Chọn hôm nay, ngày Hồ Chí
Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố trước thế giới và với quốc dân đồng bào lý
tưởng và mục tiêu chiến đấu nhằm xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thể
hiện trong Hiến Pháp 1946 để đưa ra tuyên bố này là nhằm khẳng
định lý tưởng và mục tiêu nhất quán của tôi, không hề là một quyết định nhất
thời bởi những nhân tố ngẫu nhiên.
Cách nay 15 năm, trong một
tiểu luận chính trị “Chân lý là cụ thể”, đúc kết lại những bài
viết của tôi trong vòng 10 năm trước, tôi đã chứng minh là không có cái gọi là
“chủ nghĩa Mác Lênin”, mà đó chỉ là sản phẩm của Stalin được làm méo mó thêm
qua lăng kính Mao-ít để du nhập vào Việt Nam mà xác định đó là “nền tảng tư
tưởng”, là “kim chỉ nam”, để rồi ai có ý định nghiêm túc cần cẩn trọng tìm hiểu
từ thực tiễn Việt Nam và thế giới, từ những thành tựu nghiên cứu của giới khoa
học quốc tế có uy tín, thì đều bị bịt miệng và quy cho tội phản động, chống
đảng.
Trong tiểu luận ấy, tôi đã
nghiêm chỉnh và thẳng thắn đề nghị cần trở lại với tên Đảng là Đảng
Lao Động Việt Nam, trở lại với tên nước là Nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng cho lý
luận phát triển của Việt Nam. Ở đó, tôi trình bày rõ tư tưởng Hồ Chí
Minh là sự tích hợp và vận dụng nhuần nhuyễn những thành tựu của trí tuệ loài
người, trong đó có Phật giáo, Khổng giáo từng hòa quyện với truyền thống dân
tộc đã chìm sâu trong kết cấu hạ tầng tâm lý xã hội Việt Nam và chủ nghĩa Mác.
Với Mác, Hồ Chí Minh đã thực hiện một tiếp biến, loại bỏ những sai lầm về lý
thuyết, giữ lấy những giá trị bền vững qua kiểm nghiệm của thời gian, tiếp thu
và vận dụng sáng tạo những tinh hoa tư tưởng đó vào thực tiễn cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, giải phóng con người của Việt Nam. Bằng cách đó, tư tưởng
Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ lịch sử giữa truyền thống và hiện đại trong thế kỷ XX.
Tiểu luận ấy tôi đã gửi đến Hội đồng Lý luận TƯ và nhiều vị lãnh đạo song chỉ
có hai người có phản hồi và trao đổi trực tiếp là Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Đại
tướng Võ Nguyên Giáp. Di bút của Đại tướng còn ghi rõ: “Chúc đc Tương Lai
có những đóng góp mới vào lý luận của Đảng” Hànội ngày
27/9/2006. Võ Nguyên Giáp Đã ký”.
Kiên trì dấn thân vào cuộc
đấu tranh trên bình diện tư tưởng và lý luận một cách
công khai, tôi hy vọng bằng sự minh bạch đó, có thể góp phần nhỏ bé của mình
cùng với những người khác làm thay đổi thực trạng của hệ tư tưởng giáo điều,
bảo thủ đang dìm đất nước trong trì trệ lạc hậu, làm hao mòn sức sống của dân
tộc trước một thế giới đang biến động từng ngày. Đấy là lý do để tôi nhẫn nhục
tiếp tục ở lại trong Đảng cho dù biết rằng, những Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú
Trọng, với sự hậu thuẫn trực tiếp của nhà cầm quyền Bắc Kinh đang thao túng
Đảng thì không còn gì là Đảng của Hồ Chí Minh nữa. Nhưng cũng lại có một thực
tế oái oăm là, hiện nay chưa có một lực lượng chính trị nào đủ mạnh để có thể
thay thế được đảng đang nắm quyền bằng hệ thống “chuyên chính vô sản” được cài
cắm đến tận cơ sở.
Cho dù vậy, sự phân hóa
trong nội bộ các cấp, đặc biệt là ở cấp cao nhất, các nhân tố cấp tiến chống
lại sự trì trệ bảo thủ giáo điều cũng là một thực tế. Đó là một tất yếu phổ
biến của mọi thực thể sống, luôn diễn ra “cuộc chiến đấu chống lại những
gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi” mà Hồ Chí
Minh đã viết trong Di chúc. Cái mới sẽ thắng là không gì cản được. Bằng sự đấu
tranh của từng đảng viên có lương tri, sự quyết liệt của của cuộc đấu tranh đòi
dân chủ, đòi quyền sống trong các tầng lớp nhân dân đang dâng lên ngày càng mạnh
mẽ thì những gì đã cũ kỹ, hư hỏng trong bộ máy quyền lực duy trì chế độ toàn
trị phản dân chủ sẽ bị lật nhào. Vấn đề chỉ còn là thời gian.
Thế nhưng thời gian không
chờ đợi. Càng không suôn sẻ trong sự chờ đợi những gì mình mong muốn. Cho dù đã
biết trước những trở ngại to lớn đang chờ đón, tôi cũng không lường trước những
thủ đoạn bẩn thỉu mà người ta đã gây ra tầng tầng lớp lớp cho thiện chí phản
biện hết sức trung thực và thẳng thắn một cách ôn hòa, không sa vào quá khích
cực đoan mà tôi đã bền bỉ thực hiện trong nhiều năm qua. Từ những tham luận
công khai trên diễn đàn của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam mà tôi là ủy viên TƯ suốt
hơn 30 năm qua đến những bài viết trên các báo chính thống, những trang mục
thường kỳ của một số báo ở trung ương và ở thành phố HCM, tham luận tại nhiểu
hội thảo trong đó có Hội thảo “Về Phương pháp luận nghiên cứu chủ thuyết
phát triển và tư tưởng Hồ Chí Minh” theo lời mời của Hội đồng lý luận TƯ
ngày 6.4.2009, v.v. và nhiều hoạt động lý luận, khoa học khác, tôi đều nhất
quán với nguyên tắc đó. Khi bị cấm không được xuất hiện trên các báo
chính thống của nhà nước cũng trên nguyên tắc đó tôi
viết bài đưa lên mạng trong mục “Mênh mông thế sự” và “Mênh mông thế
sự để gió cuốn đi” nhằm chuyển tải những ý tưởng vừa mang tính phản
biện, vừa diễn đạt chính kiến và cảm nhận của tôi về thời cuộc.
Cho đến bài “Ngọn lửa
vẫy gọi” tôi viết để tưởng niệm Lưu Hiểu Ba, nhà văn Trung Quốc, giải
Nobel Hòa Bình vừa qua đời, phải chăng đã động đến “thiên triều” nên đã có
“chiếu chỉ” ban ra, lập tức sự cố nảy sinh? Có phải vì thế ma một kịch bản được
dàn dựng lộ liễu và bẩn thỉu nhằm bôi nhọ tôi để bằng mọi cách phải “khai trừ”
tôi ra khỏi đảng ngay để vừa lòng ai đó theo chỉ thị của cấp trên? Đây chỉ là
giọt nước tràn ly. Trò hề này thật hài hước và nhục nhã, tuy bước đầu thất bại
nhưng chắc chắn sẽ phải thực hiện trong thời gian tới như một số trường hợp họ
đã làm trước đây.
Vì vậy sẽ là ngu ngốc nếu
tôi lại tiếp tục nói nói cười cười với những rôbốt vô hồn vô cảm, vừa mới hôm
qua tôi đã xúc động nói những lời cám ơn thật lòng vì đã thông cảm vởi bệnh tật
đang hành hạ người đảng viên già có giấy miễn sinh hoạt đảng đã đến nhà để trao
đổi nội dung viết kiểm điểm gửi cho chi ủy trình bày trước chi bộ chứ không
phải trực tiếp đến, thì hôm sau trước toàn thể chi bộ, ông bí thư tội nghiệp đã
lật lọng vu khống là tôi không chịu đến, chi bộ cứ việc biểu quyết.
Tôi sẽ không phải viết ra
những bịa tạc vu khống khác từ những “cấp trên” đến “chỉ đạo” hội nghị chi bộ
thực hiện kịch bản soạn sẵn từ bên trên đã bị mấy đảng viên phản đối, mà chỉ
muốn nói rằng, những nhẫn nại nhằm thực hiện thiện chí của tôi đã trở nên quá
vô nghĩa. Kể cả sự tự kiềm chế để vẫn viết “Bản trình bày” về nội dung
“kiểm điểm” được cho là của cấp trên đưa ra đã tự vạch trần sự lố bịch và lộ liễu
những sai lầm về đường lối đối nội và đối ngoại, và đến sự kiện này thì quá hèn
hạ. ** Sẽ phung phí thời gian và sức lực để phải tiếp xúc với vô vàn những “rô
bốt” đáng thương chỉ biết cúi đầu tuân phục. Đã đến lúc phải dứt bỏ mọi dính
líu với mớ hỗn tạp này.
Tôi phải tìm một phương
thức đấu tranh mới. Tôi sẽ chiến đấu trong tư thế, và chỉ bằng tư
thế đó của một đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam của Hồ Chí Minh
suốt mấy chục năm qua kể từ lúc vào Đảng cho đến những thời kỳ tha hóa ngày
càng trầm trọng của một bộ phận chóp bu thao túng, làm băng hoại uy tín và tính
chất trong sáng của Đảng, đặc biệt là từ đại hội X.
Tôi hiểu rõ tôi không hề
đơn độc. Trong Đảng còn nhiều đảng viên giữ được lý tưởng và phẩm cách đảng
viên Đảng của Hồ Chí Minh, họ đã và đang thầm lặng nung nấu ý chí chiến đấu và
bằng những cách riêng của mỗi người đã, đang và sẽ đấu tranh làm cho Đảng trong
sạch trở lại, xứng đáng với vai trò lịch sử mà Đảng của Hồ Chí Minh từng có để
cùng dân tộc đi tới trong bối cảnh mới. Đương nhiên, trong bối cảnh mới ấy, mục
tiêu và phương thức đấu tranh phải thích ứng với đòi hỏi mới của cuộc sống đang
thay đổi từng giây từng phút để dẫn tới những đột phá.
Khát vọng xây dựng đất nước
của lớp người đã ngoài 80 là những người lót đường như tôi “sẽ
được quyết định khi một thế hệ mới sẽ lớn lên...Khi những con người
như thế xuất hiện, họ sẽ vứt bỏ tất cả những điều mà theo quan
niệm hiện nay họ phải làm: họ sẽ tự biết cần phải làm như thế nào” như
F. Engel đã tiên đoán. Những con người như thế đang xuất hiện, và
ngày càng nhiều. Chính họ sẽ quyết định cần phải xây dựng một Đảng lãnh đạo thế
nào để đưa đất nước vượt khỏi vũng lầy hiện nay, khiến cho dân tộc đang phải
đắm chìm trong tăm tối bứt lên trong ánh sáng văn minh, ngẩng cao đầu đi tới
như ông cha ta đã từng viết nên những trang sử chói lọi trong thời đại của các
vị. Lớp trẻ ấy sẽ quyết định vận mệnh của đất nước, đưa dân tộc bứt lên cùng
thế giới.
Với nhận thức đó, tôi tiếp
tục dấn bước trong cảm hứng “Hành khúc” của nhà thơ Pháp từng giữ
nhịp đập cho trái tim yêu nước trong tôi “Giữa mùa phản phúc. Tối đen tù
ngục. Suối đã đục dòng. Chỉ lệ còn trong … Những gì ta yêu
phải cứu thoát ra. Tự mình ta, tự mình ta”!
Ngày 2.9.2017
_______
*Tham luận gửi đến Hội thảo
ngày 4.6,2009 do thư mời của Hội đồng Lý luận TƯ đã in trong “Tương Lai. Cảm
nhận & Suy tư”
**Xem “Bản trình bày 3 điều
theo yêu cầu của chi ủy Chi bộ Khu phố 4 ngày 19.8.2017 đính kèm
*** “Quand il arriva la
saison. Des trahisons et des prisons. Quand les fontaines se troublèrent. Les
larmes seules furent claires… Il faut libérer ce qu’on aime. Soi-même soi-même
soi-même” Louis Aragon
*
ĐỂ HIỂU RÕ THÊM “TUYÊN BỐ”
ĐÂY LÀ BÀI VIẾT NGÀY 21.8.2017
BẢN TRÌNH BÀY
THEO YÊU CẦU CỦA CHI ỦY
CHI BỘ KHU PHỐ 4, ĐẢNG BỘ
PHƯỜNG TÂN PHONG
Tôi là Tương Lai đảng viên
Đảng Lao Động Việt Nam, Đảng của Hồ Chí Minh, vào đảng ngày 6.1.1959 (sau này
đảng đổi tên là Đảng Cộng sản Việt Nam), trình bày ba vấn đề 1. Tại sao đi biểu
tình chống Trung Quốc, 2. Tại sao viết bài đăng trên mạng, 3. Tại sao trả lời
đài nước ngoài, theo yêu cầu của Chi ủy (truyền đạt trực tiếp ngày 18.8.2017)
như sau:
I. Tại
sao tôi đi biểu tình chống Trung Quốc xâm lược. Tạm gợi ba lý do:
1. Chưa nói là đảng viên,
chỉ là môt công dân Việt Nam bình thường còn có chút lương tri, không thể không
lên tiếng khi đất nước bị xâm lược. Cha ông ta vẫn thường dạy “quốc gia hưng
vong thất phu hữu trách”, chỉ những kẻ lòng lang dạ thú mới bình chân như
vại khi bọn xâm lược Trung Quốc ngang nhiên vẽ đường “lưỡi bò” xâm phạm chủ
quyền lãnh thổ (các đảo của Việt Nam), xâm phạm chủ quyền lãnh hải của Việt Nam
trên Biển Đông, xây dựng đảo chìm, đảo nổi thành căn cứ quân sự của chúng mà
quốc tế thường xuyên lên án để trực tiếp uy hiếp Việt Nam. Sau khi đã cướp đảo
tại Hoàng Sa năm 1974, cướp đảo Gạc Ma năm 1988, hiện nay chúng tiếp tục hành
vi ăn cướp nói trên, uy hiếp nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải thiêng
liêng của nước ta, tiếp tục tạo ra "chuyện đã rồi"
trên thực địa (facts on the ground) như cách chúng đã làm lâu nay trước sự nhân
nhượng yếu hèn của những người cam tâm chịu phận chư hầu nhằm nhận được sự bảo
kê cái ghế quyền lực đang chiếm được với luận điệu lừa mị “Nếu để xảy ra
đụng độ thì có còn được ngồi đây để bàn về Đại hội Đảng được không”!
Chỉ mới hơn một tháng trước
đây tên tướng Phạm Trường Long đã ngang ngược nói thẳng vào mặt những người
lãnh đạo Việt Nam lời dối trá trắng trợn bất chấp mọi chứng cứ lịch sử đã được
quốc tế công nhận rằng, các đảo ở Biển Đông vốn thuộc Trung Quốc mà cha ông
chúng đã tuyên bố chủ quyền từ xa xưa. Sự trắng trợn đó Tập Cận Bình cách nay
một năm chỉ dám tuyên bố khi rời khỏi Việt Nam sau khi ban chiếu chỉ tại sảnh
đường mang tên Diên Hồng trước diễn đàn Quốc Hội Việt Nam, chỉ khi đến phi
trường Singapore mới thớ lợ nói ra.
Tướng Phạm còn ngang ngược
đòi Việt Nam phải ngừng ngay việc khoan dầu với sự hợp tác của Repsol. Cần biết
rằng việc ký kết với Repsol khoan thăm dò không chỉ để khai thác dầu khí, mà
còn nhằm khẳng định chủ quyền, với việc đẩy tới những hợp tác với Mỹ và Ấn Độ
mang ý nghĩa chiến lược. Và rồi cuối cùng yêu sách của họ Phạm đã được những
người cầm quyền Việt Nam lẳng lặng chấp nhận!
Chỉ cần còn một giọt máu
hồng của lòng yêu nước và tinh thần tự tôn dân tộc lưu chảy trong huyết quản,
không một người Việt Nam có lương tri nào không thấy căm hận và xấu hổ trước
nỗi nhục này.
2. Trên đây là chuyện vừa
xảy ra. Nếu gợi lại sự đàn áp của bộ máy bạo lực các cỡ đi liền với sự lừa mị,
bịp bợm của bộ máy tuyên truyền được mở hết công suất để cấm không một ai được
nhắc đến cuộc chiến tranh xâm lược theo lệnh của Đặng Tiểu Bình xua hơn 60 vạn
quân Trung Quốc đánh vào sáu tỉnh biên giới phía Bắc tàn sát dã man dân thường,
người già, trẻ con, máu của họ thấm đẫm suốt vùng biên cương. Chẳng những thế,
“theo lệnh trên”, để vừa lòng người “đồng chí cùng chung ý thức hệ XHCN”
theo mật ước Thành Đô, người ta đang tâm đục bỏ bia dựng trên mộ liệt sĩ, đập
tượng nữ anh hùng chống xâm lược vừa được dựng ở sân trường ở Lạng Sơn để giáo
dục lòng yêu nước cho học sinh, đàn áp đánh đập dã man những người xuống đường
phản đối Trung Quốc xâm lược nhân kỷ niệm ngày nổ ra cuộc chiến tranh biên
giới… Đi liền đó là kỷ luật, treo bút, thậm chí bắt giam những nhà báo dám đề
cập đến đề tài được gọi là “nhạy cảm” này.
Sau chiến tranh biên giới
phía Tây Nam do Pôn Pốt gây nên theo kế hoạch và chỉ huy của cố vấn Trung Quốc
ngay sau khi Việt Nam chưa kịp hàn gắn vết thương chiến tranh bởi hai cuộc
chiến kéo dài ngót 30 năm và cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, bọn xâm lược
Trung Quốc liên tục từng bước lấn chiếm, cướp đảo, xây đảo nổi thành các căn cứ
quân sự trên Biển Đông thuộc vùng chủ quyền của Việt Nam và những vùng còn đang
tranh chấp. Tình hình Biển Đông ngày càng căng thẳng, chủ quyền đất nước bị đe
dọa nghiêm trọng.
Hãy chỉ nói đến Gạc Ma, nơi
ghi sâu tội ác của Trung Quốc xâm lược, nỗi đau không bao giờ nguôi trong trái
tim Việt Nam. Ấy thế mà khi có ý kiến đề xuất là nên thương lượng với Trung
Quốc để cử người đến đảo Gạc Ma (nơi quân xâm lược Trung Quốc đang chiếm đóng)
tìm hài cốt chiến sĩ ta bị lính Trung Quốc sát hại thì Nông Đức Mạnh nói tỉnh
bơ: “Cứ để họ nằm ở đấy có sao đâu”!
Liệu có sự trơ tráo, nhẫn
tâm nào hơn nữa không từ miệng một người đã từng 8 năm làm Chủ tịch Quốc hội, 8
năm làm Tổng Bí thư? Đấy là chưa cần nói đến nhân cách vô luân, cướp bồ của con
trai, bị con gái gửi thư lên Bộ Chính trị và các cấp kiện vì bố đã chà đạp lên
phong tục tập quán của dân tộc, dùng quyền Tổng Bí thư để đưa vợ vừa cưới nhằm
thoát khỏi phá sản, chẳng những thế ả ta lại được “bầu” làm đại biểu Quốc hội.
Chỉ cách đây mấy hôm đã có bài viết “BOT cứu “đệ nhất phu nhân bằng tiền
ai” vạch rõ Đỗ Thị Huyền Tâm sau khi về làm vợ Nông Đức Mạnh thì “từ
chỗ nợ như chúa chổm, tay đã chạm tới hơi lạnh của còng, chỉ cần nhận được hai
dự án BOT, các khoản nợ "nghìn tỷ" trở thành tiền lẻ. Hãy nhìn phòng
khách trọc phú của vợ chồng bà Tâm hiện nay” thì rõ. Nhưng, chính
ông ta lại vẫn đều đều xuất hiện trong những nơi diễn ra nghi lễ quốc gia trang
trọng nhất với tư cách một nguyên Tổng Bí thư, kể cả lúc
phát động rồi tổng kết cuộc vận động “Học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí
Minh”!
Vậy thì, một người đảng
viên có chút liêm sỉ phải xấu hổ và đau đớn vì Đảng của Hồ Chí Minh sáng lập và
xây dựng đã từng là niềm tự hào bởi những tấm gương hy sinh quên mình vì sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, kháng chiến, chống giặc ngoại xâm, thống
nhất đất nước thì nay đã sa đọa đến cỡ ấy, chả nhẽ vẫn cúi đầu câm lặng được
sao? Chỉ đưa ra một ví dụ điển hình cho sự sa đọa mà ai cũng thấy, chứ đâu chỉ
một Nông Đức Mạnh được sự hà hơi tiếp sức của Trung Quốc để ngồi chồm chỗm trên
cái ghế quyền lực cao nhất nhằm ngoan ngoãn thực thi mọi mưu toan của “thiên
triều”! Còn bao nhiêu Nông Đức Mạnh nữa?
3. Cái truyền thống “buôn
vua” của Lã Bất Vi trong lịch sử Trung Quốc là chiêu độc quen thuộc của Tàu từ
xưa tới nay. Trong thời đại của văn minh kỹ thuật số thì độc chiêu ấy được biến
tướng dưới nhiều hình thức mà thâm độc nhất và cũng bịp bợm nhất với mệnh đề “đồng
chí cùng chung ý thức hệ XHCN” được thăng hoa trong “16 chữ vàng”
lừa mị. Một ví dụ vừa dẫn ra ở trên cũng tạm đủ cho điều này.
Cùng với độc chiêu đó là
những dự án đầu tư của Trung Quốc. Và “Vốn đầu tư của Trung Quốc là vấn
nạn lớn cho Việt Nam” là cảnh báo của ông Trương Ðình Tuyển,
nguyên bộ trưởng Thương Mại, tại buổi thảo luận về những vấn đề liên quan tới
kinh tế vĩ mô trong quý 1 năm nay vừa tổ chức tại Hà Nội chiều 10 Tháng Tư năm
2017. Ấy thế mà, các dự án đầu tư của Trung Quốc đang tăng với tốc độ đáng ngờ:
Từ đứng thứ chín trong số
101 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, với 1,029 dự án, tổng vốn dự
trù khoảng hơn $7.8 tỷ trong sáu tháng đầu năm 2014 mà Cục Ðầu tư nước ngoài
thuộc Bộ Kế Hoạch - Ðầu Tư công bố, thì trong hai tháng đầu năm 2017 đã nhảy
lên đứng đầu nhóm 61 quốc gia trình dự án đầu tư vào Việt Nam là Singapore và
kế đó là Trung Quốc. Đáng chú ý là các dự án có vốn của Trung Quốc đều đi kèm
với điều kiện nhân lực lao động Trung Quốc dẫn đến tình trạng “tiền đi
đến đâu, người tới đó”.
Có những dự án Trung Quốc
mang theo hàng chục ngàn lao động, dẫn đến nguy cơ tạo áp lực xã hội và kể cả
xung đột văn hóa đối với người bản địa. Hơn nữa có trời mà biết trong những lao
động ấy bao nhiêu là những người được cài đặt để không chỉ “lao động”, chưa nói
đến một bài tính khủng khiếp hơn là họ sẽ tìm cách cưới vợ Việt Nam và rồi đám
“cháu ngoại” có bố là người Tàu này sẽ thành những “công dân” thế nào đây? Đây
là một âm mưu bành trướng của Trung Quốc mà cả thế giới đều cảnh giác. Việt Nam
sẽ là nạn nhân trực tiếp với những hệ lụy khó lường.
Hiện Trung Quốc đang nắm
trong tay và thao túng hàng loạt công trình trọng điểm của Việt Nam: Đường ống
nước Sông Đà 2, tuyến đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đông, dự án cao tốc Hà
Nội – Hải Phòng, bô xít Tây Nguyên, đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai, nhà máy
nhiệt điện Duyên Hải I, Nhiệt điện Vĩnh Tân, nhà máy giấy Lee & Man và ung
nhọt Fomosa… Ngoài ra họ còn đầu tư vào các vùng kinh tế trọng yếu của Việt
Nam: Khu Kinh tế Vũng Áng – Hà Tĩnh, Trung tâm Nhiệt điện Duyên Hảỉ, toan tính
lập dự án ngay đèo Hải Vân, "Nơi được xem như cánh cửa của vịnh Đà
Nẵng, có thể nhìn thấu bán đảo Sơn Trà – và được coi như mắt thần Đông Dương
nên mọi hoạt động về quân sự ở Đà Nẵng đều phơi ra trước mắt” như lời
ông tướng tư lệnh quân khu 5 nói!
Thế là, cùng với điểm chốt
ở đèo Hải Vân, cũng như Formosa ở miền Trung, Bắc Kinh đang âm mưu biến Trung
tâm Nhiệt điện Duyên Hải, Trung tâm Nhiệt điện Sông Hậu và Nhà máy giấy Lee
& Man thành ba căn cứ quân sự sinh hóa liên hoàn, để từ
đó vừa kiểm soát vùng biển phía nam Việt Nam vừa kiểm soát sông Hậu, tuyến giao
thông đường thủy huyết mạch nối liền Biển Đông đến biên giới Việt Nam -
Campuchia.
Như vậy là, cùng với các dự
án gây ô nhiễm, thảm sát môi trường tại những địa điểm chiến lược trọng yếu
ngay trên đất Việt Nam như Bauxit Tây Nguyên, thải bùn đỏ chế ngự vùng sườn
phía Tây, xương sống Việt Nam; Formosa, xả thải một vùng biển bao la Miền
Trung, và kiểm soát cảng nước sâu Sơn Dương, gieo rắc thảm họa kéo dài hàng
chục năm cho cư dân các tỉnh Miền Trung.
Rồi nhà máy Lee & Man,
xả thải làm chết hệ sinh thái và môi trường nông, ngư nghiệp sông rạch, đưa đến
nguy cơ mất trắng nguồn nước ngọt và triệt tiêu toàn bộ nguồn lợi thủy sản Vùng
Đồng Bằng Sông Cửu Long, nơi có hệ thống sông rạch chằng chịt thông nhau trong
vòng trên 40 ngàn cây số vuông, với 20 triệu người sinh sống tại đây, Lee &
Man cũng đang xây một cảng quốc tế chuyên dụng ngay bên bờ sông Hậu. Phải nói
thêm rằng, kỹ nghệ giấy lạc hậu của Lee & Man không chỉ gây lãng phí và làm
ô nhiễm nguồn nước ngọt vốn đang khan hiếm tại vùng Đồng Bằng Cửu Long, mà
còn làm ô nhiễm sông rạch qua việc xả nước thải hóa học khổng lồ, mỗi năm sẽ
xả ra môi trường đến 28.500 tấn xút (NaOH). Thảm họa môi trường này sẽ hủy hoại
vùng trọng điểm chiếm trên 70% diện tích thủy sản, 40% sản lượng nuôi trồng và
60% sản lượng xuất cảng của toàn Việt Nam.
Xin lưu ý thêm là, cùng với
vấn nạn vừa nêu, kỹ thuật lạc hậu của Trung Quốc đi liền với mưu toan xảo quyệt
của họ cũng là một tai họa tiềm ẩn khó lường. Xin chỉ nêu một ví dụ: ba đoàn
tàu mà Trung Quốc chuyển giao lắp ráp cho đường sắt Cát Linh – Hà Đông được áp
dụng hệ thống giám sát và điều khiển công nghiệp tự động SCADA. Hệ thống SCADA
này đã bị Đội ứng cứu khẩn cấp không gian mạng các hệ thống điều
khiển công nghiệp của Mỹ (ICS-CERT) cảnh báo vì
có chứa lỗ hổng có thể bị khai thác tấn công từ xa. Một kẻ
tấn công không cần kỹ năng cũng dễ dàng xâm nhập và chiếm quyền điều khiển của
SCADA.
Khi đã cài hệ thống này rồi
thì chỉ một nút bấm đủ để “trả đũa” hoặc “răn đe” đối phương khi không chịu cúi
đầu tuân phục. Vậy mà người ta đã vội vã ký hợp đồng mua lại đoàn tàu được cài
đặt hệ thống nói trên. Liệu có phải số tiền “lại quả” quá to khiến cho ai đó dễ
dàng đánh đổi tính mạng của dân bằng cách biện hộ rằng sẽ có lợi lớn
từ “điều kiện vay dễ dãi” của Trung Quốc?
Làm sao có thể kể hết được
thảm họa mà Trung Quốc đã, đang và sẽ gây nên trên đất nước chúng ta. Mà đâu
phải chỉ chúng ta nói lên điều này, “Chết bởi Trung Quốc” (Death
by China) là một cuốn sách được viết ra đã gây tiếng vang lớn trên thế giới,
tác giả của nó là Peter Navarro, người đã được mời đứng đầu Hội đồng Thương mại
Quốc gia của Mỹ tại Nhà Trắng (NTC).
Gợi ra những điều trên liệu
đã tạm đủ để nói lý do vì sao tôi quyết liệt chống lại âm mưu và hành động đen
tối và trắng trợn của nhà cầm quyền Trung Quốc chưa? Biểu tình chống Trung Quốc
chỉ là một hành động nhỏ (và thật ra tôi cũng chỉ mới tham gia có ba cuộc,
trong đó một lần các bạn trẻ công kênh tôi lên để nói thẳng vào Tổng Lãnh sự
quán Trung Quốc phố Hai Bà Trưng), còn là trực tiếp phát biểu trong cuộc
mittinh trước thềm nhà Hát lớn Thành phố, và dưới chân tượng Đức Thánh Trần bên
bến Bạch Đằng trên đường Tôn Đức Thắng.
Hành động chống Trung Quốc
xâm lược của tôi chủ yếu là viết thư phản đối gửi trực tiếp cho Nguyễn Phú
Trọng, là ký vào các bản Tuyên Bố, các Thư Ngỏ mà tôi có tham gia chỉnh sửa với
dụng ý làm rõ lên ý của Chủ tịch Hồ Chí Minh “mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng
thì tinh thần yêu nước lại sôi nổi, nó sẽ kết lại thành một làn sóng vô cùng
mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ
bán nước va lũ cướp nước”*. Và để tăng thêm tính công phạt, tôi luôn
nhấn mạnh Hồ Chí Minh đặt “lũ bán nước” trước “lũ cướp nước”.
Vì xét đến cùng, dù muốn dù
không, chúng ta phải sống với Trung Quốc như ông cha ta đã từng sống. Chúng ta
kính trọng nhân dân Trung Hoa với nền văn hóa vĩ đại mà họ từng có. Cho nên
chúng ta thiết tha muốn có tình hữu nghị cùng sống trong hòa bình với nhân dân
Trung Quốc. Vừa rồi tôi đứng ra làm lễ tưởng niệm Lưu Hiểu Ba, người Trung Quốc
được trao giải Nobel Hòa Bình, cũng vì lẽ đó.
Nhưng để có điều đó thì
phải nuôi dưỡng trong huyết quản dòng máu quật cường không chịu khuất phục của
ông cha ta, nhân tố quyết định nhất để dân tộc chúng ta tồn tại và phát triển
cho đến hôm nay. So với những Đặng Tiểu Bình, Tập Cận Bình thì những triều đại
Đường, Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh tổ tiên của chúng xưa kia, cũng nham hiểm
và hung bạo đâu có kém.
Thế nhưng, bằng bản lĩnh
của một dân tộc “Thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”
mà Trần Bình Trọng đã là biểu tượng bất tử cho khí phách đó. Bằng khí phách đó,
bằng tinh thần quật khởi, truyền thống quý báu nhất của dân tộc ta, ông cha
chúng ta đã hóa giải mọi hiểm nghèo trước kẻ thù truyền kiếp chưa bao giờ nguôi
mộng bành trướng, tranh thủ mọi thời cơ thuận lợi để cướp nước ta. Thời cơ mà
chủ nghĩa bành trướng Đại Hán tận dụng và khai thác triệt để thường là nhằm khi
triều chính của Việt Nam đổ nát, tranh giành chém giết, thanh toán lẫn nhau để chiếm
ngôi. Nhân dân thì mệt mỏi điêu linh trong cuộc tranh bá đồ vương đó. Lấy cớ
ủng hộ vương triều đã thần phục đang có nguy cơ bị lật nhào, chúng tranh thủ
đưa quân xâm lược vào vì đã có lực lượng hậu thuẫn từ bên trong.
Chính vì lẽ đó mà Hồ Chí
Minh đòi hỏi phải thấy sự nguy hiểm bội phần của lũ bán nước tiếp
tay, nội ứng cho lũ cướp nước. Vì vậy, tôi không chỉ đi biểu
tình, mà tôi chống bọn xâm lược Trung Quốc chủ yếu bằng những bài viết nhằm
khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí quật cường của dân tộc để góp phần vạch mặt
lũ bán nước và lũ cướp nước hiện nay. Chỉ đáng tiếc là tuổi cao sức yếu, tôi
chưa viết được nhiều để thường xuyên vạch trần tội ác của lũ bán nước và phơi
bày rõ hơn nữa dã tâm và các thủ đoạn nham hiểm của lũ cướp nước Trung Quốc để
nói rõ với nhân dân Trung Quốc và bạn bè trên thế giới… Sắp tới sẽ còn phải cố
gắng hơn nữa.
II. Tại sao tôi phải viết
bài đăng trên mạng? Điều vừa nói là một lý do,
và là lý do chủ yếu. Để thật tường minh, trình bày ba điều sau đây:
1. Tôi là một nhà giáo, một
người làm nghiên cứu khoa học, vừa nghiên cứu vừa giảng dạy. Để làm việc đó,
tôi phải thể hiện chính kiến, tư tưởng và những tìm tòi suy nghĩ của mình trên
bài viết đăng trên Tạp chí chuyên ngành, đồng thời cũng đăng trên các tạp chí
khác và báo tuần, báo ngày để chuyển tải những điều đó đến đông đảo công chúng
nhằm kiểm tra những đúng sai và ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu. Vì vậy tôi
viết cho rất nhiều báo và tạp chí. Từ những năm 60,70, 80 của thế kỷ trước tôi
chủ yếu viết cho báo Nhân Dân thời Hoàng Tùng làm Tổng Biên tâp, báo Tiền Phong
thời Nguyễn Thanh Dương làm Tổng Biên tập, báo Đại Đoàn Kết thời Nguyễn Tiêu
làm Tổng Biên tập, trung bình mỗi tháng tôi viết cho mỗi tờ báo này hai bài,
cùng với báo là nhiều tạp chí khác (như Tạp chí Tổ Quốc, Tạp chí Tia Sáng, Tạp
chí Cộng Sản, Tạp chí Thanh Niên, Tạp chí Văn hóa - Nghệ thuật, Tạp chí Thế
Giới Mới…), nhiều báo khác như báo Tuổi Trẻ, báo Thanh Niên, báo Pháp Luật
TPHCM, bào “Người Đại biểu Nhân dân” (sau đổi tên thành “Đại biểu Nhân dân)
Xin dừng lại nói vài điều
với báo “Người Đại biểu Nhân dân”, tờ báo của Quốc hội thời Hồ
Anh Tài làm Tổng Biên tập. Sau một thời gian đăng bài của tôi, báo mở hẳn một
mục “Đàm luận sáng thứ hai” do tôi đảm nhận, mỗi tuần một bài
chính luận. Thời kỳ này đã hai năm liền tôi nhận được giải thưởng báo chí loại
“Giải đặc biệt” do Báo trao tặng, và lần thứ hai cũng “Giải
đặc biệt” này được trao cho ba tác giả, một là Nguyễn Văn An, nguyên
Chủ tịch Quốc hội, một nữa là Hòa thượng Thích Chơn Thiện, Phó Chủ tịch Hội
đồng Trị sự Phật Giáo Việt Nam, đại biểu Quốc hội và một nữa là tôi (đây là lần
trao tặng thứ hai). Đến thời ông Nguyễn Phú Trọng về làm Chủ tịch Quốc hội thì
mục “Đàm luận sáng thứ hai” bị xóa bỏ, tiếp đó tôi bị cấm không
được xuất hiện trên báo, không chỉ trên tờ “Đại biểu Nhân dân” mà còn bị cấm
đăng bài trên tất cả các báo trong cả nước (theo lệnh miệng?!)
2. Tôi phải kể dài dòng như
trên để giải thích thật tường minh vì sao tôi phải viết bài đăng trên
mạng. Viết là một nhu cầu sống của tôi. Đặc biệt là với hoàn
cảnh riêng, tôi chủ yếu phải ngồi nhà, thì viết là một cách tham gia vào sinh
hoạt xã hội, gắn kết với cộng đồng, giao lưu tư tưởng với đồng chí, đồng
nghiệp, đồng bào. Viết cũng là cách góp phần vào cuộc đấu tranh mà
một người đảng viên chân chính phải dấn thân. Vào tuổi ngoại 80,
đã có thể “lão giả an chi” để vui thú nhàn tản, song với tôi, tôi không muốn và
không thể sống như vậy.
Đương nhiên mỗi người có
một cách quan niệm về cuộc đời, một chọn lựa về cách sống và tôi tôn trọng mọi
cuộc sống lương thiện. Nhưng, càng gần đất xa trời, tôi lại càng muốn sống sao
cho trọn vẹn với sự nghiệp tôi đã dấn thân từ thuở còn thiếu niên gần 70 năm
trước đây, để cho những ngày còn lại vẫn có thể góp thêm chút ít cho đời. Không
có gì to tát, song không phải tự xấu hổ với chính mình để lương tâm thanh thản
khi nằm xuống. Chỉ đơn giản thế thôi.
Bị cấm không được viết cho
các báo “lề phải”, cũng là cắt nguồn nhuận bút, đồng thời cắt mối liên hệ của
tôi với công chúng, đây là một khó khăn mà tôi phải vượt qua. Chiêu bẩn đánh vào
cái dạ dày thì đành chịu, tuy không phải là không ảnh hưởng đến cuộc sống,
nhưng quan trọng hơn là người ta tưởng rằng có thể cắt đứt sợi dây nối liền tôi
với công chúng. Họ nhầm. Sự ngăn chặn đó càng thôi thúc tôi phải vượt qua.
3. Vượt qua bằng ngọn lửa
trí tuệ bùng cháy trong tim, không những không để cho tắt đi mà là càng bùng
cháy mạnh mẽ hơn. Để làm điều đó, hàng tuần tôi viết “Mênh mông thế sự”
kèm theo mục “Điểm tin đáng đọc” để gửi cho những người bạn cùng
chí hướng khao khát thông tin song ít, hoặc chưa có
kỹ năng và điều kiện truy cập thông tin qua máy vi tính.
Cách này là một cố gắng góp
phần trợ giúp thanh lọc bớt những nhảm nhí, nhiễu loạn thông tin, giúp tiếp cận
được những thông tin mà theo tôi là đáng đọc. Đương nhiên là đọc để có thông tin
với tinh thần phê phán, chấp nhận hay vứt bỏ, và chủ yếu là để không bị ngộ độc
thông tin trên mạng. Tôi làm việc này một mình, tự chịu trách nhiệm với chính
mình để đỡ mất thì giờ trao đổi thảo luận, một phần vì điều kiện sức khỏe, một
phần vì tôi thấy tự do và thoải mái không phải lệ thuộc vào ai cả, cũng là cách
tập thể dục cho bộ óc! Khi đã chuyển lên mạng rồi thì nó thuộc quyền người đọc,
muốn sử dụng ra sao, chuyển thêm cho ai đọc thì đó là việc của công chúng. Thậm
chí có người thêm vào đó mục lục hoặc cài đặt những file thư giãn để chuyển cho
bạn bè thì đó là quyền của họ.
Gần đây, do sức khỏe sút
kém, tôi không viết được đều kỳ hàng tuần, mà chỉ viết khi sức khỏe cho phép
nên tôi đổi lại tên “Mênh mông thế sự để gió cuốn đi” vừa gửi
theo cách cũ, vừa cài trên facebook theo dạng “cho tất cả mọi người”
(public). Nhưng do điều kiện về sức khỏe, nhất là về đôi mắt, tôi không sử dụng
tính năng trao đổi, nhận xét (comment), trả lời… như người sử dung facebook
thường làm mà chỉ đưa bài viết lên mạng, ai đọc thì đọc.
Đương nhiên, tôi chịu trách
nhiệm về những điều mình viết, rất công khai và minh bạch. Chính vì công
khai và minh bạch nên sự thật được nói lên
một cách rõ ràng, trung thực và thẳng thắn. Mà đã là sự thật thì nó có sức mạnh
của chính nó, không ai có thể khuynh loát, cưỡng ép và đàn áp. Tôi nghĩ vậy và
đã làm như vậy.
Tôi sẵn sàng tranh luận với
bất cứ ai, từ ông Tổng Bí thư mà tôi đã gửi thư ngỏ đưa ra những nhận định của
tôi và yêu cầu trả lời (đáng tiếc là cho đến nay chưa có bất cứ hồi âm nào) cho
đến bất cứ ai muốn phê phán, bắt lỗi hay không đồng tình. Tôi quan niệm rằng
tranh luận công khai và sòng phẳng là một hành vi văn minh của những người có
học, có văn hóa.
III. Tại sao tôi trả lời
đài nước ngoài? Tạm gợi ra ba lý do:
1. Đã qua rồi cái thời đóng
chặt cửa tự nhốt mình vào trong cái vỏ ốc của sự mù lòa và thiển cận. Đất nước
đang mở cửa để tìm đường đến với thế giới văn minh, đến với những thành tựu của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tiến như vũ bão và được tính tình
bằng giây. Thế kỷ XXI là thế kỷ của nền kinh tế trí thức và nền văn minh trí
tuệ. Vì vậy, những ai còn chần chừ tin rằng tương lai sẽ chỉ là sự tiếp tục đơn
giản của quá khứ sẽ sớm thấy mình bị hụt hẫng trước sự thay đổi. Họ sẽ buộc
phải nghĩ lại rằng sẽ phải đi đến đâu và bằng cách nào để đi đến đó khi mà đã
qúa muộn để tránh được điều không thể tránh khỏi.
Hội nhập là tiền đề của
phát triển. Để hội nhập, không thể kiêng kỵ sự tiếp xúc với bên ngoài. Đương
nhiên, bản lĩnh của người chủ động đến với thế giới quyết định cách tiếp xúc
ấy. Tôi tự thấy mình có đủ bản lĩnh để không làm xấu hổ cho đất nước khi tiếp
xúc với thế giới bên ngoài, trong đó bao gồm việc giao lưu với giới truyền
thông nước ngoài. Trả lời phỏng vấn của đài nước ngoài như đài BBC, RFI, RFA,
VOA, Bloomberg, Kyodo, v.v. là việc tôi làm thường xuyên với ý thức rằng đây là
một cách góp phần làm cho thế giới hiểu về Việt Nam, thực thi sứ mệnh của một
người trí thức biết tự trọng và tự tin. Tự trọng và tự tin mình là người Việt
Nam, dám ngẩng cao đầu, không chịu để cho người ta coi thường.
Chỉ xin dẫn ra một ví dụ:
tháng 6 năm 1989 tôi đến dự một Hội thảo khoa học tại trường Đại học Quốc gia
Australia (ANU), ngồi chờ ở sân bay Bangkok chiều ngày 8.6.1989 cùng Phan Đình
Diệu sẽ đi họp về Hội nghị Toán học ở Ấn Độ. Diệu bảo tôi: “Mình thì không
sao vì chuyên môn Toán, nhưng cậu là Xã hội học, thế nào đến sân bay Sidney
cũng sẽ bị họ phỏng vấn về chuyện đàn áp đẫm máu ở Thiên An Môn vừa xảy ra đấy”.
Tôi đang suy nghĩ thì thấy anh bạn làm việc ở Ngoại giao cũng vừa bước vào
phòng chờ, tôi tranh thủ hỏi ý kiến anh ta. Thất vọng vì câu trả lời: “Anh
cứ nói là mình chưa biết, thế là ổn”!
Tôi nghĩ, là Viện trưởng
Viện Xã hội học Việt Nam, sự kiện Thiên An Môn xảy ra đã 4 ngày (ngày 4.6.1989)
mà mình nói là chưa biết thì nhục quá. Thế thì còn “xã hội học” cái nỗi gì, còn
ra thể thống gì nữa trước con mắt của bạn bè thế giới! Và rồi quả như lời tiên
đoán của Phan Đình Diệu, cùng đón tôi ở sân bay, ngoài một người bạn trong Ban
tổ chức Hội thảo còn có phóng viên và họ vồn vã hỏi ngay: “Với tư cách của
một Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam, nước láng giềng của Trung Quốc, ông
bình luận thế nào về sự kiện Thiên An Môn?”. May mà tôi cũng đã kịp chuẩn
bị trong đầu để nói với họ những điều cần nói, vừa phải, đủ ý song không quá
khích để chạm nọc ông láng giềng khốn nạn rất khó chơi, nhưng cũng không thể ba
phải hoặc theo đuổi luận điệu nịnh Tàu.
May nhất là, trong nội dung
hội thảo, người ta dành hẳn một buổi không có trong chương trình để trao đổi,
tranh luận và ra một thông báo lên án cuộc thảm sát Thiên An Môn. Còn nhớ hôm
ấy, GS Carl Thayer, người hiện nay là chuyên gia hàng đầu và là nhà bình luận
nổi tiếng về tình hình Biển Đông, Trung Quốc và Việt Nam, ngồi cạnh tôi. Chính
Thayer đã đọc tham luận lên án cuộc thảm sát Thiên An Môn, xem đó là một vết nhơ
trong lịch sử đương đại mà Trung Quốc không thể nào gột sạch. Nếu tôi lẩn tránh
không dám bày tỏ thái độ khi phóng viên hỏi thì không hiểu Thayer sẽ nhìn tôi
với con mắt thế nào, liệu tôi còn đủ tư cách một nhà khoa học Việt Nam tham gia
Hội thảo nữa không?
2. Vì vậy, để thế giới hiểu
về Việt Nam, hiểu về người trí thức Việt Nam, tôi không chỉ trả lời đài nước
ngoài, mà còn chủ động tiếp xúc với giới ngoại giao nước ngoài mà tôi có dịp
gặp gỡ quen biết. Tôi đàng hoàng và công khai mời họ đến nhà để, quanh tách trà
nói chuyện được cởi mở và thân tình hơn.
Nhiều người đã trở thành
bạn thân của tôi như ông Gile Lever, Đại sứ Vương quốc Anh tại Hà Nội đã bốn
lần đến thăm và nói chuyện thân mật với tôi mỗi lần ông ấy vào Sài Gòn và hai
lần mời tôi đến tư dinh của ông ở Hà Nội ăn sáng nói chuyện khi tôi có dịp ra
Hà Nội trong năm 2016, 2017. Ông Tổng Lãnh sự Pháp Fabrice Maurière, rồi người
kế nhiệm Emmanuel Ly-Batallan cũng nhiều lần đến thăm tôi tại nhà riêng và mời
tôi đến tư dinh ăn sáng nói chuyện. Nhiều người khác như Đại sứ Thụy Sĩ Andrej
Motyl mà tôi rất quý mến, Đại sứ Canada David Devine đã có mối quan hệ thân
tình với tôi. Ông Ted Osius, Đại sứ Mỹ cũng đã mời tôi đến gặp nói chuyện tại
Hotel Legend trên đường Tôn Đức Thắng, v.v. và nhiều người bạn nước ngoài khác
ở các sứ quan và tổng lãnh sự quán cũng như các chuyên viên.
Tôi cũng tiếp nhiều nhà báo
đến phỏng vấn tại nhà như Thomas Fuller của The New York Times,
Bruno Philip của Le Monde, Kazuo Nagata của The Yomiuri
Shimbun, Nobuhiro Okuma của Kyodo News, Kyrstin Oanh của Bloomberg
News…
Nêu lên một cách cụ thể như
vậy là để nói rõ sự công khai, minh bạch và đàng hoàng của tôi, hiểu rõ mình
phải làm gì để giữ gìn thể diện quốc gia, vì lợi ích của đất nước mà có ứng xử
đúng đắn và tế nhị để bảo toàn danh dự cho bản thân với tư cách một nhà khoa
học, đồng thời biết tranh thủ thiện chí của các nhà báo quốc tế đối với nhân
dân mình, đất nước mình sao cho có lợi nhất. Đây là một cố gắng rất nhọc nhằn
chứ không phải là chuyện thù tạc thoải mái như có người lầm tưởng. Đương nhiên
là nhọc nhằn với người tự biết mình phải làm gì cho đất nước mình và không hổ
thẹn với lương tâm.
3. Một vài bài viết của tôi
đăng trên báo hoặc tạp chí nước ngoài cũng có chút ít tác dụng nào đó, đáng
tiếc là tôi không viết được nhiều. Có tờ báo đã tìm cách chuyển nhuận bút cho
tôi như tờ The New York Times, tôi đã chuyển đến Quỹ Cứu Trợ của
Báo Tuổi Trẻ, chỉ có điều là quá hiếm hoi và cũng không đáng là bao. Vấn đề là
nếu mình có được tiếng nói trên trang báo của những tờ báo lớn của nước ngoài
có ảnh hưởng rộng như The New York Times ở Mỹ, Le
Monde ở Pháp hay Asahi Shimbun của Nhật, The
Times của Anh, v.v. thì tác động của nó đến thế giới sẽ rất mạnh mẽ.
Đáng buồn là chúng ta chưa có được điều đó.
Một tiếng nói chững chạc và
đúng mực như câu trả lời của nguyên Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại Giao Nguyễn
Mạnh Cầm cho đài VOA ngày 19.8.2017 vừa rồi về vụ kiện của ông Trịnh Vĩnh Bình,
quốc tịch Hà Lan lên Tòa án quốc tế đòi chính phủ Việt Nam phải bồi thường ít
nhất là 1 tỷ 3 đôla vì đã “bội ước” có ý nghĩa lớn đối với diện mạo Việt Nam
trên bình diện pháp lý quốc tế mà cách hành xử theo “luật rừng” đáng xấu hổ bị
Nhà nước Đức lên án đang làm nhem nhuốc trước thế giới. Câu trả lời đó như sau:
“Mọi chuyện bây giờ tùy
thuộc theo cán cân công lý. Không có cách nào khác hơn… Bất luận phán quyết
cuối cùng của Tòa trọng tài như thế nào thì đây sẽ là một vụ kiện để lại nhiều
bài học kinh nghiệm cần phải rút ra.
Đất nước đang trên đường
hội nhập vào đời sống mọi mặt của quốc tế. Chúng ta phải tuân thủ những hiệp
định, những thỏa thuận đã ký với quốc tế. Chỉ có cách đó mới bảo vệ được hình
ảnh một Việt Nam đổi mới và cải cách, không chỉ vì lợi ích của chính mình, của
Việt Nam, mà còn vì lợi ích của các đối tác quốc tế khác, bất luận đó là cá
nhân hay quốc gia”.
Liệu câu chuyện nói trên có
trả lời được câu hỏi tại sao tôi trả lời đài nước ngoài chưa nhỉ?
Kết luận
Tôi trình bày như vậy cũng
đã quá dài tuy vẫn chưa đủ. Song tôi đã thấm mệt và quá căng đầu vì phải viết
ra những điều mà đáng ra chẳng cần phải viết. Vào lúc này, tôi lại lẩn thẩn
nghĩ rằng có lẽ cứ theo cái triết lý lười biếng “lão giả an chi”của
cụ Khổng e lại đỡ mệt. Thế nhưng nếu truy suất gốc gác của triết lý này thì té
ra lại là nói lên cái chí của Khổng tử khi trả lời học trò “xin thầy cho chúng
con biết cái chí của thầy”. Và Khổng Tử trả lời “Lão giả an chi,
bằng hữu tín chi, thiếu giả hoài chi”. (Luận Ngữ. Thiên Công
Dã Tràng) Nếu thế thì đây đâu phải là triết lý lười biếng! Ngược lại, là
một tuyên ngôn tỏ rõ định hướng đạo lý, mong muốn cải tạo xã hội đấy chứ: “Ta
muốn người già thì được an vui, bạn bè tin cậy nhau, trẻ em được chăm sóc vỗ về”.
Có người cho đó là một ảo
tưởng. Đúng vậy. Nhưng cái ảo tưởng từ thời cổ đại ấy mới đẹp làm sao, liệu đến
hôm nay, khi ở xã hội tươi đẹp của thời kỳ “rực rỡ nhất lịch sử Việt Nam”
này như ông Tổng Trọng có lần phởn chí nói ra thì người già đang sống ra sao,
bạn bè tin cậy nhau như thế nào (xin khỏi mở rộng khái niệm bạn bè ra vì khó đo
đếm, chỉ dừng lại vỏn vẹn mười mấy người trong Bộ Chính trị đã “tin cậy” nhau
tuyệt vời đến cỡ nào!), rồi trẻ em được chăm sóc vỗ về ra sao thì mới thấy cái
ảo tưởng của cụ Khổng của mấy ngàn năm trước đây là vĩ đại, vì nó nói lên cái
khát vọng muôn đời của con người.
Trước hết là khát vọng của
người có học muốn góp phần cải tạo xã hội, vun đắp cho đạo lý làm người. Đương
nhiên, không thể dẫm lên vết chân cụ Khổng mà lần theo con đường mòn quá nhỏ
hẹp khi thời đại đã đổi thay. Tuy vậy, thà đốt lên một que diêm nhỏ nhoi còn
hơn chịu bó gối nhìn bóng tối. Ai đó nói rất đúng thế giới phải chìm đắm
trong đau khổ không chỉ vì tội ác của những kẻ xấu, mà còn là vì sự
im lặng của những người tốt.
Và tôi, thì tôi tâm niệm
lời của Mác “Chỉ có súc vật mới quay lưng lại nỗi đau khổ của đồng loại
để chăm lo riêng cho bộ da của mình”. Tôi muốn mình là một con người,
dù là một con người nhỏ bé, còn nhiều khiếm khuyết, nhưng dứt khoát không thể
là một con vật.
Vì vậy,
tôi phải đi biểu tình chống
Trung Quốc xâm lược,
tôi phải không chịu để cho
người ta bịt miệng, mà quyết nói to lên chính kiến và tư tưởng của mình, lên án
lũ bán nước và lũ cướp nước, góp phần thức tỉnh những ai còn bị mơ hồ trước
những thủ đoạn bịp bợm, lừa mị đang làm ô nhiễm và đầu độc môi trường xã hội,
tôi phải nói to lên với thế
giới khát vọng cháy bỏng của nhân dân tôi đang khát khao ánh sáng của tự đo dân
chủ mà Hồ Chí Minh đã nêu lên trong Tuyên ngôn Độc lập 2.9 năm 1945.
Vì, tôi là đảng viên của
Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập, tổ chức và lãnh đạo. Tôi đang ở trong Đảng để góp
phần đấu tranh chống lại sự tha hóa, trước hết là sự tha hóa quyền lực, nhằm
làm cho Đảng trong sạch trở lại, với nhận thức rằng “Sự tha hóa quyền lực
tất yếu sẽ dẫn đến sụp đổ chế độ chính trị. Nếu sự tha hóa ấy không dừng lại và
lành mạnh hóa thì sụp đổ là không thể khác, chỉ còn là vấn đề thời gian. Sự sụp
đổ ấy chính là tự đổ, không phải do ai phá và cũng không ai cản nổi”
như nguyên phó Trưởng ban Ban Tuyên giáo Trung ương Vũ Ngọc Hoàng viết trên tạp
chí Tuyên giáo gần đây. Sự tha hóa quyền lực đó chưa hề dừng lại càng
chưa hề “lành mạnh hóa”, hơn nữa, lại đang được đẩy tới một cách
hối hả, diễn biến những ngày qua cho thấy rõ điều đó.
Vì vậy, đúng “chỉ còn
là vấn đề thời gian”, và thời gian đang ủng hộ chúng ta,những
người vững tin vào tính tất yếu của quy luật vận động, tin vào chân lý của cuộc
sống, mà đã là chân lý thì “không ai cản nổi”.
Ngày 21.8.2017
T.L.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét