Nhà báo Mạnh Kim
Mỗi ngày tin tức một loang ra, con em người
Việt càng thấy lòng đau nghẹn.
Những tưởng nỗi nhục này sẽ ném lên đầu con sói
họ Tập, nào ngờ lại rơi trúng mặt kẻ đồng cấp "môi răng" của Việt
Nam.
Cứ tha hồ ăn tiêu xả láng đi! Đưa cho nhiều con
cháu vào ngồi trong công sở để tháng tháng lĩnh tiền mà chẳng có việc gì làm
ngoài xây tượng đài khủng để thờ lãnh tụ; xây chùa chiền tâm linh to vật để
các ngài đến cầu cúng cho chiếc ghế không lung lay; phong đủ loại tướng tá để
hộ vệ bộ máy, nhưng hễ nghe tin tàu địch trâng tráo xâm phạm vùng biển chủ
quyền là... cụp mặt xuống, hoặc gân cổ lên cãi người khác một cách hùng hồn:
Bộ chính trị đã quyết không kiện ra quốc tế làm tình hình thêm phức tạp,
quyết thế là bài bản lắm, là sáng suốt lắm trong đường đi nước bước cũng như
trong đối sách “ba không!
Ừ thì cứ thế mà làm! Rồi cuối nhiệm kỳ ta lại
vác rá đi vay, có ngượng một chút chứ có sao đâu.
Nhưng núi nợ khoác lên cổ dân thì mỗi năm một
phình lên, làm lún sụt cả đất nước và đè người dân xuống đáy vực.
Thế thì dám chắc sẽ còn đoàn đoàn lũ lũ bỏ nước
ra đi bằng mọi cách, từ mọi nẻo đường khác nhau, kể cả những người trẻ tuổi,
xinh đẹp, là tương lai của đất nước trong mơ ước của tất cả cộng đồng, như cô
gái trong tấm hình trên đây.
Và nhất định là sẽ lại có những containers chở
đầy xác người Việt khiến cả thế giới kinh hoàng, không còn biết ăn nói ra sao
với cái thể chế XHCN đang "tiến nhanh tiến mạnh", GDP “hứa hẹn”
tăng đến 7 – 8% này nữa.
Than ôi! CNCS đến lúc tàn sao mà thê thảm làm
vậy!
Bauxite Việt Nam
|
“Có chết cũng đi!” đã
trở thành một lời nguyền kinh khủng ám ảnh gần như tất cả người Việt. Vì sao
không nội chiến tang thương, không cuộc khủng hoảng lương thực trầm trọng nào
khiến cả nước bị đói, không bị đe dọa thường trực bởi khủng bố…, vậy mà người ta
phải đi, “chết cũng đi”? Đằng sau hình ảnh đất nước “yên bình” này đang nổi lên
một nỗi bất an kinh khủng. Nó đến từ nhiều nguyên nhân và điểm quy chiếu cuối
cùng, khi xét đến hậu quả, có lẽ chẳng gì khác hơn là sự thất bại toàn diện của
một nhà nước!
Ở thời mà đất nước
chứng kiến giai đoạn “bình yên” có thể nói là lâu dài nhất kể từ thế kỷ 20 đến
nay, những giọt nước mắt ly hương vẫn chưa cạn. Nếu không kể những người giàu
có đi “tỵ nạn” để mong tương lai con cái tốt hơn, và thành phần quan chức tham
nhũng cuốn gói trốn chạy, thì nhóm đối tượng với tỷ lệ đáng kể tìm mọi cách để
đi khỏi quê hương lại chính là những người nghèo hoặc cực nghèo. Vừa nghèo vừa
ít học. Nhiều trường hợp được khảo sát chi tiết cho thấy họ không còn bất kỳ
chọn lựa nào khác là phải đi. Đi với hy vọng đổi đời, qua con đường buôn lậu
người, với cái giá không hề rẻ.
Chưa có thống kê chính
xác số người Việt bị đẩy vào các đường dây buôn người trên con đường di trú bất
hợp pháp nhưng ghi nhận mới của Salvation Army, nơi tiếp xúc trực tiếp các nạn
nhân, cho thấy rằng, tỷ lệ người Việt được nhắc đến đối với Salvation Army từ
tháng 7-2018 đến tháng 7-2019 là nhiều hơn bất kỳ quốc tịch nào khác. Trong
thời gian nói trên, Salvation Army đã làm việc với 209 người đến từ Việt Nam,
tăng 248% so với số nạn nhân trước đó 5 năm. Tổ chức từ thiện ECPAT (End Child
Prostitution and Trafficking) cũng cho biết có một sự tăng vọt số nạn nhân
người Việt, từ 135 người năm 2012 lên 704 người năm 2018 (The Guardian
25-10-2019).
Việt Nam cũng “duy
trì” “vị trí” như một trong những “quốc gia nguồn” về nạn nô lệ thời hiện đại
tại Anh. Ít nhất 3.187 nạn nhân Việt Nam đã được ghi nhận tại Anh kể từ năm
2009 đến nay. Khoảng 362 nạn nhân trẻ em Việt Nam (được đưa đến bằng đường dây
buôn lậu người) đã được phát hiện tại Anh năm 2017, tăng hơn 1/3 so với năm
2016 (Reuters 6-3-2019). “Nạn nhân trẻ em” – chi tiết này cho thấy có không ít
người hoặc đã mang theo cả con mình trên con đường di trú lậu hoặc chấp nhận để
con mình ra đi không chỉ để cứu chính nó mà còn mang lại sự sống cho những
người còn ở lại quê nhà.
Nghèo
không là nguyên nhân lớn nhất và duy nhất khiến nhiều người dân tại các vùng
“chó ăn đá, gà ăn sỏi” thuộc các tỉnh cực nghèo như Hà Tĩnh hoặc Quảng Bình
phải đi. Thế giới có nhiều nước nghèo. Châu Á có nhiều quốc gia nghèo. Ấn Độ có
nhiều bang cực nghèo. Một nước nghèo như Philippines hẳn nhiên cũng có nhiều
người “thiếu hiểu biết” đối diện nguy cơ trở thành nạn nhân bị dụ dỗ. Tuy
nhiên, Việt Nam - quốc gia được đánh giá “liên tục thoát nghèo” - lại phải chứng
kiến tình trạng di cư lậu ngày càng tăng. Họ đi khắp nơi, từ Ukraine đến Đức,
từ Pháp đến Ba Lan, từ Anh đến Mỹ, từ Philippines đến Thái Lan...
Báo cáo Precarious
Journeys: Mapping Vulnerabilities of Victims of Trafficking from Vietnam to
Europe dài 135 trang, do Anti-Slavery International, ECPAT UK và Pacific Links
Foundation thực hiện (công bố thượng tuần tháng 3-2019), đã không những thuật
chi tiết liên quan các đường dây buôn lậu người mà còn cho thấy tại sao một số
người nghèo Việt Nam chọn con đường nghiệt ngã và đau đớn khi rời quê hương.
Kinh tế, chính trị, môi trường và văn hóa, tất cả đều trở thành những yếu tố có
liên kết với nhau, tạo nên bức tranh phức tạp vẽ lên diện mạo những người ra
đi.
Nó đồng thời tạo nên
sự tương đồng với một bức tranh khác cũng xảy ra với người dân ở một nước mà
Việt Nam theo đuổi mô hình chính trị lẫn kinh tế gần tương tự là Trung Quốc.
Dường như sự “thiếu hiểu biết” và “ngây thơ tin vào sự đổi đời bằng cách đi
khỏi đất nước” của người Việt không giống người dân quốc gia nào khác ngoài
Trung Quốc? Các tổ chức buôn người dĩ nhiên đáng lên án nhưng tại sao chúng
thường nhắm vào người dân Việt Nam và Trung Quốc hơn là dân các nước khác?
Chúng tìm thấy ở các “đối tượng” này có điểm gì chung?...
Đừng lấy sự “thiếu
hiểu biết” của người dân để biện minh như là lý do hàng đầu khiến họ trở thành
nạn nhân của các tổ chức buôn người. Hãy tìm cách trả lời thật chính xác vì sao
họ thiếu hiểu biết, nguyên nhân nào khiến họ thiếu hiểu biết, và làm thế nào để
chặn đứng những cuộc ra đi khi không thể mang lại công ăn việc làm cho những
người khốn cùng này. Không thể xem kiều hối là nguồn tiền đóng góp cho kinh tế
quốc gia khi cùng lúc không quan tâm mồ hôi nước mắt của những người gửi tiền
về. Không có thái độ nào vô lương tâm bằng việc khước từ trách nhiệm và đổ hết
lỗi lên đầu người dân, đặc biệt người nghèo. Điều đó chẳng khác gì như muốn dội
lên đầu người nghèo một gáo nước lạnh: “Mày ngu thì mày chết. Không phải lỗi
của tao!”.
Với một số địa phương,
nghèo thôi chưa đủ. Cuộc sống vốn dĩ khốn khổ của họ còn bị giáng thêm một cú
khiến thêm khánh kiệt: ô nhiễm môi trường. Các cuộc ra đi liên tiếp của dân Hà
Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, Hải Phòng… không phải mới đây. Hiện tượng này đã xảy
ra từ nhiều thập niên trước. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng đột ngột số nạn nhân có
nguyên quán Hà Tĩnh, như được ghi nhận của Mimi Vu - chuyên gia hàng đầu về
tình trạng buôn người Việt (khi cô quan sát các trại tỵ nạn tại Bắc nước Pháp
vào giữa tháng 10-2019) - cho thấy thêm, cuộc khủng hoảng môi trường đã đẩy nhanh
tốc độ “chạy trốn” của người dân những khu vực này.
Chính phủ Việt Nam
thừa nhận vụ ô nhiễm Formosa làm chết ít nhất 115 tấn cá, phá hủy 200 hecta san
hô, gây ảnh hưởng cuộc sống 200.000 người trong đó có 41.000 ngư dân. Và chính
phủ cũng đã “nỗ lực khắc phục”. Hai năm sau vụ Formosa, báo Chính Phủ
(17-5-2018) cho biết:
“Thực hiện chính sách
hỗ trợ khẩn cấp cho người dân bị ảnh hưởng bởi sự cố môi trường…, 19.335,374
tấn gạo đã được cấp cho 214.840 người thuộc các hộ gia đình bị ảnh hưởng trực
tiếp bởi sự cố môi trường biển với mức 15 kg gạo/người/tháng trong thời gian 6
tháng…; hỗ trợ khẩn cấp 101,36 tỷ đồng để người dân mua giống, sửa chữa tàu,
thuyền…; hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng…, hỗ trợ 70% giá trị hàng hải sản tiêu
hủy… Tính đến ngày 10-5-2018, tổng kinh phí các tỉnh đã phê duyệt để chi trả
bồi thường thiệt hại là 6.490,2 tỷ đồng (Hà Tĩnh: 1.748,1 tỷ đồng; Quảng Bình:
2.759 tỷ; Quảng Trị: 1.017,1 tỷ; Thừa Thiên-Huế: 966 tỷ). Đến nay đã chi trả
6.403 tỷ cho người dân, tương đương 98,7% so với số tiền đã phê duyệt...; Quỹ
quốc gia về việc làm đã cho 2.384 dự án vay vốn tạo công ăn việc làm cho 3.279
người lao động…”.
Tuy nhiên, việc “khắc
phục hậu quả” dường như không giải quyết tận cùng vấn đề. Nó không làm lu mờ
một thực tế khác. Báo cáo “Precarious Journeys” cho biết, từ tháng 12-2016 đến
tháng 5-2018 – gần bằng thời gian mà chính quyền “khắc phục sự cố” – số di dân
bất hợp pháp gốc từ Hà Tĩnh nhập vào Anh đã tăng đột ngột. Cũng cần nhắc lại,
ba tháng trước bài báo Chính Phủ, chính quyền đã xử Hoàng Bình, một trong những
nhà hoạt động lên tiếng mạnh mẽ vụ khủng hoảng Formosa, với bản án 14 năm tù.
Không phải tự nhiên mà yếu tố “tự do bị hạn chế” (“limited freedoms”) đã được
“Precarious Journeys” đề cập như một trong những lý do khiến không ít người Việt
ra đi. Ngay thời điểm hiện tại, có không ít người Việt, chưa được cơ quan hoặc
tổ chức nào ghi nhận con số chính xác, đang trốn tại Thái Lan và Philippines
như những nạn nhân tỵ nạn chính trị.
Bất luận thành phần ra
đi là ai và đi bằng cách gì, hiện tượng rời bỏ quê hương, “chết cũng đi”, chưa
hề dừng lại sau gần nửa thế kỷ “đất nước thống nhất”, cho thấy một điều không
thể phủ nhận: chính quyền đang cai trị là một chính quyền thất bại. Để duy trì
chế độ, nhà cầm quyền đã phải trả cái giá quá đắt, khi họ “thành công” trong
việc áp đặt chính sách giáo dục nhồi sọ nhưng phải lãnh hậu quả và khiến người
dân cùng lãnh hậu quả là đất nước ngày càng thiếu hụt nhân tài; khi họ “thành
công” trong chính sách xóa đói giảm nghèo nhưng cùng lúc đẩy sự bất công lên đến
mức không thể kinh khủng hơn; khi họ “thành công” trong “định hướng” kinh tế và
kêu gọi đầu tư nhưng họ thờ ơ hoặc bất lực trong chính sách kiểm soát môi
trường; khi họ “thành công” dựng nên những đô thị lộng lẫy nhưng thất bại trong
việc ngăn chặn những cái chết tức tưởi của những người tận cùng dưới đáy xã
hội; khi họ “thành công” tạo ra được một nhóm thiểu số trung thành nhưng thất
bại tuyệt đối trong việc xây dựng niềm tin đối với đa số người dân…
Tương lai nào cho đất
nước? Không ai có thể hình dung. Không thể hình dung tương lai một quốc gia
cũng như nó sẽ sống và phát triển như thế nào, khi nó dường như đang chết, khi
niềm tin dành cho đất nước đã chết.
M.K.
Nguồn: FB Nguyễn Mạnh
Kim
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét