Sắp đến ngày Thống nhất đất nước, tôi muốn nhắc các bạn mê mải
tung hô những hào quang hãy kìm mình lại một chút, nhìn lại những gì để có hôm
nay
1 .Phần 1
Sau khi mở Chiến dịch Trị Thiên
từ tháng 3 năm 1972, sau 2 đợt tấn công, đến tháng 5 thì Quân Giải phóng miền
Nam Việt Nam đã giành quyền kiểm soát được toàn bộ tỉnh Quảng Trị.
Thành cổ Quảng Trị nằm gần Quốc lộ 1, đây là tiền đồn phòng thủ của Vùng I chiến thuật của Việt Nam Cộng hòa. Giành được Thành cổ là có giá trị lớn về tính biểu tượng. Tin tức về việc Quảng Trị rơi vào tay Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tác động mạnh mẽ tới chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Ngày 25 tháng 5 năm 1972, Tổng thống Thiệu đưa ra cam kết bằng mọi giá tái chiếm Quảng Trị cũng như trách móc phía Hoa Kỳ đang bỏ rơi đồng minh. Lúc này, trong Quốc hội Hoa Kỳ, tiếng nói đòi rút quân Mỹ khỏi Việt Nam ngày càng gia tăng.
Thành cổ Quảng Trị nằm gần Quốc lộ 1, đây là tiền đồn phòng thủ của Vùng I chiến thuật của Việt Nam Cộng hòa. Giành được Thành cổ là có giá trị lớn về tính biểu tượng. Tin tức về việc Quảng Trị rơi vào tay Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tác động mạnh mẽ tới chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Ngày 25 tháng 5 năm 1972, Tổng thống Thiệu đưa ra cam kết bằng mọi giá tái chiếm Quảng Trị cũng như trách móc phía Hoa Kỳ đang bỏ rơi đồng minh. Lúc này, trong Quốc hội Hoa Kỳ, tiếng nói đòi rút quân Mỹ khỏi Việt Nam ngày càng gia tăng.
Giữa tháng 6, Hoa Kỳ và Quân lực
Việt Nam Cộng hòa dồn lực lượng với sự tham gia mạnh của không quân, hải quân
Hoa Kỳ và bắt đầu phản công trên chiến trường (chiến dịch Lam Sơn 72). Chiến sự
trong mùa hè năm 1972 ở tỉnh Quảng Trị diễn ra cực kì quyết liệt, ác liệt nhất
kể từ khi có cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Hoa Kỳ và quân Việt Nam Cộng hòa
bắt đầu mở các cuộc phản công và đến đầu tháng 7 đã tiến đến thị xã Quảng Trị.
Cuộc chiến 81 ngày ở thị xã và
thành cổ Quảng Trị bắt đầu.
Quân lực Việt Nam Cộng hòa: Các
Lữ đoàn dù 1, 2, 3; Liên đoàn 81/Biệt kích nhảy dù; Thiết đoàn 7, 18 kị binh; 3
lữ đoàn thuỷ quân lục chiến và các tiểu đoàn pháo, công binh… Tổng cộng hơn
30.000 quân cùng hàng trăm xe tăng, xe thiết giáp.
Quân đội Hoa Kỳ: Nhiều cố vấn chỉ
huy cùng hàng trăm máy bay chiến đấu, bao gồm cả B-52 ném bom chiến lược của
không quân Hoa Kỳ, pháo hạm yểm trợ từ Hạm đội 7. Thống kê cho biết trong 81
ngày đêm, Hoa Kỳ đã sử dụng:
4.958 lần/chiếc B-52 (trung bình
60 lần/ngày đêm). 9.048 lần/chiếc máy bay phản lực các loại (trung bình hơn 100
lần/ngày đêm), ném tổng cộng hơn 120.000 tấn bom đạn (bằng 7 lần quả bom nguyên
tử mà Mỹ ném xuống Hiroshima), nếu tính trung bình thì các chiến sĩ Quân Giải
phóng miền Nam Việt Nam tham gia trận đánh phải hứng chịu 4-5 tấn bom mỗi
người.
Hơn 950.000 viên đạn pháo 105mm, 55.000 viên đạn pháo 155 mm, 8.164 viên đạn pháo 175mm, hơn 615.000 viên đạn hải pháo oanh kích (trung bình mỗi chiến sĩ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phải hứng chịu khoảng 100 viên đạn pháo). Tính riêng từ ngày 9 tháng 9 đến ngày 16 tháng 9 năm 1972, chỉ trong 1 tuần quân Mỹ đã sử dụng: 95.570 viên đạn pháo 105 ly; 11.002 viên đạn pháo 155 ly; 2.630 viên đạn pháo 175 ly; 14.223 viên đạn pháo từ hạm đội 7 và 163 lần/chiếc máy bay phản lực Mỹ.
Riêng ở khu vực thị xã Quảng Trị, tổng số bom đạn mà Mỹ sử dụng trong 81 ngày đêm bằng sức công phá của 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống Nhật bản. Có ngày số bom Mỹ ném ở Quảng Trị vượt xa số bom Mỹ ném trên toàn miền Nam trong các năm 1968-1969. Dữ dội nhất là ngày 25/7, thị xã phải chịu 35.000 quả đạn pháo của Mỹ, chưa kể bom từ máy bay. Thành cổ Quảng Trị chỉ rộng 3 km vuông và vùng ven có ngày phải chịu hơn 20.000 quả đạn đại bác cỡ lớn. Với việc huy động một số lượng bom đạn khổng lồ, quân Mỹ hoàn toàn có ưu thế áp đảo về hỏa lực.
Hơn 950.000 viên đạn pháo 105mm, 55.000 viên đạn pháo 155 mm, 8.164 viên đạn pháo 175mm, hơn 615.000 viên đạn hải pháo oanh kích (trung bình mỗi chiến sĩ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phải hứng chịu khoảng 100 viên đạn pháo). Tính riêng từ ngày 9 tháng 9 đến ngày 16 tháng 9 năm 1972, chỉ trong 1 tuần quân Mỹ đã sử dụng: 95.570 viên đạn pháo 105 ly; 11.002 viên đạn pháo 155 ly; 2.630 viên đạn pháo 175 ly; 14.223 viên đạn pháo từ hạm đội 7 và 163 lần/chiếc máy bay phản lực Mỹ.
Riêng ở khu vực thị xã Quảng Trị, tổng số bom đạn mà Mỹ sử dụng trong 81 ngày đêm bằng sức công phá của 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống Nhật bản. Có ngày số bom Mỹ ném ở Quảng Trị vượt xa số bom Mỹ ném trên toàn miền Nam trong các năm 1968-1969. Dữ dội nhất là ngày 25/7, thị xã phải chịu 35.000 quả đạn pháo của Mỹ, chưa kể bom từ máy bay. Thành cổ Quảng Trị chỉ rộng 3 km vuông và vùng ven có ngày phải chịu hơn 20.000 quả đạn đại bác cỡ lớn. Với việc huy động một số lượng bom đạn khổng lồ, quân Mỹ hoàn toàn có ưu thế áp đảo về hỏa lực.
Để chống lại
cuộc bắn phá dữ dội chưa từng có, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chỉ có
trong tay một vài xe tăng và một số đơn vị pháo phòng không, lực lượng tác
chiến chủ yếu là bộ binh. Với mật độ hỏa lực hạng nặng dày đặc của đối phương,
ước tính có tới hơn 80% thương vong của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong
trận đánh là bởi các đợt oanh tạc và pháo kích, chỉ có một phần nhỏ là trong
các cuộc đọ súng bộ binh.
Bắt đầu từ ngày 26 tháng 6 năm 1972, Không quân Hoa Kỳ bắt đầu ném bom rải thảm Quảng Trị để chuẩn bị các hoạt động của bộ binh. Mục tiêu của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa là phải giành chiến thắng trước ngày 13 tháng 7, lúc Hội nghị Paris nhóm họp trở lại. Ngày 28 tháng 6 năm 1972, tướng Ngô Quang Trưởng phát lệnh khởi binh chiến dịch Lam Sơn 72 trên hai hướng. Chiều 28 tháng 6, sau khi vượt sông Mỹ Chánh, QLVNCH đã cô lập được một bộ phận của các sư đoàn 304 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và 308 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ở nam Sông Mỹ Chánh. Hướng Đông, ngày 29 tháng 6, các lữ TQLC 147 và 258 tấn công các khu vực Diên Khanh, Xuân Viện, Kim Giao (thuộc huyện Hải Lăng), phối hợp với Lữ TQLC 369 từ Mỹ Thủy và Cổ Lũy đánh ra. Từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 7, sau khi nhổ từng chốt chặn của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên khoảng cách từng hecta một, chịu thương vong hơn 300 quân, Lữ dù 1 và Liên đoàn 1 Biệt động quân đã có mặt ở ngoại vi thị xã Quảng Trị nhưng không lọt vào được.[11] Ngay lập tức, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam điều động Sư đoàn 325 và Sư đoàn 312 vào tham chiến cùng với các lực lượng tại chỗ để giữ Quảng Trị. Ngày 29 tháng 6, trong cuộc họp nội các, Tổng thống Thiệu thừa nhận Chiến dịch Lam Sơn 72 mới chỉ làm chậm bước tiến của Quân Giải phóng. Việt Nam Cộng hòa lúc này tiến hành trưng binh và cho phép quân nhân lựa chọn binh chủng ưa thích nhưng do tình thế chiến trường nên nhiều người đã không quyền được lựa chọn.
Bắt đầu từ ngày 26 tháng 6 năm 1972, Không quân Hoa Kỳ bắt đầu ném bom rải thảm Quảng Trị để chuẩn bị các hoạt động của bộ binh. Mục tiêu của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa là phải giành chiến thắng trước ngày 13 tháng 7, lúc Hội nghị Paris nhóm họp trở lại. Ngày 28 tháng 6 năm 1972, tướng Ngô Quang Trưởng phát lệnh khởi binh chiến dịch Lam Sơn 72 trên hai hướng. Chiều 28 tháng 6, sau khi vượt sông Mỹ Chánh, QLVNCH đã cô lập được một bộ phận của các sư đoàn 304 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và 308 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ở nam Sông Mỹ Chánh. Hướng Đông, ngày 29 tháng 6, các lữ TQLC 147 và 258 tấn công các khu vực Diên Khanh, Xuân Viện, Kim Giao (thuộc huyện Hải Lăng), phối hợp với Lữ TQLC 369 từ Mỹ Thủy và Cổ Lũy đánh ra. Từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 7, sau khi nhổ từng chốt chặn của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên khoảng cách từng hecta một, chịu thương vong hơn 300 quân, Lữ dù 1 và Liên đoàn 1 Biệt động quân đã có mặt ở ngoại vi thị xã Quảng Trị nhưng không lọt vào được.[11] Ngay lập tức, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam điều động Sư đoàn 325 và Sư đoàn 312 vào tham chiến cùng với các lực lượng tại chỗ để giữ Quảng Trị. Ngày 29 tháng 6, trong cuộc họp nội các, Tổng thống Thiệu thừa nhận Chiến dịch Lam Sơn 72 mới chỉ làm chậm bước tiến của Quân Giải phóng. Việt Nam Cộng hòa lúc này tiến hành trưng binh và cho phép quân nhân lựa chọn binh chủng ưa thích nhưng do tình thế chiến trường nên nhiều người đã không quyền được lựa chọn.
Ngày 7 tháng 7,
Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 48) Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam sử dụng Đại đội
9, tăng cường 1 trung đội của Đại đội 10, với một trung đội địa phương và 3 xe
tăng, được Trung đoàn pháo 45 chi viện trực tiếp, thực hành phản kích đối phương
ở phía Đông La Vang Hữu. Quân VNCH thấy xe tăng bất ngờ xuất hiện, nên đội hình
rối loạn. QLVNCH bị thương vong hàng trăm binh lính, bị bắn cháy hai xe tăng và
bị đánh bật ra khỏi khu vực La Vang Hữu. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bị
hỏng hai xe tăng, một chiếc do bắn nhầm và một chiếc bị phá do bom.
Đến lúc này,
thời hạn chiếm lại Thành Cổ mà Mỹ hoạch định đã sắp hết, nhưng đà tiến vẫn bị
chặn đứng. Quân Mỹ liền tăng cường hỏa lực, nâng tổng số đạn pháo đánh phá thị
xã từ 8.000 viên/ngày lên 15.000 viên/ngày, cao điểm có ngày lên tới 30.000
viên/ngày, sử dụng 40 đến 60 lần/chiếc máy bay phản lực một ngày, dùng bom
khoan đánh phá hầm hào tường thành, tăng số phi vụ máy bay B-52 ném bom dọc bờ
tả ngạn sông Thạch Hãn và hậu phương để ngăn chặn Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam tăng cường quân số, vận chuyển tiếp tế.
Ngày 13 tháng
7, một máy bay trực thăng chở đại tá Nguyễn Trọng Bảo, tham mưu phó sư dù và 8
sĩ quan tham mưu đi đốc thúc việc cắm cờ hòng gây thanh thế tại bàn đàm phán ở
Paris. Chiếc trực thăng bị một trận địa súng máy 12,7 mm của Quân Giải phóng
miền Nam Việt Nam do Bùi Trung Thành chỉ huy tiêu diệt ngay tại thị xã Quảng
Trị cùng tất cả số sĩ quan trong trực thăng. Rạng sáng 14 tháng 7, một đội biệt
kích đột nhập vào phía đông Thành cổ bằng cách luồn lách qua một nghĩa địa của
cộng đồng Thiên chúa giáo phía Nhà thờ Tri Bưu rồi men theo các đường cống
thoát nước để leo lên Thành cổ, định cắm cờ và chụp ảnh để có lý do tuyên
truyền, nhưng chưa kịp cắm thì bị đại đội 14 trung đoàn 48 phát hiện và tiêu
diệt một số, số còn lại phải rút chạy bỏ lại lá cờ.[14] Mũi đột kích sâu của sư
dù và thiết đoàn 20 cũng bị đẩy lùi.
Ý định của
QLVNCH chiếm thị xã trước ngày 13 tháng 7 để mặc cả tại Hội nghị Paris đã không
thực hiện được. Thương vong mỗi bên lên đến hàng nghìn người. Sau mười ngày
liên tục tiến công Thị xã, sư đoàn dù chịu tổn thất khá lớn. QLVNCH bị thương
vong 1.071 binh lính, tiểu đoàn dù 1 và 5 bị tổn thất nặng, bị cháy 3 xe tăng,
rơi 2 máy bay (1 phản lực, 1 trực thăng) và bị phá hủy nhiều vũ khí phương tiện
kỹ thuật khác.
Ngày 14 tháng
7, Sư dù và Sư TQLC QLVNCH tổ chức tấn công đợt 2 nhằm chiếm thị xã trước ngày
18 tháng 7 và cùng lắm phải trước ngày 27 tháng 7. Lữ dù 1 đánh Quy Thiện, Trì
Bưu, Lữ dù 2 đánh Tích Tường, Như Lệ. Các lữ TQLC 147 và 369 tiến sát sông Vĩnh
Định, chiếm An Tiêm, Nại Cửu và Bích La Đông. Trong trận này, Lữ 369 TQLC tổn
thất 2 đại đội và 11 trực thăng ở Nại Cửu. Đến ngày 16 tháng 7, Lữ dù 1 đã
chiếm được các làng Trì Bưu, Cổ Thành; Trung đoàn 18 (Sư 325) bị tổn thất nặng
phải rút ra Ái Tử - Đông Hà, Bộ tư lệnh B5 điều Trung đoàn 95 (Sư 325) vào
thay. QLVNCH đã hình thành thế bao vây ba mặt quanh thị xã Quảng Trị nhưng chưa
vào được nội đô. Để ngăn đường tiếp vận của Quân Giải phóng, Hoa Kỳ liên tục
ném bom, nã pháo hạm, pháo hạng nặng Quốc lộ 1 và khu vực quanh Thành cổ cũng
như quanh khu vực Thị xã Quảng Trị.
Ở Long Quang,
tuyến phòng thủ đầu tiên của Quân Giải phóng, ngày 22 tháng 7, QLVNCH ồ ạt sử
dụng xe tăng và pháo binh tấn công chính diện kết hợp máy bay ném bom để chọc
thủng tuyến phòng thủ này. Đồng thời QLVNCH tổ chức mũi thọc sườn tuyến phòng
thủ, tập kích bí mật trong đêm, đào hào để siết vong vây đối với QGP và sử dụng
bộ binh để kéo QGP khỏi nơi ẩn nấp sau đó sử dụng bom và pháo binh để tiêu
diệt. Tuy nhiên, ý đồ đánh nhanh thắng nhanh của QLVNCH đã bị bẻ gãy. Lúc này,
phía VNCH và Hoa Kỳ xuất hiện mâu thuẫn khi phái đoàn Hoa Kỳ tại Hội nghị Paris
đã bí mật gặp phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà phía VNCH không được
biết.[6]
Từ ngày 25 đến
ngày 27 tháng 7, tướng Lê Quang Lưỡng của QLVNCH đã tung lực lượng dự bị cuối
cùng (Liên đoàn biệt kích dù 81) vào chiến đấu, chiếm được các làng Trì Bưu, Cổ
Thành. Tiểu đoàn biệt kích dù 27 tiến sát góc Đông Nam Thành cổ nhiều lần lao
lên định cắm cờ lên tường thành nhưng đều bị Trung đoàn 48 đẩy lùi. Hai bên tổn
thất lớn về sinh mạng.
Ngày 28 tháng
7, thời hạn đánh chiếm thị xã Quảng Trị và thành cổ đã hết, tướng Ngô Quang
Trưởng quyết định dừng cuộc tấn công của Sư đoàn dù, chuyển giao nhiệm vụ đánh
chiếm thị xã Quảng Trị cho Sư đoàn thủy quân lục chiến. Trong tháng 7, mỗi ngày
Không lực Hoa Kỳ huy động từ 40 đến 60 phi vụ B-52, 130 đến 150 phi vụ máy bay
cường kích yểm hộ mặt đất cho QLVNCH. Phương án đánh nhanh chiếm nhanh của VNCH
chính thức bị loại bỏ. Phía Hoa Kỳ và VNCH tuy giảm tần suất oanh tạc nhưng
tăng tần suất pháo kích bằng tất cả các loại pháo khác nhau. Nhiều thời điểm,
Hoa Kỳ và VNCH pháo kích liên từ 6h sáng tới 6h tối chưa kể các đợt pháo kích
trong đêm. Để tìm kiếm Quân Giải phóng, Không lực Việt Nam Cộng hòa sử dụng
L-19 và OV-10 để trinh sát. Sau khi nhận thấy trận địa của Quân Giải phóng, lực
lượng máy báy trinh sát sẽ thả pháo khói xuống mục tiêu để các loại cường kích,
pháo binh tấn công vào mục tiêu. Tiếng pháo và bom nổ không ngớt.[6]
Ngày 5 tháng 8,
Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 48 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng đơn vị bạn đã
tập kích diệt 1 đại đội quân đối phương ở Hạnh Hoa, đánh thiệt hại 3 đại đội
khác, bắn cháy 5 xe tăng. Đơn vị được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng
Nhất. Trong ngày 13 tháng 8, một sở chỉ huy nhỏ của Quân Giải phóng ở gần cổng
Tây của Thành cổ bị máy bay B-52 ném bom và bị san phẳng cùng với một bức tường
cao hơn 4m của Thành cổ. Lúc này, trận chiến diễn ra trong mùa mưa khiến cho
các chiến sỹ Quân Giải phóng phải chiến đấu trong điều kiện rất khó khăn khi
bên ngoài là bóng đêm và hỏa lực của đối phương, bên trong là những căn hầm
ngập nước, khiến cho nguy cơ các vết thương bị nhiễm trùng tăng lên. Giao tranh
diễn ra dữ dội, có cứ nơi trên trận địa có ba lớp người chết, có cả lính Quân
Giải phóng miền Nam Việt Nam và lính Quân lực Việt Nam Cộng hòa-cố vấn của Quân
đội Hoa Kỳ. Hai bên giao tranh với tinh thần không khoan nhượng. Không khí
chiến trường trở nên ngột ngạt và căng thẳng.[6]
Từ hạ tuần
tháng 7 đến 15 tháng 9, Trung đoàn 88 sư đoàn 308 Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam bảo vệ khu vực Tây nam Thành cổ, giữ vững trận địa từ khu vực trường Bồ Đề,
khu Đệ Ngũ, ngã ba Bãi Đá, khu Cầu Sắt, khu Long Hưng đến La Vang và đồn Gia
Long. Trung đoàn 88 đã đánh hơn 100 trận lớn nhỏ, trong đó có 50 trận cấp đại
đội đến trung đoàn, tiêu diệt 1.670 binh lính đối phương, bắn cháy 16 xe tăng,
thu nhiều vũ khí đạn dược.
Trung tuần
tháng 8 năm 1972, Bộ Tư lệnh B5 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam quyết định
giao nhiệm vụ cho sư đoàn 325 chỉ huy lực lượng phòng thủ Thành cổ Quảng Trị.
Ngày 23 tháng 8, chỉ với vài chục tay súng, lực lượng Quân Giải phóng ở phía
cổng Tây của Thành cổ đã đẩy lùi một Đại đội Thủy quân lục chiến của VNCH.
Trong trận đêm 24 tháng 8, một phân đội đặc công Sư đoàn 325 Quân Giải phóng
miền Nam Việt Nam đã luồn sâu đánh sở chỉ huy tiểu đoàn thủy quân lục chiến ở
An Lưu, diệt 80 lính đối phương, bắn cháy 2 xe tăng, 2 nhà bạt, phá 1 trận địa
súng cối.
Lúc này, Sở chỉ
huy cơ bản của sư đoàn đóng ở khu vực Cao Hy - Tây Ðông Hà độ 15 km trên một
bãi bom B-52 đã đánh nát. Sư đoàn chọn địa điểm này là để tạo bất ngờ đối với
VNCH, cho là bộ đội không thể đóng một cơ quan chỉ huy cỡ sư đoàn tại một vùng
Hoa Kỳ đã ném bom tơi bời. Sở chỉ huy Thành cổ (Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam) ở ngay sát mép sông, dưới một căn hầm rượu của dinh tỉnh trưởng Quảng Trị
đã bị bom đạn làm đổ nát, gạch đá gỗ sắt đổ ngổn ngang bao phủ cả khu hầm dày
tới 4-5 mét, bom ném bên cạnh cũng chẳng hề gì.
Quân Giải phóng
miền Nam Việt Nam đã cải tạo khu hầm, chia thành ba ngăn có giao thông hào chạy
ra bên ngoài. Một ngăn làm khu phẫu thuật, một ngăn cho thông tin trinh sát và
một ngăn cho chỉ huy và trực ban tác chiến. Cửa hầm được thiết bị chiến đấu chu
đáo, có trung liên và B-41 bảo vệ. Không lực Hoa Kỳ hàng ngày soi tìm, nhưng do
Quân Giải phóng ngụy trang kín đáo, kỷ luật, khói lửa và đi lại ban ngày được
duy trì nghiêm mật, nên Hoa kỳ vẫn không phát hiện được mục tiêu sở chỉ huy, dù
thường xuyên cho máy bay trinh sát tìm kiếm.[16]
Hầm dinh Tỉnh
trưởng cũng là nơi Quân Giải phóng tập trung thương binh trước khi vận chuyển
khỏi chiến trường. Tại bến Vượt, nơi chuyển quân giữa hai bờ Thạch Hãn cũng là
nơi hứng chịu nhiều trận pháo kích nhất. Nhiều thương binh của Quân Giải phóng
đã bị thiệt mạng bởi bom và pháo kích khi đang được vận chuyển khỏi chiến
trường. Khúc sông ở bến Vượt chính là nguồn tiếp vận duy nhất của Quân Giải
phóng trong Thành cổ khi chiếc cầu sắt đã bị đối phương phá hủy. Bom và đạn
pháo có ngày đã gây thương vong cho một Đại đội Quân Giải phóng ở bến sông. Do
hỏa lực bờ Bắc sông Thạch Hãn của Quân Giải phóng rất mạnh, khiến cho QLVNCH và
Hoa Kỳ không thể tiếp cận bằng bộ binh mà phải sử dụng pháo hạng nặng và máy
bay ném bom tầm xa để tấn công theo tọa độ. Thế trận thực sự nghiêng về Hoa Kỳ
và VNCH khi họ kiểm soát được cả ba mặt của Thành cổ lẫn kiểm soát trên không,
nhưng Quân Giải phóng vẫn giữ được Thành cổ trong suốt ba tháng.
3 Phần 3
Vào cuối tháng 8, hỏa lực của QLVNCH lại được Hoa Kỳ tăng cường
thêm. Hai bên giành nhau từng mét đất. Lúc này, QLVNCH bắt đầu suy kiệt khi
liên tục bị Quân Giải phóng tập kích đêm. Tới trung tuần tháng 9, cả hai bên
đều gồng mình khiến cuộc giao tranh cực kỳ khốc liệt.
Ðợt từ ngày 4 đến ngày 6 tháng 9 năm 1972, trời mưa to, nước
sông Thạch Hãn lên nhanh, chảy xiết, ảnh hưởng đến tăng cường cung cấp và quân
số. Có đêm trôi dạt hàng chục chiến sĩ vượt sông. Công sự chốt bị sụt lở nhiều.
Bộ đội tiếp tục giữ các chốt trên các hướng. Tiểu đoàn 4 E95 tập kích khu tam
giác Thạch Hãn, chiếm một số công sự của đối phương, cải thiện thế phòng thủ ở
đó. Tiểu đoàn đặc công mặt trận phối hợp với đại đội đặc công sư đoàn 325 chuẩn
bị đánh khu quận lỵ Mai Lĩnh nhưng thất bại.
Ngày 4 tháng 9 năm 1972, E88 F308 Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam rút khỏi khu Thạch Hãn tây và khu giáp sông ở thôn Ðệ Ngũ-trường Bồ Đề làm
sườn phía nam bị hở. Một số thành viên trung đoàn 88 trong đó có trung đoàn phó
Phan bị thương tạt vào sở chỉ huy Thành cổ. Bộ chỉ huy quyết định tổ chức đưa
số này vượt sông lũ ra hậu phương. Để đối phó với tình hình quan trọng này, họ
sử dụng một bộ phận tiểu đoàn 7, trung đoàn 18 và tiểu đoàn 4, trung đoàn 95 ra
chiến đấu thay thế trung đoàn 88 ở khu vực đó để giữ sườn phía nam thị xã.
Ngày 7 tháng 9 năm 1972, Quân lực Việt Nam Cộng hòa tiến công
đợt 6, mở đầu bằng đòn tập kích hỏa lực "Phong lôi 2". Không quân,
hải quân Hoa Kỳ, pháo binh Việt Nam Cộng hòa bắn suốt 48 giờ liền vào tất cả
các trận địa của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, tập trung đánh vào khu
Thành cổ, các bến vượt sông, đường cơ động lực lượng và vận chuyển. Oanh tạc cơ
B-52 của Mỹ rải thảm tả ngạn sông Thạch Hãn, tập trung vào khu Nhan Biều-Ai Tử
và các trận địa pháo của đối phương. Tính toàn bộ trong 81 ngày đêm của trận
Thành cổ, các lực lượng Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã dội xuống địa điểm thị xã
(rộng chưa đầy 3 km²) và vùng lân cận tổng cộng 120.000 tấn bom, trong đó mỗi
ngày có từ 70 đến 90 lượt máy bay ném bom B52 tham chiến[17]. "Đây là kế
hoạch chi viện hỏa lực cao nhất của Mỹ trong một trận đánh. Tính từ ngày 9
tháng 9 đến ngày 16 tháng 9, Mỹ sử dụng pháo hạm bắn 123.725 viên đại bác vào
thị xã (trong đó có 52.573 viên vào Thành cổ); sử dụng 2.244 lần chiếc máy bay
ném bom, trong đó có ngày huy động tới 100 lần chiếc máy bay ném bom chiến lược
B-52."[18].
Đêm 7 tháng 9, tiểu đoàn K2 E48 Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam tập kích khu Hành Hoa, chiếm một số công sự, cải thiện thế phòng thủ ở Tri
Bưu. Tiểu đoàn 5 trung đoàn 95 tập kích khu nhà thờ Tin Lành, thương vong một
số (tiểu đoàn trưởng đơn vị này cũng chết) nhưng đã chiếm được.[16]
Sáng ngày 9 tháng 9 năm 1972, lữ đoàn 147 và 259 Thủy quân Lục
chiến (TQLC) của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã khởi động cuộc tấn công lớn.
Quân VNCH sử dụng gồm hai lữ đoàn TQLC với năm mũi, tiến công từ ba hướng vào
thị xã. Họ tập trung xe tăng, xe thiết giáp, súng phun lửa để tái chiếm thành
cổ. Đồng thời với việc Quân lực Việt Nam Cộng hòa tiến công khu La Vang-Tích
Tường-Như Lệ để chặn sư đoàn 308 phản kích từ hướng này, liên đoàn biệt động 1
VNCH cũng tiến công Bích Khê-Nại Cửu để chặn sư đoàn 320 Quân Giải phóng miền
Nam Việt Nam hoạt động từ bắc sông Vĩnh Ðịnh.
Tiểu đoàn địa phương K8 đang củng cố đội hình và ém quân bên
ngoài. Nhiều trận phản kích ác liệt của bộ đội ở ngay sát chân Thành cổ đã đánh
bật nhiều mũi tiến công. 9 tháng 9, một trung đội VNCH lọt vào thành cổ, bị K3
Tam Đảo phản kích dữ dội phải tháo chạy, để lại 11 xác chết. Cũng ngày hôm đó
tại khu Hạnh Hoa, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam diệt một đại đội, đánh
thiệt hại nặng một đại đội khác thuộc lữ đoàn thủy quân lục chiến 147, bắn cháy
5 xe bọc thép. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mất 13 người, bị thương một
số. Sau trận này, K3 được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất.[19]
Tiểu đoàn 4 E95 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chặn đánh 3
tiểu đoàn đối phương ở khu Tin Lành, quyết liệt giành đi giật lại từng công sự.
Quân lực Việt Nam Cộng hòa thiệt hại một đại đội, nhưng chiếm được khu Mỹ Tây.
Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bị thương vong 30 người, hỏng một cối 82 ly,
một súng 12 ly 7, một đại liên, một B-40, một B-41. Đến đêm 9 tháng 9, tiểu
đoàn 4 cùng tiểu đoàn 5 E95 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tập kích chiếm
lại khu Mỹ Tây, đẩy Quân lực Việt Nam Cộng hòa chạy về nam sông con. Đêm 9
tháng 9, sau khi được củng cố, K8 vào thành.[16]
Ngày 10, 11, 12 tháng 9 năm 1972, QLVNCH tiếp tục lấn dũi mạnh
từ hướng nam-đông-nam. Nhiều toán quân nhảy vào thành nhưng đều bị quân Giải
phóng tiêu diệt. Quanh Thành cổ, dưới hào nước, xác chết nằm rải rác. Lúc này,
QLVNCH bổ sung cho chiến trường thêm 2 sư đoàn từ Huế để tổ chức tấn công trực
diện Thành cổ.
Ngày 10 tháng 9, QLVNCH lấn dũi có xe tăng chi viện khu Mỹ Tây,
Trường Nữ, Trại giam. Tiểu đoàn 4 E95 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đánh
trả ác liệt, giữ vững chốt bắn hỏng một xe tăng, hai đại liên, thu một M79 và
nhiều lựu đạn, nhưng cũng bị chết 6, bị thương 49. Đêm 10 tháng 9, Quân Giải
phóng miền Nam Việt Nam cho tiểu đoàn 4 ra ngoài củng cố, dùng tiểu đoàn 5 E95
thay thế, chiến đấu ở tây-nam Thành cổ.
Tính chung trong ngày 10-9, cả ở hướng Nam-Đông Nam, Bắc-Đông
Bắc, trên toàn khu vực Thị xã, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam diệt hơn 200
binh lính đối phương, bắn cháy 1 xe tăng, nhưng cũng bị thương vong 126 người
và để mất khu trại giam và Mỹ Tây. Trong 2 ngày 11 và 12, Quân Giải phóng miền
Nam Việt Nam diệt hơn 518 binh lính đối phương, nhưng cũng bị thương vong 216
người. Đêm 12, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tăng cường vào thành tiểu đoàn
3 E48 (201 người) và 70 tân binh.
Ngày 13-9-1972, trời mưa to, lũ lớn, hạn chế nhiều đến việc tăng
cường lực lượng (quân số, vật chất kỹ thuật cho Thị xã). QLVNCH sau 4 ngày liên
tục tiến công lấn dũi, vẫn chưa chiếm được Thành, nhưng 6 tiểu đoàn thuộc 2 lữ
đoàn Thủy quân lục chiến đã áp sát ba góc Thành cổ: Nam, Đông Nam, Đông Bắc.
Tiểu đoàn 5 E95 và Tiểu đoàn 7 E18 chiến đấu quyết liệt, giằng co với đối
phương từng khu vực, góc tường, mảnh vườn. Kết quả trong ngày, Quân Giải phóng
miền Nam Việt Nam diệt 123 lính, bắn cháy 1 xe tăng, bị thương vong 34 chiến
sĩ.
Rạng sáng ngày 13 tháng 9/1972, đại đội 5 tiểu đoàn 2 QLVNCH từ
ngã tư Quang Trung-Trần Hưng Đạo mở cuộc tấn công vào khu vực chợ Quảng Trị.
Trận chiến đã diễn ra quanh khu vực chợ, dọc theo đường Trần Hưng Đạo ra đến bờ
sông. Hai bên đã quần thảo nhau quanh các đống bê tông đổ nát mà Quân Giải
phóng miền Nam Việt Nam đã biến thành các điểm kháng cự. Cuối cùng tiểu đoàn
TQLC này đã chiếm được mục tiêu, sau đó khai triển đội hình tiến chiếm khu hành
chánh gồm Ty Bưu điện, Ty Thanh Niên, Ty Ngân khố và tiến sát đến dinh tỉnh
trưởng - nơi 1 đại đội của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang bố trí quân
quanh khuôn viên để cố thủ.
Một mũi nhọn khác của tiểu đoàn 2 QLVNCH với đại đội 4 làm nỗ
lực chính thanh toán các chốt phòng ngự dọc hai bên đường Phan Đình Phùng, sau
đó tiến đánh và triệt hạ các chốt bố trí tại cơ quan USOM và Tòa án tỉnh Quảng
Trị. Thanh toán được các mục tiêu trọng yếu, đại đội 4 và đại đội 5 của tiểu
đoàn 2 QLVNCH đã tấn công vào khu vực tòa Hành chánh tỉnh và Ty Tiểu học vụ
Quảng Trị nơi 1 trung đoàn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đặt bộ chỉ huy. Do
các chốt bảo vệ xung quanh đã bị TQLC triệt hạ, nên bộ chỉ huy Quân Giải phóng
miền Nam Việt Nam tại đây đã phải dời ra hướng sông.
23 giờ ngày 13 tháng 9, Bộ Tư lệnh B5 (Quân Giải phóng miền Nam
Việt Nam) lệnh cho trung đoàn phó trung đoàn 48, và tiếp sau đó vài giờ, vào 1
giờ sáng 14 tháng 9 lệnh cho Đại tá Nguyễn Việt chỉ huy trưởng Thành ra ngay
Nhan Biều để cùng sư phó sư đoàn 325 tổ chức lực lượng còn lại của trung đoàn
bộ binh 18 vào phản kích trong thành. Tiểu đoàn 7 E18 đã vào thành chiến đấu.
Ngày 14 tháng 9 năm 1972, từ hướng đông-nam, QLVNCH tiến sát khu
chùa Bà Năm, khu trại giam, chợ. Từ hướng nam, họ vào khu Mỹ Tây, Trường Nữ.
Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chống trả quyết liệt, vẫn giữ vững các chốt,
nhưng bị thương vong nhiều. Mặt trận B5 điều một đại đội xe tăng đến Nhan Biều
để làm công sự cố định bắn chi viện sang Thành nhưng sau đó do khó khăn địa
hình nên chưa bố trí được ngay.
Bốn ngày dùng bộ binh liên tục từ ba hướng tấn công vào, nhưng
QLVNCH vẫn không chiếm được thành, họ quay ra củng cố công sự và bao vây thành
từ ba phía, đồng thời điều cả xe tăng phun lửa liên tục tấn công vào các chốt
của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Chốt chiến đấu của Quân Giải phóng miền
Nam Việt Nam có điểm chỉ cách địch 50 m. Ngày 14-9-1972, sau khi dùng xe tăng
phun lửa dữ dội vào các chốt phòng thủ, quân VNCH tấn công vào thành. Tiểu đoàn
phòng thủ lúc này chỉ còn gần 20 tay súng, quyết tâm thực hiện lời thề danh dự:
"K3-Tam Đảo còn, Thành cổ Quảng Trị còn", với B-40, B-41, lựu đạn, nổ
súng đánh trả quyết liệt vào đội hình của TQLC và khiến họ phải rút chạy. 2 giờ
chiều, một toán khác vào thành từ góc đông nam liền bị các tay súng của đại đội
9 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đánh bật ra. Đến 18 giờ, lợi dụng lúc trời
chạng vạng tối, từ ba góc, TQLC lại tiếp tục mở đợt tấn công dữ dội vào thành.
Được sự chi viện của K8 và các tay súng của E48 Sư đoàn 320, tiểu đoàn đã ngoan
cường chiến đấu, đánh bật quân VNCH ra khỏi thành.
Sau khi đánh bật đối phương tại khu vực bệnh viện Quân Dân Y
Quảng Trị và trường Bồ Đề, Tiểu đoàn 1 Quái Điểu QLVNCH khai triển lực lượng
tiến về phía vào khu trung tâm thị xã Quảng Trị. Để tiến vào khu vực này, tiểu
đoàn Trâu Điên QLVNCH phải triệt hạ cụm kháng cự của đối phương ở Ty Cảnh Sát
Quốc gia. Tiểu đoàn 1 Quái Điểu đã phải vượt qua con suối với cây cầu bắc ngang
đường Trần Hưng Đạo. Binh sĩ VNCH dùng mìn Claymore cột vào những cây tre dài
vượt qua suối lúc nửa đêm và bấm nút đã làm bật tung những ổ thượng liên và DKZ
của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đặt trong những lô cốt phòng thủ. Tiếp
theo đó là những đợt xung phong ồ ạt của TQLC, từng trung đội tràn lên ném lựu
đạn vào các cụm công sự chiến đấu của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và chỉ
trong thời gian ngắn đã chọc thủng phòng tuyến của đối phương tại đây. Chiếm
được khu vực Ty Cảnh Sát Quốc gia, tiểu đoàn Quái Điểu tiến chiếm các vị trí ở
quanh Nhà máy điện, trường Nữ Tiểu học, doanh trại Cảnh sát Dã chiến.
4 giờ sáng ngày 15 tháng 9, Lữ đoàn thủy quân lục chiến 258 và
147 tập trung lực lượng tổng công kích từ ba hướng, được chi viện tối đa hỏa lực
của không quân, pháo binh, xe tăng, súng phun lửa các loại. Ở hướng Đông của
thành cổ, 4 đại đội của tiểu đoàn 3 và tiểu đoàn 6 TQLC đã dàn hàng ngang đồng
loạt xung phong tiến về hướng Tây, tập kích sở chỉ huy K1 E48 Quân Giải phóng
miền Nam Việt Nam và chiếm một góc khu đông bắc Thành cổ. Các chốt của Quân
Giải phóng miền Nam Việt Nam còn lại tiếp tục chiến đấu trong ngày, mặc dù sức
chiến đấu đã giảm, quân số bị thương vong nhiều. Lực lượng K8, tiểu đoàn 3 E48
mới vào cũng đã bị tổn thất nặng. Lực lượng trung đoàn bộ binh 18 vẫn chưa đến
được nơi quy định để vượt sông vào Thành cổ.
Trong đêm 15 tháng 9 năm 1972, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
đã pháo kích dữ dội vào đội hình của hai tiểu đoàn 3 và 6 TQLC để yểm trợ cho
lực lượng đang cố thủ ở đây chuẩn bị rút lui. Gần rạng sáng, các đơn vị TQLC
đồng loạt xung phong, những tổ kháng cự của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
đã chống trả mạnh nhằm giữ chân QLVCH cho đồng đội rút lui.
Cũng trong đêm 15 tháng 9
các chỉ huy của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong thành nắm lại tình
hình, thấy QLVNCH đã chiếm một số góc thành cổ, việc giữ Thành cổ đã đạt được
mục đích trên bàn đàm phán nên thống nhất ra lệnh rút khỏi thị xã và thành cổ
từ 22 giờ ngày 15 tháng 9.
4 .Phần cuối.
Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam rút
khỏi thành cổ
Tới ngày 15 tháng 9, sau khi diễn biến ở Hội nghị Paris có lợi cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam khi trong ngày 11 tháng 9, Cố vấn Kissinger chấp nhận phương án ngừng bắn, rút quân Mỹ và chính quyền Thiệu vẫn sẽ ở lại cho tới khi tổ chức Tổng tuyển cử ở miền Nam[20] Quân Giải phóng bắt đầu tiến hành rút quân.[6]
Tới ngày 15 tháng 9, sau khi diễn biến ở Hội nghị Paris có lợi cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam khi trong ngày 11 tháng 9, Cố vấn Kissinger chấp nhận phương án ngừng bắn, rút quân Mỹ và chính quyền Thiệu vẫn sẽ ở lại cho tới khi tổ chức Tổng tuyển cử ở miền Nam[20] Quân Giải phóng bắt đầu tiến hành rút quân.[6]
Thứ tự rút: ưu tiên thương binh đi trước, tiếp đến các lực lượng
tiểu đoàn ở xe, rồi đến các đơn vị trực thuộc, cuối cùng là sở chỉ huy Thành.
K2 E48, K8, vệ binh - trinh sát bảo vệ đội hình rút. Ban chỉ huy Trung đoàn hỗn
hợp cùng đội vệ binh rút cuối cùng vào nửa đêm 15 rạng ngày 16. Trung đoàn 18
Sư đoàn 325 được lệnh dừng lại, không vượt sông sang phản kích nữa, mà nhanh
chóng triển khai lực lượng phòng thủ tả ngạn sông Thạch Hãn, khu vực Nhan Biều
- Ái Tử.
Sau 4 tháng 16 ngày (81 ngày đêm) cố thủ tại Cổ Thành và thị xã
Quảng Trị, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam rút lui khỏi Thành cổ. Riêng trung
đoàn Triệu Hải (trung đoàn 27 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam-trung đoàn
trưởng sau này là thượng tướng nguyễn Huy Hiệu) với 1.500 quân đưa vào thành cố
thủ là đơn vị tổn thất nặng nhất. Các chốt chiến đấu vòng ngoài đều bị xóa sổ,
trung đoàn 48B thuộc sư đoàn 390 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam - đơn vị
chiếm giữ trung tâm thị xã, cũng đã bị thiệt hại hơn 80% quân số. Trong một hồi
ký phổ biến vào năm 1997, trung tướng Lê Tự Đồng, nguyên tư lệnh lực lượng Quân
Giải phóng miền Nam Việt Nam tại mặt trận tỉnh Quảng Trị, ghi nhận là các sư
đoàn và trung đoàn tham chiến đã bị tổn thất quá nửa quân số.
Để chiếm lại thành cổ, chỉ riêng sư đoàn Thủy quân Lục chiến có
3.658 binh sĩ tử trận, chiếm 25% tổng quân số (tổng thương vong là hơn 5.000
chiếm 38% quân số), các đơn vị Dù cũng chịu thiệt hại nặng tương đương. Tổng
quân số tử trận của các đơn vị lên tới 7.756 người, hàng ngàn lính khác bị
thương.
Thiệt hại lớn của các đơn vị tinh nhuệ này khiến QLVNCH cũng
không đủ sức tấn công tiếp lên phía bắc, các chiến dịch Lam Sơn 72A và các cuộc
hành quân "Sóng thần" để tái chiếm bờ bắc Thạch Hãn nhanh chóng bị
Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đánh bại. Hai bên quay về giữ thế giằng co
cho đến khi hiệp định Paris được ký kết vào tháng 1 năm 1973.
Tướng Lê Phi Long của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam năm 2008
có nói: "Chiến dịch Quảng Trị kéo dài, thương vong rất lớn, có thể nói là
lớn nhất so với tất cả các chiến dịch trong hai cuộc kháng chiến. Mỗi lần nghĩ
lại tôi rất đau lòng. Mãi đến bây giờ (2008), tôi và nhiều đồng nghiệp vẫn chưa
hiểu vì sao ta phải cố thủ thành cổ với một giá đắt như vậy? Có cán bộ cấp trên
giải thích rằng do yêu cầu của đấu tranh ngoại giao, cần giữ vững thành cổ để
phối hợp với cuộc đàm phán tại hội nghị Paris..."[24].
Ghi lại cuộc chiến đấu của sư đoàn Thủy quân Lục chiến tại mặt
trận trung tâm thị xã Quảng Trị và Cổ Thành từ khi thay thế lực lượng Nhảy Dù
vào ngày 27/7/1972, trung tá Trần Văn Hiển, nguyên trưởng phòng 3 bộ Tư lệnh Sư
đoàn Thủy quân Lục chiến đã viết: "Trong suốt 7 tuần lễ chiến đấu dưới
những làn mưa đạn pháo nặng nề của đối phương, tính trung bình cứ 4 lính Thủy
quân Lục chiến có một người tử trận. Tính từ tháng 6 năm 1972 đến ngày chiếm
được thành cổ, về quân số, Thủy quân Lục chiến bị tổn thất trên 5 ngàn, trong
đó có 3.658 lính tử trận".
Báo Quân đội Nhân dân số ra ngày 9-8-1972 viết: “Mỗi mét vuông
đất tại Thành cổ Quảng Trị là một mét máu và sự hy sinh của các anh đã trở
thành bất tử. Trong 81 ngày đêm, từ ngày 28-6 đến 16-9-1972, Thành cổ Quảng Trị
đã phải hứng chịu 328.000 tấn bom đạn. Trung bình mỗi chiến sĩ phải hứng lấy
100 quả bom, 200 quả đạn pháo. Mỗi ngày có 1 đại đội vượt dòng Thạch Hãn để tiếp
viện quân số, nhưng đêm nay một đại đội tiến vào thì ngày mai chỉ còn lại vài
người sống sót”. Một tờ báo của Mỹ đã bình luận: "Kỷ luật, lý tưởng và
tinh thần xem thường cái chết đã kết hợp với nhau như thế nào mà các chiến sĩ
quân Giải phóng vẫn chiến đấu dưới mưa bom B-52? Không có một nhà phân tích nào
ở Mỹ có thể giải thích đầy đủ"[25]
Theo lời cựu binh Đào Chí Thành thuộc Đại đội 14, Trung đoàn 95,
Sư đoàn 325 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, các chiến sỹ Quân Giải phóng đã
vào trận với một tinh thần rất hồn nhiên. Thậm chí, nhìn cảnh tượng chiến
trường lúc đó, ông Thành còn tưởng mình đang tham gia một bộ phim. Theo lời cựu
binh Trần Luân Tín, Đại đội thông tin số 18, Trung đoàn 95, Sư đoàn 325 Quân
Giải phóng miền Nam Việt Nam, không thể ngờ rằng mình vừa bước ra khỏi trận
chiến khốc liệt nhất trong toàn bộ cuộc chiến.
Hiện nay khu thành cổ Quảng Trị rộng 16 ha là một phần của Khu
di tích Thành cổ Quảng Trị, được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia của Việt
Nam. Do mật độ bom đạn rất cao và kéo dài nên hầu hết bộ đội Quân Giải phóng
miền Nam Việt Nam tử trận trong Thành cổ Quảng Trị đều bị vùi lấp. Nơi đây được
xây dựng thành nơi yên nghỉ chung cho những người đang nằm trong lòng đất với
nhiều cây xanh, đài tưởng niệm, bảo tàng... Hiện đang có dự án[30] đầu tư xây
dựng khu di tích trở thành một công viên văn hóa, tưởng niệm với các hạng mục
như đài tưởng niệm trung tâm, bảo tàng, đài chứng tích sinh viên, vườn hoa
cảnh.
Đã có nhiều bài thơ, bài hát nói về sự khốc liệt và mất mát của
trận Thành cổ Quảng Trị, trong đó người ta thường nhắc tới bốn câu thơ trong
bài Lời gọi bên sông của Lê Bá Dương, một cựu chiến binh Quân Giải phóng miền
Nam Việt Nam từng tham gia trận đánh này:
“Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ.
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm.
Có tuổi hai mươi thành sóng nước.
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm ”
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm.
Có tuổi hai mươi thành sóng nước.
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm ”
Ngoaì ra khi chuẩn bị vào sâu trong mặt trận phía Nam ở Bắc
Quảng Trị, Lê Bá Dương cũng có 2 câu thơ rất hay, được xem như là tuyên ngôn
hay nhất bằng thơ của quân giải phóng Bắc Quảng trị:
“Một khẩu súng giữ hai trời Nam Bắc,
Một dấu chân in màu đất hai miền. ”
Một dấu chân in màu đất hai miền. ”
Sau ngày kết thúc chiến
tranh Việt Nam, cựu chiến binh Lê Bá Dương và một số đồng đội của ông hàng năm
đều về Quảng Trị ít nhất một lần để tưởng niệm những đồng đội Quân Giải phóng
miền Nam Việt Nam đã hy sinh và thả hoa xuống dòng sông Thạch Hãn. Xuất phát từ
đó, những năm gần đây, hàng năm cứ vào ngày 27 tháng 7 (Ngày thương binh liệt
sĩ Việt Nam) cũng là gần dịp rằm tháng bảy có lễ Vu Lan báo hiếu, chính quyền
tổ chức lễ thả đèn, thả hoa trên sông Thạch Hãn để tưởng niệm những người đã
nằm lại tại Thành cổ trong 81 ngày đêm của trận đánh[31]. Từ sau kỷ niệm 40 năm
chiến đấu bảo vệ Thành cổ, ngoài những lễ thả hoa của các đoàn về thăm. Chính
quyền- Nhân dân thị xã thường xuyên tổ chức Chương trình "Đêm hoa
đăng" vào ngày 14 âm lịch hàng tháng để tưởng niệm và tri ân những Anh
hùng Liệt sĩ đã hy sinh trên dòng sông huyền thoại này. Chương trình đó đã trở
thành nét Văn hóa mới của thị xã Quảng trị trong thời kỳ đổi mới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét