Nguyên Ngọc
Đại hội Nhà văn lần thứ IV, họp từ
ngày 28-10 đến 1-11-1989 thì quả là một đại hội “hậu báo Văn nghệ”.
Trong Hòa bình khó nhọc tôi đã kể khá rõ việc trước đại hội
ông Đào Duy Tùng “mời tôi đến chơi” ở trụ sở Ban Bí thư Trung ương Đảng, đường
Nguyễn Cảnh Chân ngày đêm có công an gác chặt ở hai đầu. Cảm giác của tôi là
hơi buồn cuời: ông ấy, ủy viên Bộ Chính trị phụ trách tư tưởng, ông ấy sợ. Đại
hội họp quá gần với vụ báo Văn nghệ. Họ sợ đây sẽ là cơ hội bùng nổ
phản ứng rộng rãi, dữ dội và ồn ào việc họ xử lý báo Văn nghệ, đến
lúc này hãy còn nóng bỏng. Ông Tùng hỏi tôi nghĩ gì về đại hội lần này. Câu hỏi
ngớ ngẩn và vụng về, tại sao lại hỏi tôi, người mới bị thanh trừng. Rõ ràng ông
sợ tôi đứng ra hoặc anh em lấy tôi làm “một ngọn cờ” (!) để nổi dậy thì sẽ khó
cho các ông quá. Tận dụng luồng gió còn có ít mùi dân chủ của Đại hội Đảng lần
thứ VI, các nhà văn đã đòi và đòi được họp đại hội toàn thể chứ không phải đại
hội đại biểu như các lần trước để cái gọi là hệ thống chính trị loại đi bớt
những người họ không ưa. Anh em cũng đã đòi được quyền đại hội bầu trực tiếp
Tổng thư ký (Cũng xin nói luôn, trước đây có tục không thành văn, hội nào có
nhân vật thuộc loại khai quốc công thần tham gia ban lãnh đạo thì mới bầu người
gọi là Chủ tịch, như Hội Nhà văn có thời cụ Nguyễn Công Hoan làm Chủ tịch, dưới
ông mới đến Nguyễn Đình Thi là Tổng thư ký. Sau đó lại trở lại chỉ có Tổng thư
ký. Bây giờ thì Chủ tịch tất, lệ mới không biết ra đời từ bao giờ, nhưng mà nhớ
lại từng có lúc dự định – hẳn phải là của Bộ Giáo dục – ngay từ lớp Một, lớp
Hai, các cô cậu nhóc con trưởng lớp sẽ được gọi là Chủ tịch lớp kia mà, “cái
nước mình nó thế” anh Hoàng Ngọc Hiến nói rồi).
Tôi không trả lời câu hỏi đầy lo
lắng của ông Tùng, chỉ nói cái đại hội này, và thậm chí cả cái Hội Nhà văn của
nhà nước kia chẳng có gì quan trọng lắm đâu, ông và các ông chớ có lo. Đúng ra
đừng có nó là hơn. Nguyễn Huy Thiệp viết hay không dính dáng chút nào đến sự
lãnh đạo Đảng đoàn của tôi, tôi viết dở chẳng hề do tội ông Nguyễn Đình Thi làm
Tổng thư ký. Tôi nói một chuyện khác, theo tôi quan trọng hơn nhiều. Và tôi nói
với ông, nghiêm túc, trong gần một tiếng, về sự xuống cấp trầm trọng ở tầng lớp
trí thức nước ta bị Đảng liên tục vùi dập bao phen và bằng nhiều cách. Với một
nền tảng của một tầng lớp trí thức ưu tú của dân tộc xuống cấp và bị ĐẢNG KHINH
BỈ SÂU SẮC như anh Nguyễn Đăng Mạnh đã nói thẳng với Tổng bí thư Nguyễn Văn
Linh trong cuộc gặp mặt nổi tiếng, thì đừng hòng có một nền văn học lớn như ta
cứ muốn đòi vống lên… Tôi không tin ông Tùng hiểu lắm ý kiến và mối lo thật sự
của tôi. Ông còn lo thậm chí đại hội bầu tôi làm Tổng thư ký.
Trước đại hội ít lâu, Nguyễn Khoa
Điềm ở Huế ra có đến nhà tôi chơi. Có lần tôi làm trưởng đoàn nhà văn Việt Nam
đi thăm Liên Xô, thành viên có Nguyễn Khoa Điềm và hình như cả Lê Văn Thảo, nên
tôi có hiểu Điềm. Hôm ấy ở nhà tôi, tôi có nói với anh lần này Điềm phải ra làm
Tổng thư ký đi. Theo tôi, Điềm là người hiểu biết hơn cả, có kinh nghiệm lãnh
đạo, quản lý, và là người đàng hoàng. Nếu Điềm không làm, tôi dự đoán tình hình
sẽ như thế này: tôi thì chắc chắn không bao giờ người ta để cho tôi làm. Còn
mấy người có thể làm được, Nguyễn Quang Sáng thì nhất định không chịu ra Hà Nội
đâu, anh ấy tốt nhưng là người thích tự do ăn chơi, rượu chè, gái gú, sẽ không
chịu bỏ Sài Gòn mà đi. Nguyễn Khải rất có năng lực và tốt, nhưng lại lười,
không muốn làm người đứng đầu gánh vác. Tôi rất e người ta sẽ chọn một nhân vật
sao cũng được, kiểu Vũ Tú Nam chẳng hạn. Sẽ rất buồn và nhạt nhẽo cái hội dẫu
sao ta vẫn cứ phải đành hy vọng. Hai anh em trò chuyện khá lâu. Điềm nhất định
từ chối. Anh bảo để anh đi con đường của tỉnh chắc hơn. Lúc bấy giờ anh đang
làm Phó Bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế. Tôi hiểu. Cả sau này, có lần sang làm
Tổng thư ký Hội Nhà văn, anh vẫn giữ chắc chân cùng lúc làm luôn Bộ trưởng Bộ
Văn hóa. Con đường ấy rõ ràng và suôn sẻ hơn, cứ thế mà lên. Ở đại hội, khi bầu
cử, anh xin rút tên khỏi danh sách ứng viên.
Hội Nhà văn được coi là hội quan
trọng hàng đầu, bao giờ cũng được họp ở hội trường Ba Đình, cũng có một vị rất
cao đến dự khai mạc và đọc diễn từ chào mừng. Lần này lại đặc biệt đáng lo, hội
viên cả nước về, trông chừng khí thế rất hăng rất “dữ”, nghe bảo lúc nào cũng
có một ông ủy viên Bộ Chính trị ngồi giấu mình theo dõi phía sau màn sân khấu,
không biết có đúng không. Trí nhớ tôi tồi, tôi không nhớ những ông quan trọng
nào đã đến đại hội.
Vừa rồi có anh em nhắc chính ông
Lê Đức Thọ cũng có đến, và nhân khi ông đến, Phạm Tường Hạnh liền xông lên diễn
đàn kêu cứu và hung hăng tố cáo đám đổi mới.
Nguyễn Duy mô tả cảnh đó:
“Phạm Tường Hạnh vứt văn chương
vọt lên đánh hụt một đường đại
đao”
Anh ta gào lên:
“… ối giời ơi! bác Sáu
(Thọ] ơi!...
nhà ta nó phá tan rồi còn đâu…”.
Anh em còn nhắc chuyện ông Trần
Trọng Tân chăm chỉ một cách bất thường, bỏ nhà đến ăn ngủ ngay tại nhà khách 37
Hùng Vương, nơi đại biểu các nơi về ở mấy ngày đại hội, để dò la tình hình
chuẩn bị đối phó. Cũng không ngờ họ sợ đến vậy…
Còn những người đầu tiên ngạc
nhiên về đại hội là các nhân viên phục vụ và bảo vệ ở hội trường Ba Đình. Chưa
bao giờ họ thấy tụ hội ở cái nơi long trọng nhất nước này một đám đông gọi là
đại biểu những 396 người hết sức ồn ào và mất trật tự, ăn mặc đủ kiểu đủ mốt,
nói năng ngang tàng, mà lại nghèo đến thế. Tuyệt đối toàn xe đạp, không ô tô đã
đành, chỉ duy nhất một nguời là ông nhà văn đại tá Hồ Phương cưỡi chiếc xe máy
Peugeot từ đời nảo đời nào của Tây, được coi là kỳ quan.
Tôi không nhớ người ta đã làm
những gì ở đại hội để mà họp được lâu thế, những năm ngày, từ 28 tháng 10 sang
tận mồng 1 tháng 11. Gọi là đại hội nhà văn nhưng hầu như chẳng mấy ai nói thật
sự về những vấn đề sâu sắc của văn học. Công kích nhau là chính, hoặc sỗ sàng
dao búa hoặc thâm thúy cay chua. Tất nhiên có phản đối mạnh mẽ vụ xử lý báo Văn
nghệ, trong khi Nguyễn Đình Thi và Chính Hữu im re như không nghe thấy
(Thậm chí đến cuối buổi bế mạc, Nguyễn Đình Thi bỗng bất ngờ bước tới ôm hôn
tôi thắm thiết)… Còn thì chủ yếu hướng đến chuyện bầu bán, hoặc ngầm ám chỉ đến
chuyện bầu ai, loại ai.
Tôi không để ý, nhưng về sau Hữu
Mai có lần bảo tôi: “Cậu thấy không, tất cả những người rốt cuộc được bầu vào
Ban Chấp hành đều im lặng, không ai phát biểu câu nào suốt năm ngày cực kỳ ồn ào
ấy. Im lặng là vàng…”.
Mấy câu của Nguyễn Duy trích ra ở
trên là trong bản trường ca rất hay của anh “Nhìn từ gần đại hội nhà văn”.
Trong tác phẩm bi hài ấy, anh chia đại hội ra thành hai phe mà anh gọi là hai
phái, “phái vui tươi” tức đám cải cách, và “phái hằm hằm” tức đám bảo thủ. Nhìn
chung phái vui tươi đông hơn, tươi cười, hớn hở, rất thoải mái, tự do và tài
tử; thường bỏ hội trường xuống căng-tin uống bia, thậm chí bỏ đi chơi đâu đó,
thích thì trở về xông lên diễn đàn, ăn nói hùng hồn. Tất nhiên cũng có người
nhỏ nhẹ, mà nghe kỹ sắc tựa dao, như Trần Thùy Mai, con gái Huế mà lại! Có
chuyện anh Trần Độ đi công tác vắng, gửi lại đại hội một bức thư thẳng thắn và
nghiêm trang, Chủ tịch đoàn có Nguyễn Đình Thi và Trần Bạch Đằng lúng túng
không muốn công bố. Anh Nguyễn Văn Hạnh, là Phó ban Văn hóa Văn nghệ của anh Độ
liền bước lên diễn đàn đọc thư anh Độ. Trong trường ca đặc sắc viết nhại theo
“Chinh phụ ngâm” của mình, Nguyễn Duy ghi lại khoảnh khắc “lịch sử” ấy như sau:
“Trần Độ biến nơi nào chẳng thấy
thấy phất phơ có mấy tờ thư
phấp pha phấp phới ngôn từ
đoàn Chủ tịch cứ ậm ừ mần thinh
(…)
Nguyễn Văn Hạnh một mình một
ngựa
phá trùng vây ở giữa sa tràng
quyết lòng mở ruột phơi gan
đã vì đồng đội gian nan sá gì…”.
Đọc xong, Nguyễn Văn Hạnh lại có
thêm mấy lời ngắn của mình. Thư anh Độ và phát biểu của Hạnh được đông đảo vỗ
tay rào rào.
Cũng còn cách vỗ tay khác, anh nào
nói linh tinh và dông dài thì bị phái đối lập vỗ tay kèm la ó đuổi xuống…
Quan trọng nhất tất nhiên là đoạn
bầu cử, vào buổi chiều của ngày thứ tư. Không khí rất căng, nhiều người cứ lân
la quanh ban kiểm phiếu do Trần Hữu Tòng đứng đầu, nghe ngóng kết quả. Đại hội
nhà văn bao giờ cũng kỳ, lần trước chỉ tròm trèm 300 hội viên, đã bầu ra một
Ban Chấp hành hơn 40 người, lần này đại hội toàn thể gần 400 hội viên lại bầu
lần thứ nhất chỉ được có sáu người, theo số ghi chép của Kim Cúc vốn là nhà báo
rất cẩn thận, Nguyễn Quang Sáng cao nhất 203 phiếu, thứ hai đến Xuân Cang 189
phiếu, thứ ba là tôi 188 phiếu, rồi lần lượt đến Hữu Thỉnh, Vũ Tú Nam, cuối
cùng là Chính Hữu 178 phiếu. Đại hội quyết định dừng lại ở đây đã, sáng mai sẽ
bầu tiếp, ít nhất cũng phải được cho đủ chín người. Kỳ thực lúc đó cũng chưa
muộn lắm, thậm chí làm thêm lậm vào buổi tối một ít cũng chẳng sao, nhưng về
sau mới rõ vì sao mà đã có cái quyết định tạm dừng đó: sáu người vừa được bầu
bất ngờ được lệnh Ban Bí thư Trung ương Đảng gọi sang họp ngay ở trụ sở bên
Nguyễn Cảnh Chân. Kết quả bầu sáu người vừa rồi, có vẻ phái vui tươi hơi lấn át,
vả lại còn chuyện bầu trực tiếp Tổng thư ký nữa, “lãnh đạo” lo, thấy cần chỉ
đạo ngay.
Từ hội trường Ba Đình sang Nguyễn
Cảnh Chân chỉ mấy trăm mét, chúng tôi đi bộ sang.
Vừa đến cổng số 4 Nguyễn Cảnh
Chân, tôi gặp ngay một người quen từng gần gũi, biết khá rõ về nhau và khá thân
từ những năm chiến trường: anh Trần Kiên, lúc này đang là ủy viên Ban Bí thư,
Trưởng ban Kiểm tra Trung ương Đảng. Anh Kiên nắm tay tôi: Khoan vô đã, tao có
chút chuyện muốn dặn mày…
Cho phép tôi tạm dừng lại đây, có
thể hơi dài, để nói về anh Trần Kiên, một nhân vật rất đặc biệt, ngày ấy đã
hiếm, bây giờ thì chắc không còn.
Anh Kiên, quê Quảng Ngãi, là cán
bộ kỳ cựu, tham gia cách mạng từ năm 1936, từng là du kích Ba Tơ, và trong suốt
cuộc đời chắc chắn là một người liêm khiết nhất nước. Khi nghỉ hưu, anh trở về
ngôi nhà gần như rách nát của anh ở thị xã Quảng Ngãi, cầm về chỉ mấy cuốn sổ
tay ghi chép riêng. Vậy mà khi anh mất, lập tức có mấy người, chắc là từ trung
ương vội vã bay vào, thu ngay mấy cuốn vở ấy, không ai biết vì sao và họ mang
đi đâu. Có những gì trong mấy cuốn vở lùi xùi ấy để người ta phải sợ chúng đến
thế?
Năm 1954, anh Kiên không đi tập
kết, có lần anh kể với tôi chuyến anh đi từ Bình Định lên Kontum để gặp các
đồng chí được bố trí ở lại và thành lập Khu ủy bí mật Khu 5 trong khi đối
phương đã tiếp thu vùng tự do cũ của ta, rải quân canh gác dày đặc khắp các
vùng anh phải đi qua. Anh cải trang làm một người đi bán võng. Gặp một chị gọi
anh vào để mua võng, hỏi loại võng anh bán là võng mấy tay, anh toát mồ hôi vì
mình có biết tay võng là gì đâu! Thấy anh lúng túng, chị ấy cười, bảo thôi mấy
tay cũng được, anh cứ để đó tui mua, và chị đưa cho anh gần gấp đôi hơn số tiền
anh nói. Dân mình vậy đó, sau này anh kể lại với tôi, họ rất tinh, chị ấy quá
biết anh là cán bộ cộng sản cải trang, im lặng bảo vệ và khôn khéo giúp anh.
Còn có rất nhiều chuyến đi như thế của những người ở lại, từ các vùng đồng bằng
lúc này đã bị chiếm, tìm đường về phía Bắc Tây Nguyên để hình thành Khu ủy Khu
5 và các bộ phận chung quanh Khu ủy, đều ly kỳ, mạo hiểm. Lại cũng còn những
chuyện về kẻ ở người đi, phong phú, và có lúc cười ra nước mắt, tôi mong sẽ có
dịp kể khi đến đoạn thích hợp…
Suốt kháng chiến chống Pháp, anh
Trần Kiên chiến đấu ở Bắc Tây Nguyên (còn tôi thì ở phía Nam); đến thời chống
Mỹ, anh tham gia Thường vụ Khu ủy Khu 5, có lúc làm Phó Bí thư, phụ trách Chủ
nhiệm hậu cần Quân khu, nghĩa là người gánh vác trăm sự nhiêu khê cơm áo gạo
tiền cho bộ đội, cả cho dân, đặc biệt trong những năm tháng cực kỳ khó khăn sau
Mậu Thân 1968. Anh là chuyên gia hàng đầu về Tây Nguyên, thông thạo đến từng
hóc núi trên cao nguyên rộng lớn này. Sau chiến tranh, anh từng làm Bí thư một
loạt tỉnh, Gia Lai-Kontum, Đắc Lắc, Quảng Ngãi, Nghĩa Bình… trước khi ra làm Bộ
trưởng Bộ Lâm nghiệp, ở Đại hội VI của Đảng anh được bầu vào Ban Bí thư Trung
ương và làm Trưởng Ban Kiểm tra Trung ương Đảng.
Tôi có một chuyến đi xuyên Việt
cùng anh, chỉ có hai anh em với một chiếc U-oát Nga đủ sức leo mọi dốc cao, từ
Hà Nội vào Sài Gòn, không theo đường số 1, mà xuyên dọc suốt các tỉnh Tây
Nguyên. Anh hỏi tôi đã từng chiến đấu những đâu trên cao nguyên trong hai cuộc
chiến, bị thương mấy lần, ở đâu… Tôi chú ý những người từng cùng sống và nhất
là cùng chiến đấu, cùng vào sinh ra tử ở một vùng đặc biệt nào đó, trong cùng một
thời gian đặc biệt nào đó, thường cùng nhau hình thành như là một góc xã hội
của riêng họ, một không gian, một thế giới và một bầu khí quyển riêng, thậm chí
cả một ngôn ngữ riêng, không ích kỷ và kỳ thị với “bên ngoài” nhưng là của
riêng họ, chỉ cần nói một tiếng, gọi tới một địa danh, nhắc đến một tên người,
một sự kiện hay tình huống nhỏ… là đã hiểu nhau đến cặn kẽ, cùng gợi lên trong
nhau vô số kỷ niệm và cảm xúc chỉ có mình biết. Và rất dễ thân nhau, tin nhau,
có khi còn hơn ruột thịt. Chuyến cùng đi xuyên Việt lần ấy kết chặt hai chúng
tôi trong một mối quan hệ như vậy. Tôi nhận ra ở anh một người giản dị, chân
thật, liêm khiết đến nhiều khi đến cực đoan, cực kỳ thông minh… song cũng lại
dễ duy ý chí lắm lúc đến lạ. Đi với nhau suốt từ Bắc đến Nam, tôi không hề thấy
anh nghỉ lại và ăn uống bất cứ khách sạn hay quán xá nào, ngày nào cũng lận
lưng một vắt cơm có vài lát thịt hay chỉ kèm gói muối lạc hoặc muối vừng. Lính
tráng Khu 5 hồi đó có câu cửa miệng “Muốn ăn thì theo ông Ngọc, muốn học thì
theo ông Kiên”; Ngọc là bí danh của một ông Phó Tư lệnh quân khu có tính đi đến
đâu cũng hay tổ chức chè chén. Vậy mà cả hai ông đều là xuất thân du kích Ba Tơ…
Như đã nói, sau 1975 anh Kiên còn
trụ ở Tây Nguyên khá lâu, rồi lại ra làm Bộ trưởng Bộ Lâm nghệp. Bố trí như thế
nghe rất phải thôi, còn ai hiểu Tây Nguyên và hiểu rừng hơn anh. Vậy mà thật
nghịch lý, chính anh lại là một trong những người phá rừng Tây Nguyên nặng nề
nhất. Đúng ra thời ấy có chủ trương từ trung ương nay nghĩ lại thật kỳ quặc:
dùng Tây Nguyên để giải quyết vấn đề lương thực cho cả nước. Thậm chí có chủ
trương đổi một héc ta rừng lấy một héc ta lúa hay sắn, mà đâu chỉ một héc ta,
hàng nghìn, hàng nghìn. Tôi lên Đakglei, thấy một công ty của quận 5 Sài Gòn
đang khai thác gỗ ở đấy, tôi nói với anh Kiên thế này thì chết thôi anh ơi, còn
gì rừng. Anh bảo cần thì phải làm thôi, đổi rừng lấy cái ăn cho dân đang đói
đã… Vậy đó, tác giả của những tai họa hầu như không còn cứu chữa được ấy lại
chính là những con người vô cùng trong sạch, tận tụy, có tính kỷ luật cao nhất,
và càng lạ hơn nữa, như anh Kiên, một người rất chân thành ham học và cực kỳ
thông minh.
Trên đường hai anh em cùng đi từ
Bắc vào Nam, anh thường thật thà rỉ rả hỏi tôi mình đánh nhau với bao nhiêu kẻ
thù, phải thường xuyên giáo dục kiên định quan điểm bạo lực, vậy tại sao lại
còn cho chiếu những bộ phim “xét lại” kiểu như “Đàn sếu bay qua”, “Người thứ
41”, “Trái tim trong ba lô”… của Liên Xô và các nước Đông Âu theo anh là đầy
rẫy tư tưởng hòa bình chủ nghĩa có hại. Tôi kiên trì giải thích cho anh, thấy
anh im lặng lắng nghe, hình như cũng có khiến anh đỡ thắc mắc đôi chút.
Hôm vào đến Sài Gòn, tôi có rủ anh
đến thăm anh Hoài Vũ. Sài Gòn vốn có đến mấy triệu người Hoa, nên ngoài bản
tiếng Việt, báo Sài Gòn giải phóng còn in thêm bản tiếng Hoa
do anh Hoài Vũ làm Tổng biên tập. Tôi ngạc nhiên thấy anh Kiên cầm tờ báo tiếng
Hoa đọc ngon lành. Tôi hỏi anh học chữ nho bao giờ mà đọc giỏi thế. Anh bảo có
học được trường lớp nào đâu, chỉ là hồi trẻ, đi làm thợ mộc, tới nhà người ta,
thấy mấy câu đối, câu liễn hay hoành phi, hỏi mò mà biết dần, lâu rồi cũng quen…
Tại Đại hội VII của Đảng (1991),
có một sự việc nghiêm trọng: một đám người nào đó, rất có thế lực, gửi đơn tố
cáo Đại tướng Võ Nguyên Giáp về lý lịch của ông, vu cho ông có dính dáng đến
mật thám Tây từ hồi Pháp thuộc, đòi tước tư cách đại biểu của ông, tức đuổi ra
khỏi Đại hội. Anh Trần Kiên là Trưởng ban Kiểm tra tư cách đại biểu của Đại
hội, anh dứt khoát gạt đi, kiên định bảo vệ ông Giáp đến cùng. Một sự dũng cảm
và một đức cương trực đáng ghi vào sử sách…
Một người như vậy, anh Trần Kiên,
đứng chờ tôi ở cổng Ban Bí thư sau cuộc bầu bán còn dở dang chiều ngày thứ tư
đại hội nhà văn. Anh nắm cánh tay tôi, nói nhỏ: “Tao dặn này, có đứa nào giới
thiệu mày làm Tổng thư ký Hội Nhà văn mày đừng nhận nghen”. Quả thật tôi ngạc
nhiên về câu dặn vụng về đến thế ở một người nổi tiếng từng trải như anh. Tôi
bảo: “Tôi hỏi lại anh điều này nhé, đấy là ý tự anh nói ra với tôi, hay ý Ban
Bí thư nhờ anh nói giùm?”. Anh hơi nhăn mặt: “Cái thằng này! Sao mày hỏi tau
câu khó thế?”. Tôi cười: “Tôi không làm đâu, tôi cũng đủ thông minh để hiểu tất
cả rồi, kể cả mục đích Ban Bí thư gọi gấp chúng tôi sang đây. Anh có thể báo
cáo lại để các vị an tâm…”.
Đây là lần đầu tiên tôi nói với
anh Kiên một câu gay gắt như thế. Nhưng rồi về sau chúng tôi vẫn thân nhau, sau
lưng chúng tôi là cả mấy mươi năm vào sinh ra tử cùng nhau trong hai cuộc
chiến… Cuộc làm việc vội vã với hầu như đông đủ Ban Bí thư có thể tóm tắt gọn
thế này: vận động, hay đúng ra là ép Nguyễn Quang Sáng, người vừa được cao
phiếu nhất, sáng hôm sau giới thiệu Vũ Tú Nam làm Tổng thư ký.
Sáng hôm sau, đại hội họp tiếp.
Nguyễn Duy thật giỏi khi gọi phái đổi mới là Phái Vui tươi, và phái bảo thủ là
Phái Hằm hằm. Phái vui tươi, coi đã bầu được sáu người chiều hôm trước đã là
thắng lợi rồi, nên sáng hôm sau bèn hào hứng rủ nhau… bỏ đi chơi. Một số la đà
uống bia ở căng-tin, số khá đông kéo nhau rảo phố Hà Nội, lại còn một nhóm
không ít, trong đó có cả Nguyễn Khoa Điềm, tổ chức đi du lịch… tít Lạng Sơn.
Còn phái hằm hằm thì quyết hằm hằm, họ hằm hằm bám đại hội, cố lật ngược tình
thế. Rốt cuộc bầu thêm được ba người: Nguyễn Thị Ngọc Tú, Hữu Mai và Nguyễn
Khải.
Và bầu Tổng thư ký Vũ Tú Nam.
Tôi vốn loàng xoàng vậy mà hóa ra
là nhà tiên tri, chẳng thua gì bà già mù Vanga nổi tiếng bên Bulgarie!
Ngày hôm sau Ban Chấp hành mới họp
phiên đầu tiên, quyết định cử ra một bộ phận Thường trực gồm bốn người: Tổng
thư ký Vũ Tú Nam tất nhiên phụ trách chung, Chính Hữu làm Trưởng ban Đối ngoại,
Hữu Mai làm Trưởng ban Công tác hội viên, thực chất là người lo chính sách và
cơ sở vật chất của hội; tôi làm trưởng một ban có cái tên nghĩ ra hơi kỳ, gọi
là Ban Sáng tác. Họp Thường trực, tôi đề nghị chúng ta chỉ có bốn người, nên
quy chế làm việc cần giống như Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, khi biểu quyết
phải là đồng thuận hoàn toàn, mỗi thành viên phải có quyền phủ quyết. Nhưng cả
ba vị đều kiên quyết phản đối, cứ phải theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số
thôi. Thế là tôi bị kẹt vào thế khi cần quyết định những chuyện quan trọng, tỷ
lệ thua của tôi sẽ là 1/3. Vậy tôi có nên ở lại trong một tập thể như thế này
không? Hay là rút lui ngay từ bây giờ, từ chức luôn ngay lúc này? Tôi về trao
đổi với một số anh chị em đã bầu tôi, người bàn vô người bàn ra. Cuối cùng tôi
quyết định thôi thì cứ ở lại, cố gắng ngăn bớt những việc xấu, và nỗ lực tối đa
làm được một số điều tốt. Nghĩa là giai đoạn mới này của tôi cũng sẽ rất khó
khăn, căng thẳng, chẳng kém thời làm báo Văn nghệ; thôi thì cứ xin
nói luôn, suốt nhiệm kỳ 4, 5 năm ấy tôi “thắng” được một vụ kha khá, và “thua”
một vụ cũng khá đậm.
Có lẽ tôi cũng nên nói qua một
chút về ba người còn lại trong ban Thường trực bốn người của chúng tôi.
Chính Hữu thì chắc chẳng cần nói
thêm.
Anh Vũ Tú Nam là người hiền lành
và đứng đắn, rất vừa phải hầu như trong mọi sự, viết cũng như ứng xử và điều
hành, quản lý. Trong mấy “vụ việc” của tôi, vụ Đề dẫn năm 1979 cũng như vụ báo Văn
nghệ, thái độ của anh là “trung bình”, không gay gắt cũng không nhiệt tâm
bảo vệ hay công kích. Vũ Tú Nam là em ruột anh Vũ Cao, nhưng tính tình hai
người khá khác nhau, và thực tình tôi thích anh Vũ Cao hơn. Anh ấy dân dã và
nghệ sĩ hơn. Anh được phong đại úy từ năm 1957, nhưng mãi mấy năm sau có lần
anh tâm sự sao mình chờ mãi không thấy được lên thượng úy nhỉ, thượng là cao
tất phải hơn đại chứ, anh yên trí vậy… Chúng tôi ở nhà số 4 Lý Nam Đế, nghe nói
được xây từ hồi Nhật chiếm Đông Dương, dành cho sĩ quan Nhật. Cầu thang và sàn
các phòng toàn bằng gỗ lim, anh em đều lau sàn các phòng sạch bong, và trước
cửa phòng đều có bảng ghi “Yêu cầu không đi giày dép vào phòng”. Có anh nghịch
còn viết thêm “… trừ ông Vũ Cao!”, vì anh Cao bao giờ cũng đi chân không. Vũ
Cao lùi xùi bao nhiêu, thì Vũ Tú Nam thẳng thớm bấy nhiêu. Vậy mà con người
luôn cẩn trọng và vừa phải ấy cũng đã có lúc gặp tai nạn văn chương. Năm 1962
anh viết truyện cho thiếu nhi Cuộc phiêu lưu của Văn Ngan tướng công,
na ná theo kiểu Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài, chế giễu một
con ngan lố bịch, cái gì cũng biết một chút, biết bay một tí, biết chạy một tí,
biết bơi một tí, biết hát ồ ề một tí, tức là cái gì cũng biết nhưng chỉ mới
biết đầu cua tai nheo, không đâu vào đâu nhưng làm việc gì cũng dối trá lại
huênh hoang. Truyện hiền khô, vô hại, vậy mà bỗng nhiên bị báo Tiền
phong đập cho một bài phê phán nặng nề, lại nghe nói có cả một cuộc
hội thảo ở Viện Văn học để lên án, lúc này tôi đã đi vào Nam không biết rõ hết
chi tiết, chỉ nghe nói nó bị kết tội nặng gọi là “biểu tượng hai mặt” (symbole
équivoque), một lối vu vạ khá phổ biến lúc bấy giờ, chắc do một số vị nào đó
rất to, có tật giật mình, cho rằng nó nói Ngan chính là ám chỉ mình, và hiểu
văn học cũng y như khoa học, phải viết sao cho chỉ hiểu duy nhất một nghĩa,
hiểu thêm một nghĩa khác nữa thì đích thị là ác ý rồi… Nghe bảo còn có chuyện
ông bạn nhà văn Liên Xô Marian Tkachev rất giỏi tiếng Việt mau mắn dịch nó ra
tiếng Nga, đúng lúc ta đang theo Tàu chống Nga của Khrouchev, nên nó còn tội có
xu hướng xét lại nữa… Nhưng rồi vụ việc cũng nhẹ nhàng qua đi. Nghe nói chính
ông Nguyễn Chí Thanh đã bênh vực Văn Ngan.
Người thứ ba trong Thường trực là
Hữu Mai, bấy giờ có chủ trương chuyển một số nhà văn vốn ở trong quân đội sang
Hội và một số cơ quan văn học nghệ thuật để tăng cường “sự vững vàng về chính
trị” cho những nơi này. Hữu Mai đối với tôi là một người “trung tính”, không
thân không sơ, tôi nhớ vụ Đề dẫn, vụ báo Văn nghệ của tôi anh
hầu như hoàn toàn đứng ngoài. Nhưng rồi xảy ra một việc: tôi không nhớ rõ Hội
Nhà văn Hung hay Thụy Điển cho ta một số tiền và ta đã dùng số tiền đó xây lại
Nhà Sáng tác ở Quảng Bá khá khang trang, Quảng Bá hồi đó gần như hoàn toàn nông
thôn, yên tĩnh, thoáng đãng, thi vị nữa. Nhưng rồi chẳng mấy ai lên ngồi Quảng
Bá để sáng tác, mặc dầu ở đó đã có cả bộ phận phục vụ khá chu đáo. Vì nó gần Hà
Nội quá. Tôi nhớ chỉ có anh Thái Bá Tân lên ở nhờ một phòng do bấy giờ chưa có
vợ chưa có nhà. Và một anh, thôi thì xin không nói tên làm gì, đưa bồ lên cùng
vui thú một thời gian. Lại thêm đến lúc này Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương đã
giải thể, nhập cùng Ban Tuyên huấn và Ban Khoa giáo thành Ban Văn hóa Tư tưởng,
anh Trần Độ đã chuyển sang làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa, và anh đã có sáng kiến
xây một khu nhà Sáng tác cho các ngành văn học nghệ thuật cạnh hồ Đại Lải gần
Phúc Yên, xa Hà Nội một cách vừa phải, rất đẹp, yên tĩnh, thuận lợi cho nghệ sĩ
sáng tác. Vậy là người ta đổ lên Đại Lải, nhà Quảng Bá đâm ra ế, bỏ mốc meo,
lại tốn người trông coi. Hữu Mai, là người phụ trách cơ sở vật chất của hội,
bèn đề nghị cho khách du lịch có thể thuê, ta lấy tiền đó lo cho việc khác của
hội, Ban Thường trực thấy cũng là phải. Chắc ai cũng biết các nhà văn ta vốn
tếng tăm khá oai trong xã hội, nhưng cũng là cái giới rất lắm chuyện. Lập tức
rộ lên gần như cả một phong trào phê phán chê trách, cho rằng cái Ban Thường
trực này lấy chỗ sáng tác “thiêng liêng” của anh em đi buôn, trong số gay gắt
nhất lại thấy có Đào Vũ, và tập trung công kích chủ yếu vào Hữu Mai. Có điều lạ
là Thường trực không hề lên tiếng bênh vực Hữu Mai. Tôi bèn bàn với Hữu Mai
đánh tiếng mời Đào Vũ lên ngồi sáng tác ở Quảng Bá ba tháng đi. Tôi nói trước
với Hữu Mai: Để rồi anh xem nhé, chuyện này sẽ hay lắm đấy! Giấy mời Đào Vũ
được trang trọng đưa đến tận nhà. Tôi tiếc không nhớ rõ số tiền phải tiêu tốn
cho một nhà văn ngồi sáng tác ba tháng ở Quảng Bá là bao nhiêu. Ngay sáng hôm
sau Đào Vũ đã có mặt rất sớm ở cơ quan hội, nhưng không gặp bất cứ ai trong Ban
Thường trực, kể cả Hữu Mai, mà đi thẳng luôn đến chỗ cô kế toán, tuyên bố: “Tôi
đấu tranh là đấu tranh cho quyền lợi của tất cả hội viên, chứ nhà tôi ở ngay
phố Huế, Quảng Bá gần xịt, tôi lên đó làm gì. Hội đã có giấy mời, đề nghị đưa
cho tôi đúng số tiền như được lên Quảng Bá, tôi ngồi nhà viết tiện hơn nhiều…”.
Đào Vũ là người cao lớn, còn cô kế
toán của chúng tôi thì vừa trẻ vừa thấp bé, cô ngồi cặm cụi đếm kỳ đủ số tiền
cho ông nhà văn cao lớn oai phong đang đứng trước mặt mình, thỉnh thoảng ngước
nhìn lên, kinh ngạc và không giấu được khinh bỉ.
Từ đó cũng vắng hẳn chuyện công
kích cách sử dụng nhà sáng tác Quảng Bá.
Còn Hữu Mai, tôi nhận thấy anh
hiểu tôi hơn, chắc đỡ đi nhiều định kiến từng có, thân với tôi hơn, hay đến nhà
tôi chơi, tâm sự với tôi những khó khăn của một anh cũng được gọi là lãnh đạo
cái hội nghe chừng rất sang trọng, thực chất là làm dâu trăm họ, phải biết
chiều mấy trăm hội viên từ ông già đến ông trẻ, đều khó tính theo trăm nghìn
cách khác nhau. Anh thường rủ tôi đi ăn ở quán cháo rất ngon đầu phố Cấm Chỉ,
có hôm còn mời tôi ăn tiết canh một quán cũng gần đó, may quá tôi vốn sợ món
ấy, không dám động đũa, còn Hữu Mai say sưa ăn ngon lành, bị một trận kiết lỵ
suýt chết…
N.N.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét