( Tiếp theo )
B.MỘT SỐ BÀI PHẢN BIỆN
Trong lúc còn công tác tôi đã được mời làm phản biện
khá nhiều luận án, luận văn và các công trình nghiên cứu khoa học. Đó là làm
theo nhiệm vụ. Từ khi về hưu tôi mới bắt đầu học và viết
phản biện theo ý muốn. Hình như trong tiên thiên của tôi đã có hạt giống phản biện nhưng nó ngủ yên, chỉ đến khi gặp môi trường thuận lợi nó mới nẩy mầm
và phát triển..
Vào tháng 11 năm 2005 trường Đại học Xây dựng
dính vào một sự cố. Báo Thanh niên đăng bài của phóng viên Vũ Cô : “Chuyện
buồn của một ông tiến si”. Bài báo lên án lãnh đạo nhà trường đã đối xử bất công với tiến sĩ Trần Đức,
không cho ông làm giảng dạy và nghiên cứu mà lại bắt đi làm việc kiểm tra các lớp
học hàng ngày, đếm số sinh viên trong từng lớp. Bài báo đã tạo nên một phản ứng
mạnh trong xã hội. Nhiều báo hàng ngày cùng nhau ném đá tới tấp, phê phán trường ĐHXD, cho rằng lãnh đạo trường đã
nêu một thí dụ rất xấu về lãng phí chất xám, về trù dập trí thức.
Cán bộ và sinh viên của trường, những người biết rõ sự thật của việc này vô
cùng bức xúc.
Chủ nhiêm khoa Lê Ngọc
Hồng viết bài thanh minh,
kêu gọi mọi người bình tĩnh tìm hiểu đúng sự thật. Hiệu trưởng Nguyễn Văn Hùng
viết bài giải thích với những lời lẽ chưa đủ sức thuyết phục. Các bài đó chưa
đáp ứng được mong đợi của cán bộ và sinh viên.
Tôi được một số thầy cô
giáo khuyến khích viết một bài tranh luận cho ra nhẽ. Đem ý đó bàn với vài người
bạn, tôi nhận được lời khuyên không nên dây vào làm gì. Họ tưởng rằng tôi sẽ
tranh luận với phóng viên. Nhưng không phải, tôi chủ trương không tranh luận với
ai cả. Vì thế tôi viết bài gửi cho báo Thanh niên yêu cầu đăng. Nhưng họ đã
không đăng. Tôi đành phải công bố trên các phương tiện khác. Bài của tôi đã được
cán bộ trong trường đánh giá đạt
yêu cầu.
Những người bạn trước đây khuyên tôi đừng dây vào cũng tán thành cách viết.
Từ đó tôi cảm nhận được
khả năng phản biện của mình và bắt đầu viết những bài phản biện theo ý muốn. Đó
là khi tiếp nhận được những văn bản, những ý kiến mà tôi thấy được chỗ nhầm lẫn hoặc ngụy biện.
Cũng là nhờ việc tôi đã nghiên cứu và giảng dạy môn “Phương pháp luận nghiên cứu
khoa học” cho các nghiên cứu sinh làm luận án tiến sĩ, cho các lớp cao học. Tôi đã viết sách về Phương pháp luận nghiên cứu khoa học và sáng tạo để giảng dạy tại các lớp trên đại
học (NXB Khoa học và Kỹ thuật- 2012).
Cho đến nay, trong vòng
mười năm tôi đã viết và đăng
trênFacebook cá nhân và một số báo mạng hàng trăm bài chính luận, với nhiều chục
bài phản biện về các chủ đề khác nhau, trong đó có những bài đụng đến các vấn đề
gay cấn hoăc nhạy cảm. Những bài đó được nhiều người quan tâm, nhưng không được
đưa vào sách này.
Dưới đây tôi chỉ chọn ramột số bài viết về các vấn đề
thông thường, nhằm giới thiệu các thí dụ về cách viết phản biện chứ không nhằm
mục đíchtrình bày nội dung vấn đề cần phản biện.
I-Phản biện một bài của Báo Thanh niên
(Viết vào tháng 12 năm 2005)
1-Tóm lược bài của Báo Thanh niên
Tên bài: Chuyện buồn của một ông tiến sĩ.
Thời gian: Khoảng đầu tháng 11 năm 2005. (không nhớ rõ
ngày).
(Khi định đưa bài phản biện vào sách này tôi đã bỏ
nhiều công để tìm lại bài báo, nhưng không tìm được. Chỉ xin tóm lược nội dung
theo trí nhớ).
Tác giả là Vũ Cô, phóng viên, hàng xóm của ông tiến sĩ
Trần Đức. Qua câu chuyện kể của ông Trần mà Vũ biết như sau: Ông từng là Phó
giáo sư ở trường Đại học Xây dựng. Hai năm trước ông được nhận sang Ucraina làm
và bảo vệ học vị Tiến sĩ khoa học, cao hơn tiến sĩ bình thường. Khi trở lại nhận
công tác ở Đại học Xây dựng, lãnh đạo trường không bố trí ông làm giảng dạy
theo nguyện vọng và khả năng mà bắt ông làm Trưởng ban Thanh tra đào tạo. Hàng
ngày ông tự đi kiểm tra các lớp xem các thầy dạy có đúng thời khóa biểu không,
sinh viên đi học có đông đủ không.
Khi Vũ Cô tỏ ra thông cảm với ông và bất bình đối với
lãnh đạo nhà trường, thổ lộ sẽ viết bài phê phán thì ông Trần ngăn lại, nói rằng
không nên viết ra những chuyện như vậy vì ông muốn bảo vệ uy tín cho Trường.
Tuy thế, không theo được yêu cầu của ông Trần, phóng viên cứ viết bài đăng báo.
Kết luận của bài báo là Trường Đại học Xây dựng đã nêu một thí dụ rất xấu về
lãng phí chất xám.
2-Phản biện bài báo (dưới dạng thư gửi ông Tổng biên tâp)
Thưa ông.
Tôi
là môt giáo
sư trường Đại học Xây dựng,
sinh năm 1937. Tôi viết thư này mong trao đổi một vài ý kiến về
câu chuyện liên quan đến PGS-TSKH Trần Đức mà bản báo quan tâm và đã gây ra dư
luận xôn xao trong cả nước. Riêng ở Đại học Xây dựng, nhiều người, đặc biệt là các giáo
sư, cho rằng bài báo “Chuyện buồn của một ông tiến sĩ” của Vũ Cô đăng báo Thanh
Niên là một sự hấp tấp không đáng có. Nhận định trong bài báo: “Trường Đại học
Xây dựng là một ví dụ xấu
về
tình trạng lãng phí chất xám…” là một nhận định hồ đồ, sai lầm mang tính bịa đặt.
Ý
kiến của tôi gồm ba vấn đề:
-Ông Trần Đức ở Đại học Xây dựng, - Về bài báo của Vũ Cô, - Đề nghị với Báo Thanh niên.
1-Ông
Trần Đức ở Đại học Xây dựng
Trước
khi nghỉ hưu tôi là Chủ nhiệm khoa, là cấp trên của Bộ môn Sức bền vật liệu,
nơi quản lý trực tiếp
ông Trần trước đây. Đã nhiều lần tôi nghe cán bộ và sinh viên phản ảnh, phàn
nàn về một số phát ngôn và việc làm của ông không phù hợp với vai trò người thầy
và môi trường sư phạm. Tôi cũng đã vài lần gặp ông, nghe trình bày, trao đổi ý
kiến và giúp đỡ ông trong một số việc. Tôi nhận xét ông là người có một ít khả
năng trong nghiên cứu lý thuyết, biết cách tạo lập quan hệ với một số cơ sở
nghiên cứu ở nước ngoài, nhưng ông có một số nhược điểm như không có quan hệ,
không hợp tác với đội ngũ khoa học trong trường, không có được tín nhiệm của tập
thể bộ môn.
Thời
gian đầu những nhược điểm của ông Trần chưa thể hiện rõ ràng. Mọi người ít để ý
đến. Ông có một vài bài báo khoa học được công bố, được bầu là Phó giáo sư.
Nhưng từ sau khi có chức danh đó thì ông càng ngày càng bộc lộ nhược điểm đến mức
nhiều cán bộ trong bộ môn thấy rất khó chịu. Ngoài ra một số người còn nhận thấy
ở ông một vài biểu hiện thiếu thận
trọng trong khoa học.
Để
làm một người thầy thì ngoài kiến thức chuyên môn còn rất cần năng lực
sư phạm, đạo đức nghề nghiệp. Vì vậy dùng ông làm người nghiên cứu lý thuyết
thì được, còn làm thầy giáo là có phần gượng ép.
Công
tác giữa chừng thì ông xin được sang Ucraina làm và bảo vệ luận án Tiến sĩ khoa
học. Khi trở về lại Đại học Xây dựng,
Bộ môn cũ đã từ chối tiếp nhận ông. Tôi không hề ngạc nhiên khi nhận thông tin
này.
Lãnh đạo trường đã gợi ý ông chọn bộ môn
khác hoặc chuyển sang trường khác nhưng ông đã không làm và đề nghị tạm bố trí
công tác. Trường có Ban thanh tra đào tạo, trước đấy do giáo sư Dương Học Hải làm Trưởng ban. Nay GS Hải đã nghỉ hưu, chưa
có ai thay, nên lãnh đạo tạm giao cho ông Trần. Làm Trưởng ban, nghĩa là làm lãnh đạo công tác
thanh tra. Đáng
ra ông chủ yếu ngồi tại văn phòng, nhận và xử lý thông tin. Việc đi kiểm tra trực
tiếp các lớp học đã có nhân viên là giáo vụ các khoa, chỉ thỉnh thoảng và khi rất
cầnTrưởng ban mới phải đến tận một lớp nào đó. Thế mà ông không biết làm công
việc của mình, lại muốn tỏ ra có quyền lực nên hàng ngày đi khắp các lớp. Không có ai buộc Trưởng ban thanh tra đào tạo phải
hàng ngàyđi đếm số lượng sinh viên.
Có vài lần tôi viết nhận xét cho ông Trần
để ông
xin Bộ Giáo dục đi dự hội thảo khoa học ở nước ngoài. Để giúp ông tôi chỉ nhận
xét những mặt tốt,
có khi còn hơi quá một chút. Phải chăng tôi đã phạm sai lầm.
Ông có bằng Tiến sĩ khoa học, nhưng tài
năng đến đâu, trong lĩnh vực nào còn cần xem xét. Ở nước ta hiện nay người có
năng lực ứng với bằng cấp là hơi ít. Một người có thực tài thường chủ động và
sáng tạo trong mọi công việc. Chưa ai thấy ông có một sáng kiến cải tiến hoặc
hoạt động nào đem lại hiệu quả cho một việc quan trọng là thanh tra đào tạo.
Ông
Trần có bằng TSKH, có chức danh PGS, nhưng ở trường Đại học cũng như nhiều cơ
quan chuyên môn khác người ta quen nhìn nhận cán bộ theo năng lực thực sự, còn
danh vị và bằng cấp chỉ để giới thiệu khi
thật cần mà thôi.
Để chứng minh ông Trần có tài, báo Thanh
niên đưa ra lời của Phó Chủ tịch Hội đồng chấm luận án đánh giá công trình của
ông. Chúng tôi, những giáo sư đã từng chấm hàng chục luận án tiến sĩ nhận thấy
rằng, giữa lời đánh giá luận án và khả năng thực của một người có khoảng cách,
có khi khá xa. Vậy không thể dùng đánh giá luận án để thay cho đánh giá con người.
Mà cũng lạ, khắp thế
giới Hội đồng chấm luận
án chỉ có Chủ tịch, không có Phó Chủ tịch. Không biết từ đâu mà ở Ucraina lại
có chức đó. Thật hay giả?.
Ông
Trần cho rằng không được làm giảng dạy thì tài năng sẽ bị thui chột theo năm
tháng. Đó là suy nghĩ tầm thường, nói cho những người bình thường nghe. Hỏi có ai ngăn cản được một
người có tài tự nghiên cứu.
2-Về
bài báo của Vũ Cô
Những
hiện tượng liên quan đến ông Trần có một phần là sự thật, đó là một số biểu hiện bề ngoài. Còn
những phần khác của sự thật chưa được đề cập tới, mà đó mới là phần chứa đựng bản
chất. Phóng viên Vũ Cô đã dựa vào một vài luận cứ thô thiển và thiếu sót để suy
luận, rồi đưa ra kết luận hàm hồ rằng trường Đại học Xây dựng lãng phí chất xám. Vũ Cô đã phạm vào lỗi ngụy biện,
gây
ra hậu quả nghiêm trọng cho uy tín của Trường.
Vũ
Cô và Báo Thanh niên nhân sự việc ông Trần, muốn đưa ra hiện tượng lãng phí chất xám để cảnh tỉnh xã hội. Ý
đồ có thể tốt,
nhưng cách làm sai vì quá vội vàng. Mà đàng sau sự vội vàng ấy liệu có ẩn chưa
một ý đồ thiếu
trong sáng
nào đó hay không. Sẽ là đúng phương pháp hơn khi phóng viên chịu khó điều tra
thêm từ cán bộ và sinh viên của trường. Ý đồ dù có tốt mà cách làm sai thì hành
động tích cực càng gây ra hậu quả xấu cho mọi phía. Còn nếu ý đồ không trong
sáng thì hậu quả càng nặng nề.
Vũ Cô tưởng nhầm rằng bài báo của mình đề
cao được ông Trần, giúp ông thực hiện được mong muốn, nhưng kết quả hoàn toàn
ngược lại. Vũ Cô viết rằng ông Trần không muốn đưa sự việc lên báo vì sợ ảnh hưởng
đến uy tín của trường. Tôi cho rằng ông còn sợ một điều khác lớn hơn, quan trọng
hơn là phần còn lại của sự thật sẽ có người đem ra công luận. Thế mà Vũ Cô
không biết cho nỗi sợ đó và không lường trước được tác hại do mình gây nên. Bài báo đã đặt ông Trần vào thế rất khó xử ở Đại học
Xây dựng. Về việc này ông Tổng biên tập cần nghiêm túc và thận
trọng xem xét lại.
3-Đề
nghị với Báo Thanh niên
Khi
Báo tự tin rằng động cơ và việc làm của mình là đúng, là tốt thì nên tiếp tục
giúp đỡ ông Trần bằng cách giới thiệu cho công luận biết rõ tài năng của ông một
cách cụ thể hơn để các cơ sở khoa học hoặc sản xuất đến ký hợp đồng hoặc nhận
ông làm cán bộ, tạo cho
ông điều kiện
phát triển tài năng. Tôi đã hỏi lãnh đạo Trường Đại học Xây dựng, họ sẵn sàng để ông chuyển
công tác khỏi trường. Nhưng
sẽ thiết thực hơn khi giúp được ông Trần biết tự đánh giá mình một cách đúng đắn,
tránh được hoang tưởng, lúc
đó ông mới có thể đóng góp gì đó cho xã hội.
II –Phản biện vài thành ngữ hoặc câu nói, câu chuyện nổi
tiếng
Có một số thành ngữ hoặc
câu nói nổi tiếng được dùng khá phổ biến. Nhiều người tưởng nhầm đó là chân lý
hoặc có độ chính xác khá cao, có thể dùng cho mọi người, mọi lúc, mọi nơi. Thực
ra chúng chỉ đúng được một phần nào đó hoặc có những ý không chính xác. Tôi
phân tích, chỉ ra những điều đó, hy vọng có thể gợi ý cho những ai quan tâm.
1-Thành ngữ“Gần mực thì đen”
Thành ngữ trên được diễn
thành bài ca dao:
Thói thường gần mực thì
đen.
Anh em bạn hữu phải nên chọn người.
Những người lêu lổng
chơi bời.
Cùng làlười biếng ta thời
tránh xa.
Một số thành ngữ tương tự: Ở với bầu thì tròn, ở với ống
thì dài, Đáo giang tùy khúc nhập gia tùy tục.
Những thành ngữ vừa kể xét quan hệ giữa chủ thể là ta
và khách thể (mực, bầu, ống, giang, gia). Ở đây khách thể giữ chủ động, tạo ảnh
hưởng, còn chủ thể bị độngvà biến đổi theo (thì đen, thì tròn, thì dài, tùy
khúc, tùy tục). Những thành ngữ này chỉ đúng cho một số chủ thể nào đó, là những
người kém bảnlĩnh, thường quen với sự lệ thuộc vào khách quan hoặc là những người
“khôn ranh”, luôn lựa theo hoàn cảnh.
Thông thường không chơi với bạn xấu, sợ bị ảnh hưởng,
việc giúp các bạn ấy sửa chữa tính cách đã có người khác. Vậy nếu ta có bản
lĩnh, có thể chơi với bạn để giúp họ tốt lên hay không. Nên lắm chứ, đặc biệt
khi người bạn đó, ngoài vài tính cách xấu còn có một số mặt tốt mà mình có thể
học được.
Tôi có người bạn, có kinh nghiệm sống với hàng xóm từng
bị nhiều người xa lánh. Năm 1975, lúc Trường Đại học Xây dựng đóng ở Hương
Canh, anh ấy rất ngại ở nhà tập thể “tranh tre nứa lá” nên muốn mua một nhà
trong xóm dân để gia đình đông người ở riêng.Tìm được một nhà ở xóm Ngoại Trạch,
khá gần trường. Nhiều bạn bè biết tin ra sức can ngăn, vì xung quanh nhà ấy có
vài gia đình thuộc loại “bất hảo”, thường xuyên gây sự to tiếng với nhau, mất
đoàn kết. Ban đầu anh rất băn khoăn, nhưng rồi đọc được đoạn Khổng Tử trả lời học
tṛ có ư như sau: “Trong một xóm làng có những thói quen xấu, khi có người
chính trực đến ở, người đó có thể giúp xóm làng cải biến được”. Anh tự tin mua
nhà và dọn đến ở. Kết quả, bằng lòng tốt, việc thiện, nhường nhịn, anh đã cảm
hóa được các gia đính xung quanh, tạo được sự đoàn kết, thân ái.Như thế là gần
mực nên đã làm cho nó bớt đen, chứ không bị nhiễm màu đen của nó.
2-Thành ngữ “Suy bụng ta ra bụng người”
Dù rằng bụng ta chứa điều ác, điều xấu, tham lam, ích
kỷ hoặc chứa điều thiện, điều tốt mà suy cho người thì chỉ đúng cho vài đối tượng
này hoặc đối tượng kia mà thôi.
Trong suy luận quy nạp thì đây thuộc lỗi “Khái quát
hóa vội vàng”, không thể đem áp dụng rộng rãi, tùy tiện.
Bụng ta là của ta, bụng người là của người. trong hai
bụng ấy có vài điểm giống nhau nhưng có vô số điểm khác nhau. Vậy suy bụng ta
ra bụng người chỉ là trường hợp cá biệt chứ không phải phổ biến. Nếu cứ máy móc
áp dụng cho mọi hoàn cảnh, mọi người thì rồi có lúc bị hố to. Suy bụng ta ra bụng
người chủ yếu là để nhận xét một sự việc đã xảy ra chứ không nên là một phán
đoán kết quả.Vậy bụng ta như thế thì có khả năng bụng một vài người nào đó cũng
như thể chứ không phải bụng mọi người đều như thế.
3-Chuyện Sơn tinh Thủy tinh
Lại nghe trong thủa LạcHùng
Mịchâu có ả tưphong khác thường,
Gần xa nức tiếng cungtrang.
Thừalong ai kẻ đông sàng sánh vai?
Bỗng đàu vừa thấy hai người,
Một Sơn tinh với một loài Thủy tinh,
Cầu hôn đều gửi tấc thành,
Hùng vương mới phán sự tình một hai.
Sính nghi ước kịp ngày mai,
Ai mau chân trước, định lời hứaanh.
Trống lầu vừa mới tan canh,
Kiệu hoa đã thấy Sơn tinh chực ngoài.
Ước sao lại cứ như lời,
Xe loan trăm cỗ đưa người nghigia.
Cung đàn tiếng địch xaxa,
Vui về non Tản, oán ra bể Tần.
Thủy tinh lỡ bưởc chậm chân,
Đùng đùng nổi giận, đem ân làm thù.
Mưa tuôn gió thổi mịtmù,
Ào ào rừng nọ, ù ù núi kia,
Sơn thần hóa
phép cũng ghê,
Lưới giăng dòng Nhị, phên
che non
Đoài.
Núi cao sông cũng còn dài,
Năm năm báo oán, đời đời đánh nhau.
Người ta có ý trách cứ Thủy tinh và ca ngợicuộc chiến đấu của
Sơn tinh mà lờ đi chuyện “Thiên vị”
trong việc Hùng Vương đặt điều kiện cho “Sinh nghi ước kịp ngày mai”. Những thứ
như voi chin ngà, gà chin cựa, ngựa chin hồng mao thì Sơn tinh có thể kiếm được
ngay còn Thủy tinh xem như đã bị loại. Sự thiên vị phải chăng đã tồn tại lâu
dài trong đầu của những người có quyền thế.
Hùng vương có quyền đòi sính lễ theo ý muốn hoặc chọn
ngay Sơn tinh mà từ chối Thủy tinh. Như thế mới là minh bạch. Còn bày chuyện
thi tài hoặc nêu điều kiện có tính thiên vị thì không nên. Đã bày ra chuyện thi
tài hoặc đấu thầu thì điều kiện phải thật sự công bằng, không được thiên vị.
4- Câu ca dao: “Bầu ơi…”
Bầu ơi thương lấy bí cùng.
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Và :
Nhiễu điều phủ lấy giá gương.
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Nhiều người viện dẫn các câu đó để minh chứng cho tình
cảm Đồng bào, biết yêu thương và đùm bọc nhau.
Hình như không phải thế mà đây là những lời kêu gọi
khi người ta thấy “Tình thương cần có” cúa đồng bào đã bị sứt mẻ, đã bị kém đi.
Nó thể hiện ở cụm từ “thương lấy” và “phải thương”. Khi một người cha hoặc mẹ
thấy các con thương yêu nhau thì không cần phài dạy “Anh chị em chúng mày phải
thương yêu nhau”.
Mà hình như lời kêu gọi có vẻ thống thiết.
5-Câu “Quạ xứ nào cũng đen…”
Câu “Quạ xứ nào cũng đen, địa chủ xứ nào cũng gian ác”
được phổ biến rất rộng rãi trong Cải cách ruộng đất.Thực tế không hoàn toàn
đúng như thế. Đây là cách ngụy biện bằng so sánh khập khiểng, dùng hiện tượng tự
nhiên áp đặt cho nhân sinh. Địa chủ có kẻ gian ác, nhưng cũng có những người
nhân hậu, tử tế.
Câu trên do một kẻ quyền thế và kém trí tuệ ở Trung quốc
đưa ra, dạy cho lãnh đạo của Việt Nam để họ dạy lại cho dân Việt nhằm khoét sâu
hận thù giai cấp. Lãnh đạo học được rồi ra sức truyền bá cho nông dân thông qua
các đội cải cách. Văn nghệ sĩ, trí thức thi nhau nói theo, phổ biến, ca ngợi,
vì nói khác đi sẽ bị quy kết và bị đấu tố.
6- Nếu bạn bắn vào quá khứ
“Nếu bạn bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ
bắn vào bạn bằng đại bác” (Câu này của A butalip., nhà thơ Đaghestan)
Câu trên được nhiều người dùng, nhưng nó mắc phải một
lỗi về logic mà ít người nhận thấy. Phải chăng ý muốn sâu xa cho rằng bạn không
nên bắn váo quá khứ và tương lai thông minh hơn bạn. Cứ tạm xem bạn, quá khứ,
tương lai là một thế kỷ thì suy ra:Thế kỷ 19 (bạn) bắn vào quá khứ là thế kỷ 18
bằng súng lục thì tương lai là thế kỷ 20 sẽ bản vào 19 bằng đại bác. Tiếp tục
như vậy thì 21 thả bom vào 20 và rồi 22 sẽ dùng vũ khí hạt nhân.
Thế thì tương lai ngu hơn hiện tại chứ có phải thông
minh hơn đâu.Kiểu suy luận như vậy là nhằm khoét sâu hận thù chứ không phải
khuyên khích lòng độ lượng. Tưởng rằng nói một câu thông minh, để đời, nhưng tự
phản lại mình mà không biêt
7- Đừng hỏi Tổ quốc
Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho ta, mà cần hỏi
ta đã làm gì cho tổ quốc hôm nay. Đó là một câu trong bài hát Khát vọng tuổi trẻ mà
tác giả Vũ Hoàng sáng tác vào khoảng năm 1995.
Câu hát đó
được cho là lấy từ lời tổng thống Mỹ John F. Kennedy phát biểu trong bài
diễn văn nhậm chức năm 1961: “Đừng hỏi Tổ quốc có thể làm gì
cho bạn; hãy hỏi bạn có thể làm gì cho Tổ quốc”.
Đoạn
sau của câu là đúng, nhưng đoạn đầu có chỗ chưa chính xác.
Câu này phạm một lỗi logic là lập lờ, đánh tráo khái
niệm, nhưng được nhiều người ca ngợi. Lãnh đạo lớn tuổi dùng để răn dạy thanh
niên, các bạn trẻ dùng để tự động viên và thể hiện mình.
Tổ quốc là một khái niệm trừu tượng, nó tồn tại trong
nhận thức mỗi người. Tổ quốc là một hình tượng để mọi người yêu mến, tôn thờ. Tổ
quốc không hề làm gí cho bất kỳ ai, không thể trả lời cho bất kỳ ai. Hỏi Tổ quốc
là câu hỏi vô nghĩa. Thế thì hỏi ai? Ai mới có thể làm gì cho bạn hoặc trả lời
bạn? Đó là Chính quyền hoặc cụ thể hơn là những người nắm quyền hành nhà nước.
Trong câu có hai từ Tổ quốc thì từ trước đã bị đánh
tráo khái niệm. Khi ai đó dùng câu này để khuyên bảo thanh niên thì họ đã vô
tình đồng nhất những người đứng đầu nhà nước với Tổ quốc (để đặt câu hỏi).
8- Là người tôi sẽ chết cho quê hương
Đó là lời trong bài hát “Tự nguyện”. Nó nói lên tinh
thần dám hy sinh của các bạn trẻ, nhưng trong đó chứa đựng sự huênh hoang không
phải cách.
Chết vì quê hương là sự hy sinh cao cả, nhưng là bất đắc
dĩ, không ai muốn. Khi quê hương bị xâm phạm thì cần chiến đấu bảo vệ nó. Sự hy
sinh là khó tránh, không phải là điều mong muốn. Đáng ra nên viết: “Là người
tôi sẽ chiến đấu để bảo vệ quê hương, dù có phải chết cũng vui lòng” hoặc: “Nếu
phải chết tôi chọn cái chết để bảo vệ quê hương”.
Chết để bảo vệ quê hương là sự hy sinh đáng tôn trọng,
nhưng đáng mong ước hơn là sống để góp phần xây dựng quê hương.
Xin hỏi: Quê hương cần gì ở bạn. Rất cần bạn góp phần bảo vệ
và kiến thiết. Điều đó cần bạn có sức lực, trí tuệ và tinh thần. Nếu quê hương
bị xâm phạm, bạn có thể chiến đấu và bị hy sinh. Đó là sự hy sinh cao cả, nhưng
không ai mong đợi. Bạn chiến đấu dũng cảm, lập công và trở về nguyên vẹn để tiếp tục đóng góp trong xây dựng hòa bình mới là điều quý,
đáng mong đợi. Bao nhiêu người anh hùng đã như thế. Nếu nói rằng khi quê hương
cần sự hy sinh thì tôi xin sẵn sàng và vui vẻ đón nhận thì nghe đúng đạo lý
hơn.
Là người tôi sẽ chết cho quê hương. Nghe nó anh hùng quá. Phải
chăng là sự bốc đồng trong chốc lát. Sẽ có người cho rằng đó chỉ là một câu
hát, phân tích mà làm gì. Tuy là câu hát, câu thơ nhưng cũng nên tránh sự diễn
đạt bốc đồng như vậy. Và xin hỏi khi bạn viết câu đó, hát câu đó có một chút
nào thật lòng hay không.
9- Cá không
ăn muối
Cá không ăn muối
cá ươn
Con cưỡng cha mẹ
trăm đường con hư
Đã rất nhiều bậc cha mẹ vận dụng châm ngôn gần như đã
thành nguyên lý đó để dạy con, tạo ra những thế hệ con cháu đáng tin cậy nối
nghiệp tiền nhân. Tuy vây cũng đã gặp không ít những trường hợp ngược lại. Đó
là khi con cưỡng lại cha mẹ thì sẽ thành đạt, còn nếu răm rắp nghe theo cha mẹ
thì sẽ trở thành những kẻ ở dưới đáy của xã hội. Đó là khi cha mẹ không lương
thiện hoặc không biết dạy con đúng phương pháp, Những đứa trẻ có sẵn bản lĩnh mạnh
mẽ từ trong bào thai, từ lúc mới sinh thường có tính cách tự chủ rất sớm, không
chấp nhận những lời dạy bảo áp đặt mà thích làm theo ý của mình. Những trẻ như
thế bị cho là không ngoan, khó dạy, dàm cưỡng lời cha mẹ. Gặp những trẻ như vây
cha mẹ nên vui mừng ví chúng có bản lĩnh, có nhiều khả năng trở thành những người
lớn có nội lực vững vàng. Đừng vội vận dụng câu ca dao “cá không ăn muôi…” để
đưa ra nhận xét và dùng biện pháp áp đặt thô bạo mà cần tìm biện pháp hướng dẫn
thích hợp trên cơ sở khuyến khích trẻ tìm tòi, khám phá những hoạt động hợp đạo
lý.
10- Câu “Chớ
nghe họ nói…”
Chớ nghe họ nói, hãy xem việc họ làm. Câu này vốn tồn
tại trong dân gian từ lâu, được nhiều người nói lại. Đoạn sau là đúng, nhưng đoạn
trước không chính xác.
Câu sau đây do Tiền
nhân để lại và lưu truyền rộng rãi: “Ông Thánh nói trăm câu có thể có câu sai,
người điên nói trăm câu có thể có câu đúng”. Trong kinh Kalama Đức Phật cũng dạy,
đại ý là chớ vội tin vào những điều họ nói, bất kể họ là ai. Như vậy cần nói rằng
“Chớ vội tin điều họ nói” chứ không nên cho là “Chớ nghe lời họ nói”. Nếu không
nghe, không đem đối chiếu với thực tế thì làm sao biết điều nào họ nói sai. Lỡ
ra trong những điều họ nói có điều đúng thì sao. Phát biểu rằng “chớ nghe lời họ
nói “ là một cách phủ định toàn bộ, thiếu khoa học, không phù hợp đạo lý. Nên chữa lại câu trên
thành: Chớ vội tin điều họ nói, hãy xem kỹ việc họ làm.
11- Bạn của
bạn là ai
Hãy cho Tôi biết bạn của Bạn là ai, Tôi sẽ cho
biết Bạn là người như thế nào (Chú
ý phân biệt Bạn- ngôi hứ hai, và bạn- ngôi thứ ba.
Câu ngạn
ngữ của
Anh nói lên khả năng phán đoán khi không dựa vào các biểu hiện
trực tiếp mà có thể dựa vào biểu hiện gián tiếp. Phán đoán về một con người thì
tốt nhất, đáng tin cậy nhất là dựa trực tiếp vào những việc làm, những phát
ngôn và tướng mạo của họ, hoặc dựa vào thời điểm lúc họ sinh ra (xem tử vi, tứ trụ, hà lạc). Chỉ khi nào không thể dựa vào trực tiếp mới cần dựa vào
gián tiếp là những người bạn của họ mà mình biết khá rõ. Còn khi mình chỉ biết qua về bạn của họ thì làm sao mà phán đoán được, trừ phi có tài
thánh.
Còn
khi Tôi vừa biết Bạn, vừa biết thêm những người bạn của Bạn mà đưa ra phán đoán
về Bạn thì lại là chuyện khác.
Câu ngạn
ngữ quá ngắn gọn, đáng ra phải thêm hai điều kiện và phát biểu như sau : “Tôi
chưa biết gì về Bạn, hãy cho tôi biết bạn của Bạn là ai trong số người tôi từng
quen biết, Tôi sẽ đoán được Bạn là người như thế
nào”.
Hai điều
vừa trình bày (Tôi không biết gì về Bạn và Tôi quen biết bạn của Bạn) phải được
hiểu đúng, nếu không thì chỉ là bốc phét. Mà phần lớn những người nói câu trên
cũng chỉ là hạng bốc phét. Thực tế thì mỗi người tự biết mình, cần gì phải có
người nói cho biết mình là người như thế nào, trừ trường hợp xem bói để biết một
việc gì đó..
Ông An
kể chuyện sau: Một hôm ông được nghe ông Ba nói
câu ngạn ngữ trên. Ông An gặp riêng ông Ba, khen ông ta quá
giỏi và kể ra tên năm người bạn để nhờ đoán xem ông An là người như
thế nào. Ông
Ba bảo rằng không hề biết cả năm người. Thế là rõ.
Trong yêu cầu chỉ nêu; “bạn của Bạn là ai” chứ không có yêu cầu phải biết
rõ những người ấy, mà làm sao để ông An nắm được là ông Bađã biết những ai là bạn
ông An. Phải chăng ông An kể ra một người rồi hỏi xem ông Ba có biết người đó
hay không.
III-Phản biện sách Sức mạnh của cái đúng
(tháng 4 năm 2018)
1-Giới thiệu
Đó là quyển sách của ông Nguyễn Trần Bạt (1946-2020). Sách được nhiều người đánh
giá cao.
Trong vài chục năm (cuối thế kỷ 20, đầu 21)
Nguyễn Trần Bạt nổi lên như một trí thức làm kinh tế rất thành đạt. Ông sinh tại
Nghệ An, năm 1963 vào quân đội, năm 1973 tốt nghiệp Đại học Xây dựng. Năm 1984
thôi việc nhà nước, năm 1989 thành lập Công ty tư vấn về đầu tư và chuyển giao
công nghệ- InvestConsult Group. Hiện nay Công ty hoạt động trên nhiều nước, có
doanh thu nhiều triệu đô la mỗi năm. Ông Bạt là người nổi tiếng trong các lĩnh
vực: doanh nhân, luật sư, nhà tư vấn, học giả. Ngoài thành tích về kinh tế, ông
được giới trẻ rất hâm mộ vì những buổi nói chuyện, trả lời phỏng vấn và in hơn
chục quyển sách về rất nhiều vấn đề nhằm hướng dẫn, động viên thanh niên trên
con đường lập nghiệp.
Tôi kính phục kiến thức,
ý chí, quan hệ và sự đóng góp của ông Bạt. Tôi đã từng say sưa đọc các sách của
ông bàn về văn hóa, con người, tri thức,
kinh tế, đạo đức, tự do, dân chủ, khoa học,
giáo dục, cải cách v.v… và công nhận rằng
sách của ông đã giúp tôi hệ thống hóa một số suy nghĩ còn rời rạc, giúp phát hiện
một vài nhận thức mới. Thế nhưng gần đây đọc sách “ SỨC MẠNH CỦA CÁI ĐÚNG”, NXB
Hội nhà văn- 2018, tôi gặp một vài quan điểm khó chấp nhận, liên quan đến chính
trị, thời cuộc. Những vấn đề này không mới, chắc rằng có xuất hiện trong những
sách tôi đã đọc, nhưng trước đây tôi
không để ý.
Ông Bạt luôn nhận mình
“Không
phải là người đối lập. Khi viết sách ông chủ trương vì sự tiến bộ, vì trăn trở
với tương lai đất nước, làm hết mình để giải độc cho thế hệ trẻ v.v”….Nhưng
tôi nhận thấy trong sách ông có vài điểm bất đồng, đó là nhận thức về Mác, về
cách mạng, về vai trò của trí thức và vài điều lẻ tẻ. Tôi xin nêu ra một cách vắn
tắt để những ai quan tâm có thể tham khảo và thảo luận. Riêng với ông Bạt, nếu
ông vui lòng chấp nhận trao đổi kỹ hơn,
tôi xin sẵn sàng gặp trực tiếp để nói chuyện như giữa những người bạn.
Trong các phản biện dưới
đây tôi có trích vài câu trong sách “ Sức mạnh của cái đúng”, con số đặt trong
ngoặc (…) ghí số trang có câu được trích.
2-Về lý thuyết của Mác
Ông Bạt tỏ ra một lòng
tin vào Mác Ông nhận xét “Chủ nghĩa Mác hấp dẫn ở phương pháp luận của nhận
thức (386)”. Về vấn đề này ông còn viết : “ Tôi có hai hệ thống tín hiệu
để suy nghĩ tạo cảm hứng. Một là luận lý biện chứng của Mác và hai là logic.(187)”.
Rất nhiều người cũng một
thời được
hấp dẫn bởi những lập luận rất hay, rất chặt chẽ của Mác, nhưng rồi đã phát hiện
ra một số nhầm lẫn trong
đó. Luận lý ông Bạt nói đến, theo cách hiểu thông thường gồm Luận cứ, Luận chứng
và Luận đề. Dựa vào luận cứ, dùng luận chứng để
chứng minh nhằm rút ra kết luận, là luận đề. Lập luận rất hay, rất chặt
chẽ, rất hấp dẫn của Mác nằm ở phần luận chứng, ông Bạt cũng ca ngợi Mác trong phần luận chứng. Còn
những người phát hiện ra nhầm lẫn là thiếu sót hoặc nhầm trong luận cứ.
Ông Bạt viết : “Mác là nhà triết học xây dựng
được hệ thống tư tưởng toàn diện và chắc chắn đến mức những ai trở thành đệ tử của nó đều không ra
khỏi nó được.(362). Và : “ Trần Đức Thảo
là người rất mê Marxist…(386)”. Viết như thế phải chăng là chủ quan
vì có thể dẫn ra nhiều người nổi tiếng trong nước và trên thế giới đã từng say mê Mác, nhưng rồi đã phát hiện ra một số nhầm của ông trong việc sử dụng
luận cứ.
Ông Bạt cho rằng ông đã
thành công lớn trong việc giải thích Mác khi viết : “Nhiều anh em nói với
tôi rằng họ đọc nhiều về Mác, nhưng cũng không hiểu lắm, đến khi họ đọc những
phân tích của tôi về Mác là họ hiểu ra ngay.” Ông còn viết : “Chúng ta
còn cái vướng là chưa Việt hóa được cả các nguyên lý của CNML…( 25)”.
Viết rằng chưa Việt hóa được các nguyên lý của CNML liệu
có quá coi thường các nhà lý luận của Việt Nam đang giảng dạy và nghiên cứu ở
các Học viện chính trị cao cấp.
Đọc những lời của ông Bạt ca ngợi Mác tôi hơi ngờ ngợ.
Phải chăng ông thật lòng, phải chăng ông đã nghiên cứu rất kỹ và có niềm tin sắt
đá vào Mác hay là cũng chỉ nói theo dư luận chính thống.
Tôi là một trong những người có nghi ngờ một số điểm
trong lý thuyết của Mác. Tôi có đề nghị được trao đổi với ông Bạt, để nghe ông
giải thích, may ra tôi thấy được những chỗ sai của mình, nhưng không được ông
nhận lời, chắc là ông bận quá nhiều việc. Thật đáng tiếc.
Phải chăng ông Bạt đã phần nào biết
được những thiếu sótcủa Mác, nhưng vì một lý do nào đó mà chưa tiện nói ra. Hoặc
giả ông cho rằng: “Trong mọi xã hội đều tồn tại tầng lớp dưới thấp kém,
nghèo đói, luôn có nguy cơ trở thành giai cấp vô sản, cho nên CN Mác vẫn có giá
trị, nó chính là công cụ triết học của tầng lớp dưới (363)”.
Ông Bạt chủ trương viết sách vì sự tiến bộ và giải độc
cho thế hệ trẻ. Không rõ ông quan niệm thế hệ trẻ đang bị đầu độc và ông giải độccho họ như thế nào.
Tôi cũng có ý định đó và tìm
xem có thể tham khảo được gì, nhưng tìm
mà chưa thấy.
3- Về trí thức
Bàn về trí thức
VN, có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau,
khen chê đủ cả. Văn bản chính thức có NQ 27-NQTƯ tháng 8 năm 2008 về xây dựng đội ngũ trí thức. Trong năm 2018
nhiều tổ chức của Đảng mở hội thảo đánh giá 10 năm thực hiện NQ 27. Tôi có một
số ý kiến phản biện NQ này, nhưng ở đây chỉ xin bàn đến vài ý kiến trong sách của
Nguyễn Trần Bạt.
Ông Bạt cho rằng quan trọng phải có tiêu chuẩn để nhận diện
trí thức, vì nếu tiêu chuẩn không rõ ràng thì: “tức là cổ vũ cho một bộ phận
trí thức nhạy cảm và đủ năng lực để biến hình, biến màu, trở thành kẻ cơ hội sớm
nhất và giỏi nhất. Những người cầm quyền
nếu không đủ tinh khôn, không đủ kinh nghiệm sẽ rất dễ nhầm lẫn những kẻ
đội lốt trí thức với trí thức chân chính (350)”.
Trong đoạn vừa trích có
3 loại trí thức : Trí thức chân chính, trí thức nhạy cảm (thiếu chân chính) và
kẻ đội lốt trí thức (trí thức dổm hoặc kém chất lượng). Ông Bạt đưa ra tiêu chuẩn
để nhận diện trí thức là “Tính độc lập” (351), thể hiện trên 4 khía cạnh. Độc lập
đối với nhau tạo nên sáng tạo, tranh luận. Độc lập với nhà cầm quyền tạo nên phản
biện. Đối lập với văn hóa ngoại lai tạo nên sự lựa chọn. Độc lập, đối diện với
quá khứ tạo ra động lực của sự phát triển và năng lực phỏng đoán tương lai.
Tôi không phản bác những
ý kiến trên, chỉ bổ sung vài ý. Ông Bạt cho rằng những người cầm quyền nếu
không đủ tinh khôn…, tôi lại thấy hiện nay lắm kẻ cầm quyền thừa ranh ma, lắm
thủ đoạn tạo ra và sử dụng trí thức dổm. Ông Bạt cho rằng cần dựa vào tính độc
lập…, tôi thấy đó chỉ mới là một phần trong điều kiện đủ, trong đó còn cần thêm
sự trung thực. Ngoài ra còn điều kiện cần mà chủ yếu là khả năng trí tuệ. Bốn tiêu chuẩn độc lập ông bạt nêu ra chỉ là phụ.
Ông Bạt viết: “ Trí thức là những người chịu trách nhiệm lớn nhất đối với sự phát triển, đối
với vận mệnh của dân tộc (354)…,Việc tạo ra cuộc cách mạng là của giới chính trị,
nhưng hàn gắn vết nứt của CM để tạo ra sự đồng thuận xã hội là việc của giới
trí thức (13)…Phát triển gắn liền với việc tìm kiếm ra phương thức thay đổi một
cách từ tốn tất cả các nhược điểm của một nến chính trị. Đấy là công việc của
giới trí thức (20)…”.. Việc giới trí thức có và cần đóng
góp vào các công việc vừa kể là đúng,
nhưng cho rằng đó là trách nhiệm chính của họ là không chuẩn. Nếu trí thức phải
gánh phần trách nhiệm chính thì phải chăng chính quyền, lãnh đạo chỉ chịu trách
nhiệm phụ hoặc phối hợp mà thôi. Không!. Trách nhiệm chính phải là của chính
quyền, của lãnh đạo. Sự đóng
góp của trí thức chỉ là phần quan trọng.
Ông Bạt có nhận xét: “Làm giàu kho trí tuệ của
dân tộc là nhiệm vụ của giới trí thức, còn lựa chọn cái gì trong đó để đưa ra
dùng là nhiệm vụ của giới chính trị (359). Đúng ra, lựa
chọn cái gì là nhiệm vụ của giới chính trị cầm quyền. Giới này mới chịu trách
nhiệm chính. Khi cho rằng trách nhiệm chính thuộc về trí thức là đã làm nghiêng
lệch vai trò của họ.
Khi đưa ra khẩu hiệu :
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, có người đã bình luận: Thế chính
quyền và lãnh đạo làm gì, phải chăng là ngồi chơi, xơi nước.
4- Bình luận
Trong quyển sách Sức mạnh
của cái đúng, ngoài các điều đã trình bày ở các mục trên, tôi còn phát hiện một
số chi tiết bất đồng khác, chưa viết ra đây. Ngoài ra tôi cũng biết có vài người
phản biện ông Bạt. Phạm Hồng Sơn nhận xét: Đọc Nguyễn Trần Bạt xen kẽ những điểm
tích cực, có lợi cho xã hội và người dân là những ý kiến, quan điểm không đúng,
nguy hiểm cho tiến bộ xã hội hiện nay. Ví dụ quan điểm của ông về Nhà nước toàn trị, về
nhân quyền, về chỗ đứng của Nghiên
cứu khoa học xã hội.(bài: Hơn hai
sai lầm nguy hiểm của ông Nguyễn Trần Bạt- trang Ba Sàmngày 4/ 9 , 2012). Trung Nguyễn viết bài “Phản hồi
Nguyễn Trần Bạt về hòa giải và hòa hợp” , đăng Báo Tiếng Dân ngày 15/5/2018),
Nguyễn Trần Bạt, ngoài
doanh nhân thành đạt còn là một học giả nổi tiếng, có rất nhiều người hâm mộ, đặc
biệt là các bạn trẻ. Ông
nói rằng“Phương châm của ông khi viết là trong sáng, tốt đẹp”. Thế nhưng sao lại có những phản
biện không mong muốn. Tôi chép lại nhận xét của Phạm Hồng Sơn: “Đọc Nguyễn Trần
Bạt xen kẽ
những điểm tích cực, có lợi cho xã hội và người dân là những ý kiến, quan điểm
không đúng, nguy hiểm cho tiến bộ xã hội hiện
nay”. Xin bổ sung rằng phần tích cực, có lợi
chiếm trên 95%, phần nguy hiểm chỉ là số ít và rải rác, nhưng gây tác dụng
không nhỏ. Trong rất đông người hâm mộ
ông Bạt liệu đã có mấy ai phát hiện ra các quan điểm mà phản biện cho là không
đúng, nguy hiểm. Phản biện cho là không đúng, nhưng bản thân ông Bạt thì sao.
Ông có thực sự tin những điều viết ra là hoàn toàn đúng, là kết quả của sự
chiêm nghiệm sâu sắc, là xuất phát từ trái tim, hay là ông viết như vậy vì một
áp lực nào đấy về tâm lý.
Nếu như ông Bạt từ
trong sâu thẳm của tâm hồn, từ nhận thức chính xác, chặt chẽ, đã qua thử
thách mà cho rằng Mác đúng, thì đó là
quyền cá nhân của ông, xin được tôn trọng. Chỉ muốn cảnh báo để ông biết, có những
phản biện không đồng tình, cho rằng nó nguy hiểm cho tiến bộ xã hội. Những điều
đó nếu do tuyên giáo của Đảng phổ biến thì người ta cho là chuyện bình thường,
nhưng khi do học giả nổi tiếng Nguyễn Trần Bạt nói ra thì tác dụng sẽ khác. Vừa
tác động trực tiếp đến người nghe, người đọc, vừa làm luận cứ cho những người khác.
Về áp lực tâm lý. Tôi
không phải nhà kinh doanh nên không dám nói đã hiểu hết những áp lực mà nhà
kinh doanh phải chịu, đặc biệt là đối với những nhà kinh doanh lớn, trong phạm
vi rộng như ông Bạt. Trường hợp ông Bạt chịu áp lực tâm lý mà buộc lòng phải ca
ngợi Mác thì vừa đáng trách, vừa đáng thương. Chắc ông nghĩ rằng công việc tư vấn
của công ty ông đang làm mang lại nhiều
lợi ích cho đất nước, muốn làm được trôi chảy phải không được có ý gì phê phán Mác
Từ chỗ không phê phán đến chỗ ca ngợi là khá
xa. Thấy điều sai trái, bạn có chống lại được hay không, chống lại đến mức nào
là tùy thuộc vào khả năng, hoàn cảnh của bạn. Nếu vì hoàn cảnh mà buộc phải chấp
nhận sự sai trái thì cũng đành chấp nhận một cách vui vẻ, im lặng, nhưng đừng
ca ngợi. Ca ngợi một điều
mà minh đang nghi ngờ là thiếu trung thực
5- Lời cuối
Nhân chuyện ông Bạt tôi
cứ lan man nghĩ về nghề tư vấn. Trong xã hội VN trước đây, ở đâu cũng có một số
người làm tư vấn và môi giới về hôn nhân, gọi là Làm Mai (mai mối), một mặt họ
được xem như Nguyệt Lão xe tơ hồng, mặt khác bị liệt vảo 1 trong 4 thứ ngu (Thế
gian có 4 thứ ngu. Làm Mai, gánh nợ, bẫy cu, cầm chầu). Rồi khi các dịch cụ
công và tư phát triển thì sinh ra lắm loại “cò” khắp các nơi, trong mọi lĩnh vực.
Cò là dạng tư vấn cấp thấp, bình dân, sống nhờ vào việc khai thác thông tin và
quan hệ, nhờ chủ yếu vào khách hàng không nắm được thông tin chính xác, hoặc muốn
nhanh chóng. Công ty tư vấn xuyên quốc gia cũng hoạt động dựa vào khai thác
thông tin và quan hệ. Khách hàng càng sộp và càng ngu dốt thì tư vấn càng kiếm
được nhiều lợi lộc. Mà theo Brzezinski thì lãnh đạo cộng sản có nhược điểm lớn
là kém trí tuệ. Hỏi những ai đã tư vấn cho CSVN
làm các dự án thiệt hại nhiều
trăm ngàn tỷ, gây nên hủy hoại môi trường, phá nát đất nước.
Ông Bạt là ngôi sao
sáng trong hoạt động tư vấn, nhưng ông thu hút được nhiều người hâm mộ chủ yếu
là nhờ con người học giả. Ở VN cũng có một vài học giả, về tri thức ngang tầm
hoặc trên tầm ông Bạt, nhưng tiếng nói của ông Bạt hơn hẳn họ vì ông có sự
thành đạt về kinh tế bảo lãnh. Miệng người sang có gang có thép.
Tôi là một người hâm mộ
ông Bạt, xin có vài lời tâm sự với các bạn hâm mộ khác. Trong các bài nói hoặc
viết của ông Bạt mà nhiều người thấy “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”
thì cũng đã có những phản biện, vạch ra sự nguy hiểm cho tiến bộ xã hội. Vậy
khi đọc, khi nghe ông Bạt chúng ta nên để ý, xem xét, đối chiếu để chỉ tiếp thu
những điều hay và ngăn ngừa được những độc hại lẫn vào.Xin chớ vội cho rằng ông
Bạt nói, viết cái gì cũng đúng, cũng hay. Xin hãy suy nghĩ và phân tích bằng đầu
óc của mình. Tiêu chuẩn của chân lý là thực tế.
IV - Phản biện về đại học tại chức
(THƯ NGỎ GỬI BỘ TRƯỞNG BỘ GIÁO DỤC)
( đăng mạng Vietnamnet
ngày 16-7 -2007 )
Kính
thưa Bộ trưởng
Chủ
trương, quy chế đào tạo đại học tại chức nhìn chung là đúng đắn. Mấy chục năm
qua việc đào tạo tại chức đã cung cấp một số lớn cán bộ có trình độ, giải quyết
được tình trạng thiếu người làm việc ở các địa phương. Thành tích là to lớn.
Nhung gần đây việc đào tạo tại chức đã quá bị lạm dụng, mở rộng quá mức so với
khả năng của người học, người dạy và cơ quan quản lý, làm cho chất lýợng tụt dốc
thê thảm. Bức tranh ðại học tại chức ðã quá đen tối, tình hình đã quá mức phải
báo động. Qua khảo sát sơ bộ thấy rằng tiêu cực có mặt ở khắp mọi hoạt động,
tôi chỉ xin phản ảnh một số nét về tuyển sinh, giảng dạy và đánh giá.
Về tuyển sinh
: Tuy cũng có những đợt ôn tập, những kỳ thi tuyển, cũng có điểm sàn xét tuyển
nhưng phần lớn chỉ làm cho có hình thức, đối phó. Sự gian dối là khá phổ biến.
Phần lớn người được tuyển không đúng đối tượng, có động cơ học tập lệch lạc. Đa
số sinh viên có trình độ quá thấp, bị hổng rất nhiều kiến thức phổ thông, do đó
không tiếp thu được các kiến thức đại học. Họ cũng học, cũng thi, cũng đạt điểm
trên trung bình và được xét lên lớp, được cấp bằng, thế nhưng học mà không hiểu,
thi được chủ yếu nhờ mưu mẹo, thi xong rồi thì quên gần hết các kiến thức, còn
kỹ năng gần như chẳng có gì.
Tôi dạy một số môn chuyên ngành năm thứ ba
và thứ tư ngành kỹ thuật (thi tuyển khối A). Trước khi dạy tôi thường kiểm tra
trình độ sinh viên về một số vấn đề rất dễ, rất cơ bản của kiến thức các năm
trước có liên quan tới môn sẽ học, thế mà hơn 80 % sinh viên không làm được
bài. Gần đây tôi kiểm tra thêm về toán rất dễ ở phổ thông như cộng, trừ phân số, tính diện tích hình
thang…thì trên 30 % không làm được.
Khi giảng bài, tôi đã cố gắng giảng thật cụ
thể, giảng đi giảng lại những vấn đề chủ yếu, tìm cách đơn giản hóa các vấn đề
phức tạp với mong mỏi sinh viên nắm được kiến thức cơ bản. Sau mỗi vấn đề tôi
thường hỏi sinh viên đã hiểu chưa, nắm được chưa, nếu có chỗ nào chưa rõ tôi sẽ
trình bày lại. Phần lớn những lần như vậy tôi chỉ nhận được sự im lặng đáng buồn.
Một số sinh viên cho phương pháp dạy của tôi là quá tuyệt vời nhưng không ít lại
thờ ơ. Tôi cứ tưởng mình đã hết lòng giảng dạy như vậy thì thu nhận của sinh
viên đạt khá cao nhưng qua kiểm tra mới thấy nhiều người chẳng tiếp thu được gì
cả. Trong hoàn cảnh như vậy việc hướng dẫn cho sinh viên phương pháp học tập và làm cho họ học cách suy nghĩ thật là
khó khăn. Khi kiểm tra và thi nếu bài ra không giống 100% bài mẫu đã được luyện
tập trước thì đa số sinh viên không làm được bài, họ chỉ biết máy móc làm theo
bài mẫu.
Trao đổi với nhiều thầy giáo ở trong và
ngoài trường tôi được biết tình trạng như trên là phổ biến trong toàn quốc.
Theo qui định mỗi năm sinh viên thường được
tập trung học vào hai kỳ, mỗi kỳ khoảng hai, ba tháng. Trong thời gian đó đáng
ra sinh viên được nghỉ hoặc giảm bớt việc làm để tập trung cho việc học, thế
nhưng số sinh viên được nghỉ như vậy là quá ít, phần lớn vẫn phải làm việc bình
thường. Có những lớp còn phải làm việc toàn bộ ban ngày, chỉ tranh thủ học vài
giờ vào buổi tối trong các đợt tập trung
ngắn ngủi. Trình độ đã yếu kém lại không bảo đảm được thời gian và điều kiện
thì làm sao học cho có kết quả.
Về
dạy và học: Cách tổ chức dạy học là theo lối “cuốn chiếu”. Đó
là mỗi môn được dạy trong một số ngày liên tiếp, xong môn này mới chuyển sang
môn khác.Theo kế hoạch và thời khóa biểu mỗi ngày chỉ học khoảng 5 tiết nhưng
có những môn được dạy cấp tập từ 8 đến 12 tiết. Thầy phải dạy thật nhanh cho
xong để còn đi dạy nơi khác hoặc làm việc khác có thu nhập cao hơn. Cách tổ chức
dạy như thế có thuận lợi cho người quản lý và người dạy nhưng hiệu quả rất kém. Tôi gọi đó là
dạy học “kiểu mưa rào”, mưa rất to nhưng trôi tuột hết. Vài ba ngày cho một
môn, bảy, tám môn cho mỗi đợt, sinh viên chỉ biết cắm cúi ghi chép mà không hiểu
bài. Đúng là kiểu dạy cho qua chuyện, học cho qua chuyện.
Có lập luận cho rằng trong thời gian tập
trung sinh viên chỉ cần tiếp nhận kế hoạch,chương trình học tập, nhận tài liệu
và được hướng dẫn các phần cơ bản còn việc học và làm bài tập được thực hiện
trong cả năm. Phần lớn đó chỉ là lý thuyết suông.Thực tế sinh viên không có đủ
trình độ và điều kiện để theo cách học đó.
Tôi đã nghĩ ra và áp dụng một số biện pháp
nhằm khắc phục nhược điểm của kiểu dạy học mưa rào, có viết báo và tìm cách phổ
biến nhưng xem ra rất ít thầy cô muốn vận dụng.
Trao đổi với nhiều giảng viên về cách dạy
tại chức đa số cho rằng họ chỉ cố gắng trình bày cho xong nội dung môn học theo đề cương mà rất ít người quan tâm đến trình độ của
sinh viên và kết quả thu nhận. Cách dạy
học như vậy thật phản sư phạm và nguy hiểm.
Về
đánh giá: Có nhiều môn học sau vài ba ngày học cấp tập, sinh
viên chưa kịp hiểu, chưa kịp ôn tập đã được thi luôn. Thế mà kết quả điểm số
khá cao. Có lẽ do cả thầy và trò đã dùng một số mẹo nào đó.
Cũng có những môn học được tổ chức ôn tập
và thi khá nghiêm túc nhưng phần lớn chỉ nghiêm được ở lần thi thứ nhất, thường
lần thi này đạt kết quả khá thấp. Lần thi thứ hai thường thường thầy gửi đề cho
các cơ sở tự tổ chức thi, sự lỏng lẻo và gian lận xẩy ra phổ biến ở kỳ thi này
vả đa số người thi đều qua được. Điểm thi đạt trên trung bình, xem như đã hoàn
thành môn học nhưng kiến thức còn lại chẳng có gì đáng kể.
Gần
như tất cả các giảng viên dạy tại
chức đều biết rõ hiện trạng trên nhưng đa số đều chấp nhận với câu an ủi “gặp
thời thế,thế thời phải thế”. Cũng có một ít thầy cô tỏ ra bức xúc, đã tự mình
tìm cách bảo đảm chất lượng giảng dạy môn học và góp ý kiến với các cơ sở quản
lý đào tạo. Thế nhưng việc làm của họ chỉ như ném hạt cát xuống ao bèo. Khi tôi
trao đổi với nhiều thầy cô về tình hình tại chức, họ thường khuyên “xin đừng
vác gậy chống trời sập”.
Đại học tại chức hàng năm đã cung cấp nhiều
người có bằng cử nhân, kỹ sư, trong đó chỉ
có một số ít có năng lực còn đa số chỉ có bằng là thật còn kiến thức rởm.
Tình hình như vậy có hai điều nguy hiểm, cần
báo động.
Thứ
nhất
là sự băng hoại đạo đức và đạo lý giáo dục, là khuyến khích gian lận và thói vô
trách nhiệm, là thầy trò lừa dối lẫn nhau và cùng đơn vị quản lý lừa dối nhân
dân. Càng lừa dối được nhiều thành tích càng lớn. Thứ hai là sự lảng phí
quá lớn của xã hội. Một số khá đông người quản lý, người dạy, người học bỏ ra
nhiều công sức, thời gian và tiền của để dạy và học nhưng kết quả chẳng có được
là bao, hiệu quả của công việc là rất thấp.
Có lập luận cho rằng dù sao đại học tại chức cũng giải quyết
được các vấn đề nâng cao dân trí và thỏa mãn được nhu cầu đại học của số
đông.Theo tôi đó là những lập luận không đúng với thực tế. Học mà không hiểu,
không nhớ thì nâng cao dân trí ở chỗ nào? Còn nhu cầu, cũng nên đánh giá bao
nhiêu phần trăm là nhu cầu giả tạo. Và nếu có đáp ứng nhu cầu thì cũng cần dạy
và học cho tử tế chứ không phải bằng cách gian lận.
Kính
thưa Bộ trưởng
Trên đây chỉ là vài nét chấm phá về bức
tranh ảm đạm của đại học tại chức. Thực tế còn nhiều bất cập về chính sách và
quản lý, còn nhiều hành vi tiêu cực tồi tệ mà không thể kể hết ra đây. Kính
mong Bộ trưởng quan tâm đến tình hình, tổ chức khảo sát và đánh giá thật khách
quan việc đào tạo tại chức, có biện pháp chấn chỉnh kịp thời.
Về phần tôi, nếu được Bộ trưởng hỏi đến,
tôi xin cung cấp thêm thông tin, đóng
góp các suy nghĩ và biện pháp nhằm chấn hưng nền giáo dục nước nhà.
Xin gửi Bộ trưởng lời chào kính trọng và
tin cậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét