Paweł Łepkowski - Phạm Nguyên Trường dịch
Cuộc sống thiếu lành mạnh, nghiện rượu và kết quả là một cú
đột quỵ hay là một vụ giết người được che đậy một cách khéo léo? Vẫn còn nhiều
câu hỏi.
Nhân kỷ niệm 60 năm ngày bạo chúa ra đi, người ta đã cho
công bố một số văn kiện khẳng định một cách rõ ràng rằng nguyên nhân làm ông ta
chết là sức khỏe quá kém và lối sống thiếu lành mạnh. Sau khi khám nghiệm tử
thi - được thực hiện vài giờ sau khi Stalin qua đời ngày 5 tháng 3 năm 1953 –
đã xuất hiện tài liệu dài 11 trang mô tả nguyên nhân dẫn tới cái chết của “bệnh
nhân số một” của Liên Xô.
Báo cáo trông như một tài liệu đáng tin cậy. Có cảm giác rằng
các sự kiện hoàn toàn không bị che dấu và các thông tin quan trọng về cách sống
của nhà độc tài để xác định nguyên nhân làm ông ta chết cũng không bị làm cho
lu mờ đi. Ở tuổi 75, Joseph Dzhugashvili (Stalin) bị xơ gan và xơ vữa động mạch
trên diện rộng. Tài liệu khám nghiệm tử thi cho thấy, nguyên nhân trực tiếp là
nhà độc tài bị bị đột quỵ do uống nhiều rượu.
Những buổi nhậu nhẹt do nhà độc tài làm chủ xị
Ngày hôm đó Stalin uống rượu vang Gruzia. Trong những lúc rỗi
việc, nhà độc tài này thường uống rất nhiều và thích pha nhiều loại rượu với
nhau: ông thường pha rượu vang với rượu vodka Nga. Món nhắm của ông khá tinh tế,
nhưng thường có nhiều mỡ… (bỏ một đoạn nói về tiểu sử đang ngờ của Stalin)
Những buổi tiệc tùng của Stalin thường bắt đầu vào khoảng 8
giờ tối và kết thúc vào lúc 3 hoặc 4 giờ sáng, khi giới ăn trên ngồi trốc của
nhân dân Liên Xô đã say khướt và nằm ngay trên những thứ mà mình vừa nôn ra bên
dưới gầm bàn trong phòng ăn của lãnh tụ. Nhưng chính Stalin thì lại không bao
giờ say đến mức mất kiểm soát cả bản thân mình lẫn môi trường xung quanh. Sau
khi các bạn nhậu đã gục vì rượu, Stalin mới loạng choạng đi vào phòng ngủ hay nằm
trên chiếc ghế dài trong phòng làm việc của ông. Sau này, Nikita Khrushchev nói
rằng, mục đích của những bữa ăn tối như thế là chuốc cho khách uống saý và
khiêu khích để họ nói ra những nhận xét ngu ngốc hay thiếu suy nghĩ. Stalin,
Khrushchev nói, đơn giản là làm cho mọi người say bét nhè, và người ta càng uống
thì ông ta càng khoái. Mọi người lần lượt nâng cốc chúc mừng. Sức khỏe hay người
nào đó không uống được rượu không phải là vấn đề. Người không uống rượu là kẻ
đáng ngờ: rượu làm cho ngay cả những người thận trọng nhất cũng nói thật.
Những miếng thịt nhiều mỡ, các loại rượu khác nhau và hàng
chục bao thuốc lá mỗi ngày đã giáng một đòn nặng vào sức khỏe của Stalin, hơn cả
những đơn vị quân Đức khi họ tấn công Liên Xô năm 1941. Cái giá mà ông ta phải
trả cho cách sống như thế là vụ đột quỵ, xảy ra sau buổi tiếp khách hoàng tráng
cuối cùng, sáng ngày 01 tháng 3 năm 1953, làm cho nhà lãnh đạo này rơi vào tình
trạng tê liệt. Dữ liệu chính thức của vụ khám nghiệm tử thi không nói như đinh
đóng cột rằng Stalin chết là do đột quỵ. Các tài liệu đó khẳng định rằng Stalin
chết là do thiếu ô xy, nhưng không nói rõ rằng đấy là quá trình tự nhiên hay một
vụ giết người.
Hoang tưởng thời hậu chiến
Giai đoạn rối loạn tâm thần thời hậu chiến của Stalin bắt đầu
từ ngày 6 tháng 8 năm 1945, đấy là khi người ta báo cáo với ông rằng một quả
bom nguyên tử đã được thả xuống Hirosima. Đây là lần đầu tiên người ta nghe thấy
những lời cảm thông về dân tộc khác hay nhà nước khác: “Chiến tranh là dã man,
nhưng sử dụng bom nguyên tử thì quá dãn man! Hơn nữa, không cần làm thế. Nhật Bản
đã thất bại rồi”. Ông ta coi số phận của Hiroshima như một lời cảnh cáo dành
cho cá nhân mình. Kể từ đó, ông ta coi các chính sách của Mỹ, đối thủ của ông
ta, chỉ còn là đe dọa bằng hạt nhân mà thôi.
Mối đe dọa bên ngoài làm gia tăng sự sợ hãi từng ám ảnh
Stalin về những kẻ phản bội, đang lập kế hoạch đảo chính ở Liên Xô. Ngày 7
Tháng 8 năm 1945, ông ra lệnh cho Beria tập hợp các nhà khoa học đang nghiên cứu
vật lý hạt nhân và đưa họ tới họp ở Kuntsevo. Ở đây ông ta hăng hái nhấn mạnh vấn
đề ưu tiên là bằng mọi cách phải chế tạo được bom hạt nhân. Ông ta đe dọa các
nhà khoa học, nhưng đồng thời cũng hứa cho họ hàng núi vàng. “Tất nhiên, có thể
tạo điều kiện để mấy ngàn người sống tốt và thậm chí tốt hơn là tốt, - ông nói
và sau đó còn vừa nói thêm vừa đăm đăm nhìn vào mặt của các viện sỹ: “Con không
khóc thì mẹ không biết nó muốn gì. Hãy nói các vị muốn gì. Không bao giờ các vị
bị từ chối”. Trên thực tế, từ đó cộng đồng khoa học đã trở thành đối tượng nghi
ngờ mang tính bệnh hoạn của Stalin. Bạo chúa coi những nhà khoa học gốc Do Thái
là đáng ngờ nhất, ông ta coi họ là không kiên định về tư tưởng. Người đứng đầu
NKVD (Bộ Nội Vụ - ND) Lavrentiy Beriya tự nắm quyền chỉ huy chương trình hạt
nhân, dưới quyền lãnh đạo của ông này là 460.000 nhân viên, trong đó có 10.000
kỹ thuật viên.
Tin tức từ Nagasaki và Hiroshima làm Stalin thất vọng đến mức
ngày 9 tháng 11, Molotov và Malenkov gần như buộc ông phải đi Biển Đen nghỉ vài
ngày. Khi chuyến tàu đặc biệt chở nhà độc tài đã đi theo hướng Sochi, Stalin cảm
thấy đau nhói ở ngực. Vài ngày sau, ông bị một cơn đau tim nặng ngay tại nhà
nghỉ mùa hè. Ở Moskva có tin đồn rằng Beria, Mikoyan và Malenkov đã giành quyền
lực vào tay mình và có thể, trong khi tìm cách chia nhau quyền lực, họ đã che dấu,
không để mọi người biết rằng Stalin đã chết. Stalin phục hồi khá chậm. Ông ngủ
nhiều và thường đi bách bộ. Cảnh giác chỉ bừng tỉnh sau khi ông đọc bài viết
trên trang nhất của tờ báo địa phương ra ngày 10 tháng 10, trong đó có thông
báo của hãng tin TASS nói rằng “Đồng chí Stalin đi nghỉ mát”. Lửa được đổ thêm
dầu khi tờ Chicago Tribune tung ra báo cáo với tiêu đề rõ ràng “Những tin đồn
trên báo chí nước ngoài về tình trạng sức khỏe của đồng chí Stalin”. Tác giả
bài báo cho rằng Stalin đã bị mất khả năng làm việc và quyền lực được chuyển
cho các nguyên soái Liên Xô. Quyết định cuối cùng để lãnh tụ cắt đứt kì nghỉ là
bài phỏng vấn Zhukov trên tờ báo của Mỹ, trong đó vị nguyên soái này đã gán cho
mình tất công lao trong cuộc chiến chống Đế chế thứ ba và gần như lờ đi vai trò
của Stalin.
Lòng tin của Stalin vào Molotov cũng ngày càng giảm đi, uy
tín trên trường quốc tế của ông này làm Stalin ghen tức. Lãnh tụ nắm được bản
sao bức thư Molotov viết cho vợ, trong đó có đoạn: “Ở đây, anh nằm ở tâm điểm
chú ý của bọn tư sản. Trong khi chẳng ai để ý đến các bộ trưởng khác. Anh rất
nhớ em và con gái của chúng ta. Đôi khi anh rất muốn được gần gũi và được em âu
yếm”. Đối với Stalin, những câu chữ như thế có thể có nghĩa là muốn chạy sang
phương Tây. Molotov cho người ta hiểu rằng nếu có cuộc thanh trừng mới trong Bộ
Chính trị thì ông ta sẽ có người giúp, sẽ có chỗ ở và đưa gia đình sang. Người
ta cho rằng lúc đó Stalin đã cố tình cho Molotov nhiều tự do hơn trong lĩnh vực
đối ngoại của Liên Xô. Molotov là một người thực tế và thực dụng, sớm muộn gì
cũng sẽ xung đột với lãnh tụ.
Stalin đã làm Molotov mất cảnh giác, ông này đã xây dựng được
những mối quan hệ thân thiện với một số chính trị gia phương Tây, và thế là,
Stalin bất ngờ tấn công Molotov ngay trong cuộc họp của Bộ Chính trị ngày 8
tháng 11 năm 1945. Stalin sử dụng đại từ “вы” (ông – ND) với người mà ông ta vẫn
gọi là “ты” (anh, cậu – ND), đã tung ra một bài diễn văn gay gắt, cáo buộc
Molotov là tìm cách xa lánh chính phủ và thể hiện bản thân như là người theo
phái tự do. Những người chứng kiến sau đó nói rằng Molotov bệch ra như phấn,
ông ta từ từ đứng dậy, lưng gập lại, và theo đúng nghi lễ trong Điện Kremlin,
ông ta vừa nhìn chằm chằm xuống sàn nhà vừa tự phê bình, bắt đầu bằng những từ
ngữ như sau: “Tôi thừa nhận rằng tôi đã để xảy ra sai lầm nghiêm trọng”.
Molotov, trong nhiều năm vốn được hưởng đặc quyền là được gọi Stalin là “Koba”,
đã trở thành thành phần bị nghi ngờ là phản quốc và bù nhìn của chủ nghĩa tư bản.
Đối với những những nhà lãnh đạo hàng đầu của đất nước có mặt trong phòng - đó
là tín hiệu rõ ràng rằng bệnh hoang tưởng của Stalin đã bắt đầu diễn ra dưới
hình thức mới và cực kì nguy hiểm.
Có lẽ, ngay lúc đó một số ủy viên Bộ Chính trị đã nghĩ rằng
cần phải loại bỏ kẻ tâm thần này, nhưng phải chờ vài năm mới thực hiện được kế
hoạch, để tất cả các yếu tố đều cho thấy rằng ông ta chết một cách tự nhiên.
Nhân chứng quá trình hấp hối
Không ai chứng minh được rằng các chính trị gia quan trọng
nhất trong Điện Kremlin đã âm mưu chống lại vị tổng tư lệnh của mình. Tuy
nhiên, có những manh mối chỉ ra rằng sự kiện ngày 5 tháng 3 năm 1953 có những dấu
hiệu của một vụ ám sát chính trị. Giấy chứng tử chính thức của Joseph
Vissarionovich Dzhugashvili viết rằng trái tim của “Lãnh tụ Kính yêu” và “vầng
thái dương của nhân loại tiến bộ” đã ngừng đập vào lúc 21 giờ 50 phút. Nhưng,
48 giờ trước đó trong cuộc đời nhà lãnh đạo thì được giữ kín. Phiên bản chính
thức nói rằng trước đó Stalin uống loại rượu Gruzia mà ông vẫn thích, sau đó
ngã gục xuống sàn nhà và rơi vào tình trạng hôn mê. Chúng ta không biết, tối
hôm đó giới chóp bu Liên Xô có kế hoạch tới Kuntsevo ăn nhậu hay không. Chỉ biết
rằng lúc Stalin chết, ở đó có mấy chục người, trong đó có cô con gái, tên là
Svetlana, con trai tên là Vasily, cũng như những người khách thường xuyên có mặt
trong những buổi ăn nhậu, đứng đầu là Molotov, Beria và Khrushchev. Trong nhà
và xung quanh nhà là đội bảo vệ và nhân viên y tế chuyên chăm sóc sức khỏe cho
nhà độc tài.
Cô con gái Svetlana Alliluyeva, 27 tuổi, lúc đó còn mang họ
Stalin, là người duy nhất khóc khi nhà độc tài này qua đời. Nhưng, nhiều năm
sau bà này viết: “Năm 27 tuổi, tôi đã chứng kiến quá trình suy sụp về mặt đạo đức
của cha mình, ngày nào tôi cũng nhìn thấy ông đang đánh mất hết nhân tính con
người và trở thành tượng đài ảm đạm cho chính mình”. Bà không bao giờ tha thứ
cho những việc mà cha đã làm với mẹ mình, nên sau khi nhà độc tài chết, bà đã đổi
sang họ mẹ. “Tôi cho rằng cái chết của mẹ, mà ông coi là sự phản bội, đã tước
đi của ông những tàn tích còn lại của tình người”, - cô cáo buộc ông như thế.
Nhưng, cái chết của Stalin không mang lại cho bà niềm vui và không làm cho bà cảm
thấy nhẹ nhàng hơn. Bà vẫn là con tin của cha mình.
Mô tả về cái chết của Stalin có vẻ khá thực tế, rất khó nghi
ngờ rằng đây là trò bịp bợm: “Mặt tối dần và thay đổi, nét mặt ông dần dần trở
thành không thể nhận ra được nữa (...) Đau đớn thật là khủng khiếp. Nó bóp nghẹt
ông ngay trước mắt mọi người. Có một lúc - tôi không biết có thực sự xảy như
như thế không, nhưng dường như – ông đột nhiên mở mắt ra, và nhìn tất cả những
người đang đứng xung quanh. Đó là một cái nhìn khủng khiếp, có thể là mất trí
hay tức giận và đầy sợ hãi trước cái chết. (...) Rồi ông giơ tay trái của mình
lên và dường như chỉ vào cài gì đó ở bên trên hay là đe dọa tất cả chúng tôi.
Sau đó, linh hồn, làm một nỗ lực cuối cùng và thoát ra khỏi cơ thể ... (...) Mặt
nhợt nhạt dần và trở lại hình dạng quen thuộc. Vài giây sau, khuôn mặt trở
thành bình lặng, yên tĩnh và đẹp. Tất cả những người đứng xung quanh đều như trời
trồng, họ cứ đứng im như thế mấy phút, tôi không biết bao lâu – dường như khá
lâu”.
Đoạn mô tả bên trên chỉ ra rằng nguyên nhân là đột quỵ, lúc
đó gọi là nhồi máu, đồng thời cũng cho thấy rằng Stalin đã không được những người
có chuyên môn giúp đỡ. Thậm chí người ta còn không đưa ông tới bệnh viện. Ông
chết trong phòng đầy khói thuốc lá trong nhà nghỉ của mình ở Kuntsevo. Những
người mà trước đó vài ngày chỉ cần ông ra hiệu bằng ngón tay là đã sẵn sàng chết,
im lặng chứng kiến cơn hấp hối của ông. Nhưng có thực sự là họ không làm gì hay
không?
Cái chai bí ẩn
Năm 2008, nhà văn kiêm nhà sử học Nga, Nikolai Dobryuha, được
quyền tiếp cận với các biên bản mật của của Cục An Ninh (FSB), liên quan đến
cái chết của Stalin. Kết luận sau khi đọc các tài liệu này được ông công bố
trong tác phẩm Người ta đã giết Stalin như thế nào (Как убивали Сталина).
Dobryuha, cũng như nhiều người viết tiểu sử Stalin nổi tiếng khác (đặc biệt là
nhà sử học người Anh Simon Sebag Montefiore), khẳng định rằng Lavrenti Beria
giành được quyền lực của chính phủ trong ngày 3 tháng 3 năm 1953, vì lãnh tụ đã
ở trong tình trạng hôn mê. Dobryuha đã phát hiệu tài liệu chứng minh rằng ngày
3 tháng 3 Beria đã chuẩn bị xong bài báo đầy cảm hứng về cái chết của vầng thái
dương của nhân loại. Đêm 2 tháng 3, Stalin, vẫn ở trong căn hộ của mình ở
Moskva, đã bị xuất huyết não do huyết áp cao và xơ vữa động mạch, Dobryuha nhấn
mạnh như thế. Điều này có nghĩa là toàn bộ câu chuyện về các sự kiện ở Kuntsevo
có thể là trò bịp bợm, và tất cả các nhân chứng thực ra là đồng phạm của âm mưu
lớn nhất trong lịch sử nước Nga.
Dobryuha cũng chỉ ra các biên bản thẩm vấn lực lượng bảo vệ
của Stalin về tình hình của bệnh tật của ông, được lập ngày 3 tháng 3. Từ lời
khai của họ, thấy rằng nhà độc tài được tìm thấy đang nằm bên cạnh một cái bàn
vào ngày 1 tháng 3. Trên bàn có một cái chai đã uống hết một nửa. Cái chai biến
mất mà không để lại dấu vết này sau đó đã trở thành đối tượng chính của mối
nghi ngờ của những người đi tìm dấu vết của tội ác dẫn tới cái chết của Stalin.
Dobryuha nhấn mạnh rằng trong phòng còn hai cái chai nữa, nhưng chỉ có cái này
biến mất mà thôi, mặc dù, theo lệnh của Gregory Mayranovskiy, trưởng phòng độc
dược của NKVD, phải mang nó tới Lubyanka (trụ sở Bộ nội vụ - ND). Đáng chú ý là
Mayranovskiy, người đòi phải phân tích thành phần chai nước, đã bị bắt ngay
trong ngày hôm đó - theo lệnh của Beria.
Ngoài ra còn có phiên bản thứ ba, kết hợp chính sử với những
phát hiện của các nhà sử học, như Dobryuha. Có lẽ, người ta đã đưa Stalin, lúc
đó đã sắp chết tới nhà nghỉ và bịa ra câu chuyện về rượu vang Gruzia và vụ đột
quỵ.
Dù sao cũng là Beria
Chả lẽ tất cả những sự kiện ngày 5 tháng 3 năm 1953 được mô
tả trong tất cả các sách giáo khoa lịch sử – chỉ là chuyện bịa đặt của một nhóm
người sợ hãi bệnh hoang tưởng lão suy của Stalin? Những tài liệu mới xuất hiện
chỉ ra rằng những sự kiện xảy ra ở Kuntsevo chỉ có thể là đoạn kết hoàn hảo của
một âm mưu chống lại con người quyền lực nhất thế giới. Nhiều năm sau, con trai
của Lavrentiy Beriya kể lại: “Năm 1952, cha tôi nhận ra rằng ông không còn gì để
mất ... Ông ấy không phải là một người hèn nhát và cũng không phải là một con cừu,
ngoan ngoãn đi đến lò mổ. Tôi không loại trừ khả năng là ông đã dự định làm một
cái gì đó. Trong các cơ quan của ông bao giờ cũng có những người sẵn sàng làm
việc này. Ngoài ra, ông có cơ quan tình báo của riêng mình, không phụ thuộc vào
cơ cấu hiện có”. Ký ức của ông này xác nhận những sự kiện mà Svetlana
Alliluyeva mô tả.
Ngày 22 tháng 12 năm 1952, Stalin mời tới Kuntsevo bộ ba
không thể tách rời trong những cuộc nhậu nhẹt ban đêm: Beria, Khrushchev và
Malenkov. Trong khi ăn, ông bất ngờ quay sang Khrushchev: “Các ông nghĩ rằng
tôi không biết tất cả các ông đều báo cáo cho Molotov và Mikoyan hay sao? Tôi
không thể chấp nhận chuyện này”. Hai người bạn lâu năm của Stalin, Vyacheslav
Molotov và Anastas Mikoyan, đã bị nhà độc tài không thích từ lâu rồi. Nhưng,
bây giờ, họ, cùng với tất cả bộ máy chính trị có nguy cơ bị tiêu diệt.
Khởi đầu cho vụ thanh trừng đã được lên kế hoạch và được chuẩn
bị trong vòng năm năm làn sóng bài xích người Do Thái, bắt đầu vào ngày 13
tháng 1 năm 1953, là bài báo của Stalin trên tờ “Pravda” về việc bắt giữ các bác
sĩ Do Thái, mà ông ta gọi là “những kẻ giết người và gián điệp ghê tởm khoác mặt
nạ giáo sư-bác sĩ”. Lời tuyên bố nói rằng các cơ quan an ninh đã mất cảnh giác
cũng là lời kết án Beria. Nhưng Beria không muốn có số phận giống như những người
tiền nhiệm của mình là Yezhov và Yagoda. Chỉ có một cách có thể chặn đứng bàn
tay của kẻ điên rồ này: tổ chức vụ ám sát được suy nghĩ tới từng chi tiết nhỏ
nhặt nhất. Những kẻ âm mưu đã lợi dụng cơn cuồng loạn chống lại các “bác sĩ sát
thủ” mà nhà độc tài đã gây ra. Ngày 2 tháng 3, đáng lẽ phải cứu Stalin thì họ lại
đưa vị bác sĩ riêng của Stalin vào ngục tối ở Lubyanka vì sơ suất trong khi thi
hành nhiệm vụ.
Rõ ràng, những kẻ âm mưu đã phân phối vai diễn một cách rất
cẩn thận. Beriya phải cho vào rượu chất ngừa đông máu, trong vài ngày sẽ gây ra
đột quỵ, còn Khrushchev và những khác – thì hạn chế đến mức tối thiểu việc chăm
sóc y tế. Bằng chứng hỗ trợ cho luận điểm này là lời của Beria, tại cuộc họp đầu
tiên của Bộ Chính trị sau đám tang. Ông ta đã phá vỡ sự im lặng đầy tang tóc,
và đã làm mọi người ngạc nhiên, khi nói thẳng ra rằng: “Một tên vô lại, một tên
khốn kiếp! Cảm ơn Chúa, chúng ta đã thoát được hắn. Hắn chẳng thắng cuộc chiến
nào hết, chúng ta đã giành chiến tranh. Không chỉ có thế - có thể tránh được cuộc
chiến”.
Paweł Łepkowski
Phạm Nguyên Trường dịch
Lời người dịch: Xin xem xét các nhân vật được nhắc tới trong
bài báo này:
Nikita Sergeyevich Khrushchyov (1894-1971) là Tổng bí thư Đảng
Cộng sản Liên Xô. Ông là người kế nhiệm Stalin, sau khi Stalin chết vào năm
1953. Năm 1964 bị đàn em đảo chính và bị giam lỏng tại gia cho đển chết.
Vyacheslav Mikhailovich Molotov (1890-1986) là chính trị gia
và nhà ngoại giao, nhân vật nổi bật từ thập niên 1920, khi ông nổi lên trở
thành nhân vật quyền lực trong Đảng Cộng sản LX. Năm 1957, ông ta bị Nikita
Khrushchep loại khỏi Đoàn chủ tịch (Bộ chính trị) Uỷ ban Trung ương.
Georgy Maksimilianovich Malenkov (1902-1988) là Tổng bí thư,
Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng. Năm 1957, Malenkov bị buộc tội tham gia Nhóm chống
Đảng và bị loại khỏi Bộ Chính trị. Năm 1961, ông bị khai trừ khỏi Đảng.
Lavrentiy Pavlovich Beria (1899 –1953) là chính trị gia,
nguyên soái, phụ trách an ninh quốc gia, lãnh đạo bộ máy an ninh và và cảnh sát
mật Liên Xô (NKVD) và là Phó Thủ tướng trong những năm thời hậu chiến
(1946–1953). Bị bắt giữ với tội phản quốc ngày 26 tháng 6 1953. Bị bắn ngay sau
phiên tòa.
Светлана Аллилуева,con gái Stalin, (1926 – 2011), năm 1966 lợi
dụng việc đưa thi hài chồng về Ấn Độ, đã chạy sang Mỹ, cuối năm 1984 mới trở về
Liên Xô. Sống và chết trong cô đơn.
Василий Сталин (1921-1962) trung tướng, chỉ huy lực lượng
không quân quân khu Moskva. Sau khi bố chết bị điều ra khỏi Moskva để chỉ huy
quân khu khác, không tuân lệnh, chạy vào đại sứ quán Trung Quốc, và tuyên bố rằng
Stalin bị đầu độc. Ngày 28 tháng 4 năm 1953 bị bắt, và bị tù đầy cho đến chết.
Genrikh Grigoryevich Yagoda, tên khai sinh Yenokh Gershevich
Iyeguda là một quan chức cảnh sát mật Liên Xô, người từng là giám đốc NKVD, cơ
quan an ninh và tình báo của Liên Xô từ năm 1934 đến năm 1936, bị giết năm
1938.
Yezhov cũng là giám đốc NKVD, bị giết năm 1940.
Đáng chú ý là Mayranovskiy, người đòi phải phân tích thành
phần chai nước, đã bị bắt ngay trong ngày hôm đó - theo lệnh của Beria
Ngày 2 tháng 3, đáng lẽ phải cứu Stalin thì họ lại đưa vị
bác sĩ riêng của Stalin vào ngục tối ở Lubyanka vì sơ suất trong khi thi hành
nhiệm vụ.
Điện Kremlin thời đó là vương quốc của tình yêu hay vương quốc
của bầy quỷ dữ?
(Hết lời người dịch)
* Bản gốc trên Rzeczpospolita, dịch từ bản tiếng Nga tại http://inosmi.ru/history/20161009/237994318.html
(Blog Phạm Nguyên Trường)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét