Đinh Bá Truyền
Lê Đức Anh tên
thật là Lê Văn Giác, sinh năm 1920, vốn dân làng Truồi, cái làng chuyên làm
bánh bột lọc ở xứ Huế. Bị chột từ nhỏ, nhà lại nghèo khổ, nên năm 1939 Giác đi
vô Lộc Ninh làm phu cạo mủ. Sau này Giác khai gia nhập Đảng CS năm 1938 là khai
man.
Nhờ có tí học
vấn từ người cha là "Thầy khóa Túy" đỗ trường Nhì, nên Giác được ông
Phạm Văn Mến, chủ đồn điền Givral, cho làm Cai (Surveillant). Cái tên
"Thầy Sú Chột" có từ đó.
Cô Phạm Thị
Anh, con ông chủ Mến, có cảm tình với Giác, rồi họ nên duyên. Ông nhạc của Giác
vốn dân Pháp tịch, có 8 người con, bà Anh thứ 6 nên còn gọi là bà Bảy Anh. Giác
có người anh vợ, Phạm Văn Trọ, nguyên Tham tá hạng nhất Sở Mật thám Đông dương
(Sûreté Général Indochinoise). Sau này Lê Văn Giác theo Việt Minh, lấy tên hoạt
động là Lê Đức Anh, thực ra lấy theo tên vợ.
Lê Đức Anh khéo
nịnh, được Lê Duẩn và Lê Đức Thọ tin dùng, nên được bổ làm Tham mưu trưởng Nam
Bộ. Sau 1954, đã tập kết ra Bắc, Lê Đức Anh tuyên bố từ bỏ người vợ gốc địa
chủ. Lê Đức Thọ liền gá bà Võ Thị Lê cho Lê Đức Anh. Bà Võ Thị Lê này vốn là vợ
bé của ông Huỳnh Ngọc Huệ.
Có Duẩn và Thọ
đỡ đầu nên quan lộ của Lê Đức Anh rất mát mái, lên đến Chủ tịch nước. Khốn nỗi,
Duẩn-Thọ chống Tàu mà Lê Đức Anh lại hàng Tàu. Lê Đức Anh về hưu nhưng quyền
lực vẫn còn. Phiêu bị hạ bệ là minh chứng.
Thời Pháp, Lê
Đức Anh a dua theo chủ đồn điền; thời Việt Minh, a dua theo Duẩn và Thọ; sau đó
lại a dua theo Tàu.
Cái con người
vốn chỉ biết a dua theo thời thế, há có gì hay?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét