biệt giữa những người ly
khai mới và những người thuộc thế hệ Sakharov, Havel, hay Mandela:
1. Những người ly khai mới không bị ràng buộc bởi các chủ nghĩa,
các ý thức hệ, lý thuyết của các trí thức lớn. Họ muốn tự do suy nghĩ, không
phải là tín đồ của một chủ nghĩa, đôi khi không có một khuynh hướng chính trị
nào. Đó không phải là những người quá khích, cuồng tín khư khư bám giữ một sự
thực duy nhất.
2. Những phản kháng dựa trên khả năng của một cá nhân, không nhất
thiết phải là một đối tượng chung của đa số. Tranh đấu cho môi trường, cho nữ
quyền, cho công nhân, cho nông dân, cho đồng tính luyến ái, chống kiểm duyệt
Internet, bênh vực dân oan bị cướp nhà, cướp đất, dân lành bị hành hung…
Mỗi người, tùy theo khả năng, cảm tính và sự hiểu biết của mình,
tìm cách cải thiện một góc cạnh nào đó của xã hội. Họ thực tế, không viển vông
như đàn anh. Nhận xét này của tác giả rất đáng quan tâm. Sự hình thành của dân
chủ ở các nước Âu Châu khởi đầu bằng những đòi hỏi nhiều nhóm, nhiều giai cấp
xã hội. Giới quý tộc đòi quyền lợi cho quý tộc, giới tu sĩ cho tu sĩ. Nông dân
đòi quyền lợi cho nông dân, thương gia, kỹ nghệ gia, công nhân, mỗi giới tranh
đấu cho mình. Vua chúa, nhà cầm quyền nhượng bộ nơi này một chút, nơi kia một
chút; dần dần những dòng suối nhỏ hội lại thành sông, thành biển. Nhà nước có
thể chữa một đám cháy lớn, nhưng bất lực trước hàng ngàn đám cháy nhỏ. Có thể
dẹp hàng ngàn đám cháy nhỏ trong vài ngày, nhưng không thể làm suốt năm. Sớm
muộn gì họ cũng phải nhượng bộ để tránh bất mãn bùng nổ.
Tranh đấu cho tự do, dân chủ là một khái niệm trừu tượng đối với
quần chúng, tranh đấu cho những người đàn bà bị đem bán cho du khách chẳng hạn
dễ khích động hơn, dễ được hưởng ứng hơn. Đòi hỏi kiểm soát thức ăn độc hại của
Tầu dễ gây xúc động hơn, trước khi đưa ra những đòi hỏi có tính cách trừu
tượng, quan trọng thực, nhưng xa vời với người dân. Làm việc cứu trợ rất tốt,
nhưng nên giải thích cho dân biết tại sao họ cơ cực, cùng khổ như vậy. Nếu
không, công tác xã hội như nước bỏ biển.
3. Người phản kháng mới không hy sinh đời sống thường nhật, không
coi nhẹ gia đình. Một nhà tranh đấu người Tibet nói về gia đình ông ta nhiều
hơn là nói về chính trị. Anh ta không phải là một cái máy đấu tranh, vô cảm.
Những cái máy vô cảm không xây dựng được một xã hội tốt đẹp.
4. Người ly khai mới không có khuynh hướng hy sinh đời mình cho
đối tượng đấu tranh; không phải anh ta thiếu can đảm, bằng chứng là anh ta sẵn
sàng trả giá rất đắt, nhưng coi chuyện tranh đấu hữu hiệu quan trọng hơn là
việc hy sinh vô bổ. Anh ta ghét cái tật đao to búa lớn của đàn anh.
5. Những người ly khai mới phóng khoáng hơn. Họ áp dụng bất cứ
phương tiện nào, bất cứ hình thức tranh đấu nào, miễn là hữu hiệu, thí dụ dùng
một bài hát nói về tự do của Mỹ để đánh thức dân Ả rập, một bài vọng cổ để báo
động nhà cầm quyền đang bán nước, bán biển, gởi SMS cho bạn bè hẹn gặp nhau để
bàn về một đề tài liên hệ tới mọi người. Người ly khai mới ý thức được cái lợi
hại của kỹ thuật truyền thông và tận dụng các phương tiện truyền thông mới. Một
nữ ca sĩ Iran cởi bỏ khăn trùm đầu, hát nhạc tình trên Internet, hàng triệu
người vào coi, gây chấn động dư luận và khiến nhà cầm quyền bảo thủ bối rối hơn
là một cuộc biểu tình đẫm máu.
Michel Eltchaninoff kết luận cuốn sách 254 trang đầy những kinh
nghiệm cụ thể: những người ly khai là ‘những
người đi trước thời đại. Họ được nuôi dưỡng bởi sự can đảm và thái độ nổi loạn.
Họ phơi trần những tệ trạng không thể chấp nhận trong xã hội họ đang sống: áp
lực, kiểm duyệt, thao túng quyền hành, gian lận bầu cử, sát hại người vô tội,
chiếm nhà chiếm đất… Nhưng họ tranh đấu dưới những hình thức đôi khi độc đáo,
luôn luôn bất bạo động. Họ không tìm cách bịt mắt giả mù, cũng không đánh võ
miệng trước những bất công, những lạm dụng quyền thế. Họ hành động để đặt nhà
cầm quyền trước trách nhiệm của mình. Nếu nhà cầm quyền trả lời bằng cách đàn
áp, họ chịu đòn nhưng tiếp tục hành động. Nếu nhà cầm quyền lùi, họ thắng.
Trong bất cứ xã hội nào, chúng ta cũng cần những người ly khai mới’.
Chúng ta phải cám ơn những người dissidents,
mới hay cũ. Ủng hộ họ là một bổn phận. Một danh dự.
T.T.
__________
Chú thích
[2] Dùng chữ ly khai chỉ là tạm dịch chữ dissident,
nhưng chắc chắn không ổn. Có người đề nghị dùng chữ những người bất mãn, nhưng nó có vẻ tiêu cực. Người bất mãn
ít khi hành động, và nhiều khi bất mãn chỉ vì không được trọng dụng. Có bạn đề
nghị những người bất đồng
chính kiến, nhưng nó vẫn có
vẻ thụ động.
[3] Adam Michnik (1946-),
sử gia, ký giả là một trí thức lãnh tụ phản kháng hàng đầu ở Ba Lan thời chiến
tranh lạnh. Những nhật xét của ông về chế độ CS, về việc xây dựng xã hội hậu
Cộng sản rất thâm thúy. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông: La Deuxième Révolution (1990).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét