Đôi điều về
tác giả
Nguyễn Đình Cống, sinh
ngày 12 tháng 12 năm 1937
Quê quán: Phường Quang
Phong, TX Ba Đồn, Quảng Bình
1944-1953-Học phổ thông cơ
sở ở Quảng Bình
1954-1956-Học PT trung học
ở Tr. Phan Đình Phùng- Hà Tĩnh
1956-
1960-Học Tr. ĐH Bách khoa- Hà Nội, được giữ lại làm cán bộ giảng dạy tập sự.
1969-1972-Nghiên
cứu sinh ở Liên xô, làm luân án tiến sĩ
Từ
1972 trở về sau-Công tác ỏ Tr ĐH Xây dựng Hà Nội
Năm
1980- Thực tập sinh khoa học tại Pháp
1986
– 1989- Chuyên gia giáo dục tại châu Phi
1992-
1997- Chủ nhiệm khoa XD, Tr ĐH XD
1998
trở đi- nghỉ hưu
Năm
2013-Nhận giải thưởng KOVA do Phó chủ tịc nước Nguyễn Thị Doan trao về công
trình NCKH được ứng dụng tốt
Năm
2020-Nhận giải thưởng của Hội nhà văn vì có tác phẩm dự hai cuộc thi kỷ niệm
200 năm ngày mất của Thi hào Nguyễn Du.
Trong
thời gian 1992- 2017- làm trọng tài viên TT Trọng tài quốc tế VN
Cùng một tác giả
Ngoài
15 cuốn giáo trình và tài liệu để giáng
dạy cho sinh viên và để cho kỹ sư thiết kế
tham khảo, còn là tác giả các sách sau:
PP
luận NCKH và sáng tao- NXB Khoa học kỹ thuật
Cùng
học làm người- NXB TrI thức, NXB Sống Mới
Cùng
học để giáo dục con tre- NXB ĐH Kinh tế quốc
dân, NXB H.ĐỨC
Giải
câu đố để nâng cao trí tuệ- NXB Hội nhà văn, NXB Sống Mới
Vui
buồn cuộc sống (hồi ký) NXB Tự lập
Suy
nghĩ, nhận thức và công việc (hồi ky) NXB Tự lập
Báo ứng(truyện
viễn tưởng)- NXB Tự lập
Địa
chỉ liên hệ: ndcong37@gmail.com Số ĐT 0389 578 620
Lời nói đầu
A-
Vài điều cơ bản
I-
TƯ DUY PHẢN BIỆN
1.1-
Nhận thức và tư duy
1.2-
Các cấp độ tư duy
1.3-
Tư duy phản biện
1.4-
Ý nghĩa của việc phản biện
II-
PHƯƠNG PHÁP SUY LUẬN
2.1-
Đại cương về Logic
2.2-
Khái niệm
2.3-
Phán đoán và suy luận
2.4-
Quy luật cơ bản của Logic
2.5-
Suy luận diễn dịch
2,6-
Suy luận quy nạp
2.7-
Những sai lầm
2.8-
Ngụy biện
III-CẦN HỌC VÀ LÀMNHỮNG Gì
3.1-
Khả năng phản biện
3.2-
Những điều cần học
3.3-
Làm phản biện
3.4- Viết bài phản biện
3.5- Học nói để phản biện trực
tiếp
3.6- Phát hiện và phản bác ngụy biện
3.7-
Năng khiếu và đạo đức của người làm phản biện
3.8-Tiếp nhận phản biện
B-Một số bài phản
biện làm thí dụ
Lời
phi lộ
1-Phản
biện Bài của Báo Thanh niên
2-Phản
biện vài thành ngữ và câu nói nổi tiếng
3-Phản biện sách
“Sức mạnh của cái đúng”
4-Phản
biện về đại học tại chức
5-Phản
biện về đào tạo tiến sĩ
6-Phản
biện về đổi mới giáo dục
7-Phản biện về dạy thêm học
thêm
8-Phản biện về
làm và thi hành luật
9-Phản biện về
lương hưu
10-Phản biện ý kiến ông Phú
11- Phản biện ý kiến ông Vượng
12-Phản biện việc học tập tư
tưởng và đạo đức
13-Phản biện phong trào thi
đua
14- Phản biện cách tổ chức học
lý luận chính trị
15-Phản biện ý kiến cựu Chủ
tịch nước
16- Phản biện những điều cấm
17-Phản biện những phát biểu
về quan hệ với TQ
18- Những ngụy biện trong
bài báo của HTQ
19-Ngụy biện về thép và cá
20- Phản biện lại ý kiến về
“Những lời trăng trối”
21.Phản biện lần hai về Quyết
định nêu gương
C-
Phụ lục 1- Các bài đọc thêm
1-Bài
diễn văn hay nhất
2-Xử
lý thông tin
3-Hiểu biết thêm về con người
4-Học suy nghĩ
5-Năm mức độ cảm thụ văn
chương
6- Nhận xét, góp ý, đánh giá
7-
Quát mắng để giác ngộ kẻ định giết mình
8-Thuyết
phục người canh giữ
9-Phản
biện trong sách Tam Quốc
10-Phản biện của người chăn trâu
11-Vài bài phản biện của Phan Khôi
D-Phụ lục 2. Một số phản biện
về chính trị
1-Hãy thôi ngụy biện xảo trá
2-Phản biện đường lối cán bộ
3- Phản biện học thuyet của
Mác
4- Phản biện quan điểm cua
Lênin
5- Phản biện Tuyên ngôn cộng sản
Lời nói đầu
Phản biện là một hoạt động
cần thiết trong xã hội.
Để đánh giá các luận văn, luận án, công trình
khoa học cần có phản biện. Những chủ trương, chính sách, luật pháp khi được phản
biện đầy đủ sẽ tăng mức độ chính xác
và hiệu quả. Cao hơn là phản biện các lý thuyết khoa học, các học thuyết chính
trị.
Không chỉ những việc
quan trọng, những vấn đề về khoa học, những ý kiến bất đồng cần phản biện mà
nhiều thông tin hàng ngày cũng rất cần phản biện để loại bỏ tin giả, bịa đặt, để
ngăn ngừa và xử lý sự dối trá, lừa bịp, để sửa đổi những nhận thức đã lạc hậu, để loại bỏ những giáo điều đã lỗi
thời.
Trong cuộc sống thường ngày, giữa những
người thân, bạn bè, đồng nghiệp, giữa cấp trên và cấp dưới không phải bao giờ
các ý kiến, các quan điểm đều được thống nhất. Lúc này nếu biết cách phản biện
thì có thể tìm được tiếng nói chung, còn không thì dễ phát sinh cãi cọ, mâu thuẩn
Phản biện về khoa học,
về các vấn đề chính trị, xã hội là việc khó, cần trình độ chuyên môn, biết
phương pháp, là nhiệm vụ của các trí thức có trách nhiệm. Phản biện những thông
tin hàng ngày thì nhiều người làm được với điều kiện dám suy nghĩ độc lập. Không phải chỉ
những người có tri thức cao biết làm phản biện mà những người ít học, ngay cả
trẻ con đều có thể và cần làm phản biện.
Trong những nền giáo dục
khai phóng trẻ em đã được học và thực hành phản biện. Lớn lên các em trở thành
những con người năng động, sáng tạo.
Ngược lại trong nền
giáo dục áp đặt, dù ở gia đình hay nhà trường, trẻ bị ngăn cấm phản biện người
bề trên, chúng lớn lên thành những người chỉ biết vâng lời, chỉ biết thừa hành
máy móc. Tuy vậy, một số em nhờ có những hạt giống tích cực bẩm sinh mà vượt qua được sự áp
đặt, trở thành những trẻ tự chủ, có tính năng động, biết phản biện và sáng tạo.
Những em đó một thời
bị mang tiếng ngang bướng, bất trị, cá biệt, một số bị vùi dập, nhưng rồi có
nhiều em sẽ trưởng thành, làm được những kỳ công.
Phản biện cũng giống
như nhiều phẩm chất khác, được hình thành và phát triển từ hai nguồn: Tiên
thiên và hậu thiên. Tiên thiên là phần có trước khi sinh ra nhờ di truyền và
bào thai hấp thụ được tinh hoa của trời đất. Hậu thiên là phần có sau do học tập,
được giáo dục, rút kinh nghiệm
trong suốt cuộc đời.
Tài liệu này chủ yếu
trình bày những vấn để liên quan đến hậu thiên.
Thời quân chủ, vua nói gì mọi người phải nghe, nói
ngược lại là phạm tội khi quân, bị giết. Tuy vậy ở nhiều triều đại vẫn có chức
gián quan để phản biện việc làm sai trái của vua. Là minh quân vua sẽ lắng
nghe, còn không phải minh quân thì những lời phản biện chỉ được lưu giữ trong sử
sách. Đó là trường hợp của Chu Văn An, của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Đầu thế kỷ 20 ở Việt
Nam xuất hiện nhà phản biện nổi
tiếng
Phan Khôi (1887-1959). Ông đã viết nhiều bài phê phán các quan điểm và công việc
của Triều đình, của nhà nước bảo hộ, của Nho giáo, của truyền thống và phong tục,
của một số cá nhân. (Lại Nguyên Ân là nhà văn có nhiều sưu tập về ông).
Bút chiến là một dạng
phản biện qua lại. Từ năm 1935 đến 1939 ở Việt nam đã có cuộc bút chiến giữa phái “Nghệ thuật vị nghệ thuật” do Hoài Thanh
làm chủ soái và phái “Nghệ thuật vị nhân sinh” do Hải Triều dẫn dắt.
Trong văn học có hoạt động
phê bình, một dạng của phản biện. Gần đây những phản biện của Hoàng Tuấn Công về
các sai sót, nhầm lẫn trong một số Từ
điển gây được nhiều chú ý.
Về dạy học. Đã có một số lớp dạy lý thuyết và thực
hành phản biện do vài cơ sở đào tạo thực hiện bằng các lớp trực tiếp hoặc trình
bày các bài giảng trên mạng internet.
Về tài liệu, đã có nhièu cuốn sách của tác giả nước
ngoài được dich và xuất bản.Cũng đã có sách của tác giả trong nước (*). Viết
sách này tôi chỉ mong góp một vài ý kiến nhằm làm phong phú thêm hiểu biết về
phản biện.
Mong ước của tác giả là
góp phần nâng cao sự hiểu biết và thực hành phản biện cho những người quan tâm
mà chưa có được sự thành thạo cần thiết.
Tuy đã có nhiều cố gắng
nhưng chắc rằng khó tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận được sự phê bình, góp ý
của các bậc thức giả và của bạn đọc. Ý kiến xin gửi vào Email :
ndcong37@gmail.com
(*)-Ghi chú. Xin kể một số
tên tác giả và tên sách có liên quan:
Đỗ Thị Diệu Ngọc và Nguyễn
Huy Cường-Tư duy biện luận
Triệu Truyền Đống- Phương
pháp biện luận và thuật hùng biện
Albert Rutherford—Rèn luyện
tư duy phản biện
Konagawa Akinori- Tư duy phản
biện của người Nhật
Shibamoto Hidenori- Kỹ năng
tư duy logic
Rold Robelli- Nghệ thuật tư
duy rành mạch
Richard Paul- Cẩm nang tư
duy phản biện
Zoe Mickey- Tư duy phản biện
Nguyễ Phi Vân(là một diễn giả
về tư duy phản biện)
A. VÀI ĐIỀU CƠ
BẢN
I .Tư duy phản
biện
1.1-NHẬN THỨC VÀ TƯ DUY
Con
người được tạo nên bởi sự kết hợp của phần hữu hình và vô hình. Phần hữu hình
là từ các nguyên tử, phân tử vật chất, cấu tạo nên các tế bào, từ đó hình thành
các bộ phận của cơ thể. Phần vô hình bao gồm các tầng hào quang, hệ thống các
luân xa cùng những tư tưởng, tình cảm, kiến thức. Quan trọng nhất của phần vô hình là Tâm
thức được hợp từ hai nguồn là ý thức và tiềm thức.
Ý
thức liên quan đến hoạt động của bộ não. Tiềm thức gồm những thông tin chứa
trong một trung tâm, Duy Thức Luận của Phật giáo gọi trung tâm đó
là Tàng Thức, tiếng Phạn là A Lại Da Thức.
Ý
thức được hình thành trong não do sự tiếp nhận thông tin từ các giác quan và từ
hoạt động của não.
Thông
tin trong tiềm thức có từ ba nguồn. Thứ nhất là từ tiên thiên. Thứ hai là các tầng
hào quang tiếp nhận sóng tâm linh. Thứ ba là thông tin từ bộ não tự động truyền
vào Tàng thức. Bình thường bộ não không biết được thông tin và sự hoạt động của
tiềm thức.
Nếu
cho rằng nhận thức là những điều người ta biết được, hiểu được, suy nghĩ về nó
thì nhận thức chỉ bao gồm một phần của Tâm thức.
Suy
nghĩ (Tư duy) là chức năng quan trọng của não. Việc học trong suốt cuộc đời một
phần là thu nhận kiến thức, nhưng chủ yếu là học cách suy nghĩ. Có kiến thức là
cần nhưng biết suy nghĩ đúng còn cần hơn, nó giúp tạo trí thông minh, tạo khẳ
năng ứng phó với mọi tác
động.
Sự nhận biết của người ta bao gồm cảm tính và lý tinh
Cảm
tính (hoặc cảm nhận) đến
từ tiềm thức, nó tạo nên cảm xúc, phản ảnh vào ý thức một cách tức thời. Khi
người ta bình tĩnh, thoải mái thì nhiều khi cảm nhận là đúng. Nhưng khi người
ta bị xúc động, mất bình tĩnh thì cảm nhận thường có lệch lạc.
Lý tính (hoặc lý trí) là hoạt động của não do phân
tích, so sánh để rút ra nhận xét, kết luận sau một quá trình suy nghĩ dài hoặc
ngắn. Kết luận rút ra từ lý tính phụ thuộc vào trình độ nhận thức, kinh nghiệm
và phương pháp suy luận, Nó có thể đúng khi có nhận thức và phương pháp phù hợp,
sai khi thiếu kiến thức, kém về phương pháp.
Trong
mọi trường hợp nên kết hợp
cảm tình với lý tinh, không nên chỉ dựa vào cảm tính
1.2-CÁC CẤP ĐỘ TƯ DUY
Người
ta suy nghĩ (tư duy)
khi gặp “Tình huống có vấn đề”.
Đó là khi cần làm rõ một sự vật, một thông tin nào đó, bằng
cách đặt và trả lới các câu hỏi: ai, cái gì, ở đâu, bao giờ, như thế nào, từ
đâu ra, tại sao như vậy,
đúng hay sai như thế nào, sẽ đi đến đâu, giải quyết thế nào v.v…
Tư
duy của con người có thể từ những thứ nhỏ nhặt, tầm thường như nghĩ về hạt bụi,
lá cây, giọt nước, đến việc làm ăn, học hành, sinh sống, quan hệ xã hội, cho đến
những việc quốc gia đại sự, việc của thế giới, của vũ trụ.
Tư
duy được phân loại theo một số cách. Theo đối tượng có tư duy ngôn ngữ và tư
duy hình ảnh. Theo hình thức có tư duy so sánh, tư duy phân tích, tư duy tổng hợp.
Tư
duy ngôn ngữ sử dụng các mệnh đề,
các câu để phán đoán, để suy luận. Đó là loại tư duy thông thường nhất. Tư duy
hình ảnh dựa vào khả
năng tưởng tượng, đó là hoạt động chủ yếu của các họa sĩ, các nhà thiết kế.
Theo
cấp độ tư duy có các mức từ thấp đến cao. Đó là tư duy kinh nghiệm, tư duy
logic, tư duy sáng tạo.
Tư
duy kinh nghiệm là những suy nghĩ, dựa vào kinh nghiệm và kiến thức phổ thông
tích lũy được từ cuộc sống.
Tư
duy logic dựa vào những kiến thức khoa học để suy luận. Tư duy phản biện là mức
cao của tư duy logic
Tư
duy sáng tạo là nghĩ ra được những điều mới lạ, chưa từng có.Tư duy đột phá là
đỉnh cao của tư duy sáng tạo.
1.3-
TƯ DUY PHẢN BIỆN
Tư duy phản biện (mà một số trường hợp dược gọi là tư
duy ngược) là những suy nghĩ để đánh giá một đối tượng được đưa ra để phân
tích, để phê phán xem nó đúng sai, hay dở ở những chỗ nào, như thế nào. Đối tượng
đó được gọi là đối tượng phản biện, đơn giản là một câu
nói, một ý kiến, một việc làm, trung bình là một bài luận, bài phát biểu, bài
báo, cao hơn một chút là một quyển sách, một tác phẩm khoa học, một nghị quyết
hoặc chủ trương đường lối nào đó, cao hơn nữa là các học thuyết về khoa học,
chính tri. Gọi chung lại là đối tượng
hoặc thông tin. Người đưa ra, công bố thông tin được gọi là chủ thể (hoặc tác giảcủa thông tin).
Tư duy phản biện được bắt đầu
bằng việc đặt và tự trả lời các câu hỏi, nólà một dạng tư duy tổng hợp, trên cơ
sơ phân tích, xem xét toàn bộ và kỹ càng mọi khía cạnh, mọi chi tiết của đối tượng
để tìm ra mọi ý tưởng trong đó, kể cả những ý tưởng mà chủ thể giấu kín. Tư duy
phản biện dựa trên sự suy nghĩ rõ ràng, sự lập luận chặt chẽ. Người có tư duy
phản biện biết độc lập suy nghĩ, dám nghi ngờ và lật ngược những câu nói, những
việc làm mà nhiều người khác đã mặc nhiên công nhận như những thói quen, những
truyền thống hoặc chân lý hiển nhiên, Người phản biện dám nghĩ ra những điều mới
lạ ngược với thói quen thông thường, đó là khởi đầu của sáng tạo.
Một số câu hỏi thường được đặt
ra là:
+Thông tin này, ý kiến này,
tư tưởng này có đúng hoàn toàn không, liệu có thể và cần nghi ngờ những điểm
nào? Ở đây có ẩn chứa ngụy biện nào không
+Thử lật ngược lại vấn đề
xem có đúng không.
+Nếu đem áp dụng các ý kiến
đó, tư tưởng đó vào thực tế thì có điều gì bất lợi có thể xảy ra.
+Trong việc trình bày, lập
luận có gì trái, vi phạm quy luật, quy tắc logic không.
Phản biện một đối tượng, một thôngtinlà dùng tư duy phản biện để xem xét đối tượng hoặc thông tin đó một cách kỹ càng, để xem nó đúng sai, hay dở như thế nào.
Tiêu chuẩn để xem xétlà việc đối chiếu với thực tế, vận dụng vào
thực tế. Tuy vậy thực tế diễn ra muôn hình ngàn vẻ. Phải lựa chọn những thực tế đã được
kiểm chứng. Với những thông tin tương đối phức tạp cần so sánh đối chiếu với những đối tượng
tương tự, phải vận dụng những chân lý phổ quát.
Để phản biện phải dựa vào tư duy lý tính, không thể vội vàng dựa
vào cảm tính.
Trong trường hợp chưa thể dùng thực tế để kiểm chứng
thì dùng các quy luật, quy tắc của logic để kiểm chứng, xemtrong quá trình đưa
ra kết luận có vi phạm các quy luật, quy tăc hay không, có sử dụng ngụy biện ở
chỗ nào không
Phản
biện cần chỉ ra chỗ đúng, chỗ hay của đối tượng, nhưng cần hơn là chỉ ra được
những thiếu sót, những bất đồng. Để làm việc này cần những chứng cứ rõ ràng, những
lập luận chính xác, chặt chẽ, có sức thuyết phục.
Chỉ ra chỗ bất đồng có nghĩa là nêu ý kiến
ngược lại. Nhưng nói ngược lại hoặc nói khác đi chưa phải là phản biện nếu chỉ
mới nêu ra nội dung. Phản biện là phải dựa trên lập luận và chứng cứ.
Nghi ngờ cũng chưa phải là phản biện. Nó chỉ
là bắt đầu để xem xét có cần phản biện hay không.
Phản biện thông tin A trong trường hợp vắng mặt chủ thể thì A
giữ nguyên nội dung
mà không có thay đổi gì kịp
thời.
Tranh
luận, đối thoại khi hai bên đối
diện nhau có thể có một phần là bên này phản biện bên kia, lúc này bên bị phản
biện có thể nhận ra thiếu sót hoặc nhầm lẫn của mình mà điều chỉnh nội dung để
đi đến thống nhất, chấp nhận nhau.
Cũng
không thể xem hiện tượng gàn, nói ngang, cãi chầy cãi cối là phản biện.
Sau
khi nhận được phản biện của B về thông tin A, chủ thế của nó có thể chấp nhận
hoặc phản bác từng phần hoặc toàn bộ. Đó là phản biện lại.
Vậy
người thứ ba, khi có thông tin về A và phản biện bất đồng của B thì chớ vội tin
vào bên nào cả. Đó là hai nguồn thông tin trái chiều. Người thứ ba có thể phản
biện lại thông tin do B đưa ra.
Một điều quan trọng là “tự phản biện”. Đó
là việc tự mình hoặc nhờ cậy sự giúp đỡ của người khác phản biện thông tin mà
mình sẽ công bố.
1.4-Ý NGHĨA CỦA VIỆC PHẢN BIỆN
Làm phản biện có hai ý
nghĩa lớn. Một là chỉ ra được chỗ đúng hoặc sai, hay hoặc dở của một thông tin
để cho mình và những người khác hiểu đúng hơn về thông tin đó. Từ chỗ phản biện
thông tin sẽ tiến đến có cách nhìn toàn diện hơn về chủ thể. Hai là qua việc
làm phản biện một cách nghiêm túc mình sẽ học hỏi thêm được những điều mà trước
đây chưa biết, nâng cao được nhận thức và trí tuệ, cũng là dịp để rèn luyện, củng
cố những đức tính tốt
trong xử thế và
nghiên cứu khoa học.
Phản biện thông tin,
nhưng không phải bất kỳ thông tin nào nhận được cũng cần phản biện. Có nhiều
thông tin chỉ nghe qua, xem qua cho biết mà không cần phản biện vì rằng ngoài mục
đích và ý nghĩa tốt
thi việc phản biện
còn làm cho ta tốn thời gian, đặc biệt là khi muốn phản biện những điều không
thuộc chuyên sâu của mình.
Các thể chế độc tài thường
chỉ thích nghe ca ngợi mà không hoặc ít thích nghe phản biện. Một xã hội mà
không có phản biện thường lâm vào cảnh trì trệ, thoái hóa.
II . Phương pháp suy luận
2.1- ĐẠI CƯƠNG VỀ LOGIC
Logic
học là khoa học về tư duy, bao gồm các hình thức tư duy (khái niệm, phán đoán,
suy luận) các quy luật và nguyên tắc của tư duy, các phương pháp tư duy chính
xác.
Những
nghiên cứu ban đầu về tư duy đã xuất hiện ở Ấn Độ cách nay trên 5 ngàn năm,
nhưng người đặt nền móng cho Logic học hiện đại là Aristote (384-322 trước CN), thời Hy Lạp cổ đại.
Logic
của Aristote và những thế hệ tiếp theo là logic hình thức (cổ điển). Hiện nay,
ngoài logic hình thức còn có những logic khác như logic biện chứng, logic toán,
logic triết, logic trò chơi, logic mờ. Sự phát triển của công nghệ thông tin, của
máy tính một phần nhờ vào thành tựu của logic học.
Logic
hình thức gần giống như Toán hoc, phải dựa vào các Tiên đề, mà tiên đề chỉ được
công nhận, không chứng mịnh, Với 5 tiên đề Euclid người ta đã xây dựng nên lâu
đài hình học đồ sộ. Tuy vậy Lobasepski đã sửa đổi tiên đề về đường thẳng song song để xây dựng
nên Hình học phi Euclid, có những ứng dụng để nghiên cứu Vũ trụ.
Trong
những tiên đề của logic hình thức (quy luật, quy tắc) có những tiên đề mà khi vận
dụng cho đời sống
thực tế cần cân nhắc, vì nếu vận dụng một cách máy móc sẽ không phù hợp. Thí dụ
quy luật cơ bản số 3
(luật triệt tam) nói rằng : “Một vật chỉ có 2 trạng thái (có hoặc không, đúng
hoặc sai) chứ không thể có trạng thái thứ ba”. Điều này nhiều lúc không áp dụng
được cho thực
tế vì nhiều việc trong đời
sống không phải chỉ có một trong hai trạng thái mà có thể có đồng thời hoặc có
các trạng thái trung gian khác. Đó là nguyên nhân làm xuất hiện Logic mờ.
2-2 KHÁI
NIỆM
2.2.1- Khái niệm là gì
Trong tiếng Việt từ “ khái niệm” được dùng
theo nghĩa thông thường và nghĩa khoa học. Nghĩa thông thường được ghép với chữ
“về” thành cụm từ “ khái niệm về”…, được
hiểu là nhận thức sơ bộ, sự hiểu chung chung, đại khái về đối tượng, sự vật được xem xét, thí dụ: Khái niệm về từ trường, Khái niệm về dòng điện v.v…Nghĩa
khoa học, là một thuật ngữ dùng trong logic học, để nhận thức. Mỗi môn khoa học
gồm một hệ thống các khái niệm. Thí dụ môn Hình học có các khái niệm: Điểm, đường thẳng, mặt phẳng, góc,
đường phân giác v.v…; môn Điện
học có các khái niệm: Điện
tích, dòng điện, điện thế, điện trở, điện dung v.v…; môn Sức bền vật liệu có các khái niệm vật
thể, liên kết, tải trọng, phản lực, nội
lực, ứng suất, biến dạng v.v…Mỗi môn khoa học, ngoài các khái niệm riêng rẽ thì
còn gồm các liên kết giữa các khái niệm để
tạo thành các định luật, định lý, công thức v.v…
Cần phân biệt đối tượng thực và khái niệm.
Đối tượng thực tồn tại khách quan còn khái niệm là thuộc nhận thức của chúng ta
về nó, khái niệm là cái ở trong đầu chúng ta.
Khái niệm là toàn bộ hiểu biết đã khái quát những dấu hiệu bản chất về một
đối tượng hoặc hiện tượng (sau khi đã gạt bỏ những thứ không cần thiết, thứ yếu
)
2.2.2 – Các bộ phận của
một khái niệm
Mỗi khái niệm gồm ba bộ phận: nội dung, tên gọi, định
nghĩa.
Nội dung khái niệm gồm hai phần: nội hàm và ngoại diên
Nội hàm gồm các dấu hiệu bản chất, phân biệt
khái niệm này với khái niệm khác.
Ngoại diên là các dạng thể hiện,
các hình thức tồn tại.
Thí dụ khái niệm dòng
điện: Nội
hàm là sự dịch chuyển
có định hướng của điện tích, ngoại diên gồm dòng một chiều, dòng
xoay chiều, dòng trong dây dẫn, dòng trong chất lỏng v.v…;Khái niệm hình tam giác: Nội hàm là hình gồm ba cạnh khép kín, ngoại diên gồm tam
giác thường, tam giác cân, tam giác đều, tam giác vuông; Khái niệm ứng suất: Nội hàm là nội lực tại một điểm, ngoại
diên gồm có ứng suất pháp, ứng suất tiếp, ứng suất chính, ứng suất phẳng, ứng
suất khối…
Tuỳ thuộc vào nội dung, một khái niệm có
thể là khái niệm cụ thể hoặc khái niệm trừu tượng.
Tên của khái niệm do người ta đặt ra để gọi,
để phân biệt các khái niệm với nhau. Tên gọi thường do một người nào đó đặt ra
đầu tiên (thường là người tìm ra khái niệm đó), mọi người dùng, lâu trở thành
quen. Một số tên gọi được dịch từ tiếng nước ngoài, khi dịch như vậy cũng tương
tự như đặt tên cho khái niệm theo ngôn ngữ khác. Khi đặt tên cho khái niệm người
ta có xu hướng tìm các từ để thể hiện bản
chất của nó hoặc có một ý nghĩa nào đấy. Tuy vậy cũng thường gặp một số tên gọi
mà ban đầu chưa có ý nghĩa gì rõ ràng nhưng dùng mãi thành quen, trong số này
có nhiều tên nước ngoài được phiên âm ( ôxy, parabôn, laptôp…).
Định nghĩa dùng để hiểu đúng khái niệm. Mỗi
khái niệm cần được định nghĩa rõ ràng, chính xác, ngắn gọn. Có một số cách định
nghĩa khác nhau tuỳ thuộc loại khái niệm.
Thường thì người ta dựa vào nội hàm, kể ra các
dấu hiệu bản chất và đặc trưng của đối tượng đến mức cần và đủ. Thí dụ, định
nghĩa dòng điện là sự chuyển động định hướng của điện tích, tam giác là hình có ba cạnh khép kín v.v…
Một cách định nghĩa hay được dùng là theo lối
dây chuyền. Đầu tiên định nghĩa A, dựa vào A để định nghĩa B, dựa vào B định
nghĩa C…, trong đó cái được định nghĩa gọi là “ giống”, cái được dựa vào gọi là
“ loài”. Như vậy là thông qua loài để định nghĩa giống.
Thí dụ đã có định nghĩa hình đa giác (hình phẳng có nhiều cạnh khép kín) , định
nghĩa hình tứ giác là đa giác có bốn cạnh, định nghĩa hình thoi là tứ giác có
các cạnh bằng nhau, hình bình hành là tứ giác có các cạnh song song, hình chữ
nhật là hình bình hành có các góc vuông… Định nghĩa được dựa vào loài và chỉ ra
đặc điểm của giống. Cách định nghĩa như vậy giống với cách chứng minh các định
lý trong hình học, trong đó có những điều được công nhận ngay từ đầu mà không
chứng minh các tiên đề). Cũng tương tự, có thể gặp một số khái niệm đầu tiên rất
khó định nghĩa cho thật chính xác, người ta chỉ có thể đưa ra một số dấu hiệu
và công nhận như một “ tiên đề” để từ đó định nghĩa các khái niệm khác.
Một số khái niệm có thể định nghĩa theo
cách phát sinh, thí dụ:
Hình
tròn là hình phẳng tạo bởi một điểm chuyển động cách đều một tâm cho trước.
Còn có một vài cách định nghĩa khác nữa và
mỗi khái niệm có thể được định nghĩa theo một số cách khác nhau, nhưng dù theo
cách nào thì định nghĩa cũng phải rõ ràng, cân đối, không được dùng cách phủ định
và không được vòng quanh (là dùng A để định nghĩa B và dùng B để định nghĩa A).
Thí dụ có thể định nghĩa hình vuông theo các cách sau : 1- Là hình tứ giác có
các cạnh bằng nhau và các góc bằng nhau. 2- Là hình chữ nhật có các cạnh bằng
nhau. 3- Là hình thoi có các góc vuông.
Các định nghĩa của khái niệm thường được
cho trong các từ điển giải nghĩa, tuy vậy phải là từ điển chuyên ngành mới cho
được định nghĩa tương đối chính xác, đầy đủ còn trong các từ điển phổ thông,
khi giải thich các thuật ngữ chuyên sâu thường chỉ cho định nghĩa sơ lược. Định nghĩa các khái
niệm có chuyên môn sâu thường được cho trong các tài liệu chuyên ngành.
2.2.3- Các cách tiếp cận
với khái niệm
Có hai cách: cách của người nghiên cứu phát
hiện ra và cách của người kế tục hoặc học tập.
Người phát hiện, trước hết là tìm ra bản
chất, nội dung của khái niệm, họ mô tả, đặt tên rồi đưa ra định nghĩa và trình
bày cách dùng. Ban đầu định nghĩa có thể chưa được hoàn thiện, về sau sẽ được
chính xác hoá dần dần.
Người kế tục hoặc học tập trước hết gặp
tên khái niệm, tìm hiểu định nghĩa rồi mới nắm được nội dung.
Tên các khái niệm thường là khác nhau
trong các ngôn ngữ. Thí dụ tiếng Việt là
“cái bàn”, tiếng Anh là “table”, tiếng Nga là “xtôl” . Tuy vậy khi nghe
bằng ngôn ngữ nào trong đầu người nghe cũng hình thành một khái niệm giống nhau
(miễn là hiểu được ngôn ngữ ấy).
Về tên gọi, có thể gặp một khái niệm
nhưng có các tên gọi khác nhau trong cùng một ngôn ngữ. Việc này thường là do
các người khác nhau dịch một thuật ngữ nước ngoài thành các từ hoặc cụm từ khác
nhau, cũng có thể do các nhóm người khác nhau dùng các từ theo thói quen và
chưa thống nhất được. Thí dụ cũng đồ vật ấy người vùng này gọi là cái bát, người
vùng khác gọi là cái chén, cũng con vật
ấy người này
gọi là cào cào, người kia
gọi
là châu chấu.
Cũng thường gặp các khái niệm khác nhau nhưng
có tên gọi gần giống nhau hoặc giống nhau, đó là hiện tượng đồng âm trong ngôn
ngữ. Để tránh việc dùng nhầm khái niệm (hoặc tên) cần phải có định nghĩa và thống nhất thuật ngữ khi bắt đầu
công việc nghiên cứu hoặc thảo luận.
2.2.4- Thao tác trên
khái niệm
Một khái niệm có thể được phân chia (thu hẹp)
hoặc mở rộng. Các khái niệm được
liên kết vơi nhau thành phán đoán. Đó là một số thao tác
trên khái niệm.
Phân chia là đem một khái niệm có ngoại
diên rộng (gọi là loài) phân thành một số khái niệm có ngoại diên hẹp hơn (gọi
là giống) trên cùng một dấu hiệu bản chất. Thí dụ loài động vật có xương sống
được phân thành các giống bò sát, ếch nhái, cá, chim, có vú v.v..
Mở rộng khái niệm là thao tác ngược lại với
phân chia. Các khái niệm có cùng bản chất được mở rộng đến mức tối đa sẽ thành
“phạm trù”. Thuật ngữ phạm trù được dùng trong môn Lôgic học hình thức, trong
các giáo trình thông thường ít dùng. Phạm trù được xác định nhờ thao tác mở rộng
khái niệm đến mức tối đa. Thí dụ mở rộng các khái niệm nội lực, ngoại lực,
mômen , tải trọng…đến mức tối đa sẽ có phạm trù “lực”, các đường parabôn,
hyperbôn, tròn, enlip, hình sin…đều thuộc phạm trù “đường cong”. Phạm trù là tập hợp các sự vật có cùng bản chất.
Mỗi môn khoa học được xây dựng nên từ hệ thống các khái niệm và các phạm trù.
2.3- PHÁN ĐOÁN VÀ SUY
LUẬN
2.3.1- Phán đoán
Phán đoán là mệnh đề liên kết các khái niệm.
Dạng cơ bản gồm hai khái niệm, một đóng vai trò chủ từ (hoặc chủ ngữ) ký hiệu
S, khái niệm khác đóng vai trò vị từ (hoặc
vị ngữ), ký hiệu P. Có những dạng phán đoán cơ bản như sau :
Tất cả S là P- phán
đoán khẳng định toàn bộ, ký hiệu bằng chữ A.
Một số S là P- phán đoán khẳng định bộ phận,
ký hiệu I.
Mọi S không là P- phán
đoán phủ định toàn bộ, ký hiệu E.
Một số S không là P-
phán đoán phủ định bộ phận, ký hiệu O.
S có thể là P, không thể
là P- phán đoán nghi ngờ.
Phán đoán do người
nghiên cứu đưa ra, có dạng trực tiếp và gián tiếp.
Phán đoán trực tiếp dựa
trên việc thu nhận thông tin từ các sự vật tồn tại ngoài ý thức. Thường là do
quan sát sự vật, hiện tượng rồi rút ra. Tùy theo trình độ và ý thức của chủ thế
mà phán đoán có thể là đúng (chân
thật) hoặc sai (giả dối).
Phán đoán gián tiếp là
kết quả được rút ra từ suy luận.
2.3.2- Suy luận
Suy luận là thao tác logic để từ một hoặc một vài phán
đoán đã được công nhận làm luận cứ để suy ra một kết luận (là một phán đoán mới).
Mỗi suy luận gồm ba phần: Luận cứ, Luận chứng và Luận đề.
Luận cứ là những chứng
cứ, những phán đoán được dựa vào để suy luận, chúng đóng vai trò Tiên đề.
Luận chứng là cách lập
luận,
cách chứng minh, là việc vận dụng các quy luật, quy tắc của logic để suy luận.
Luận đề (hoặc Kết đề) là kết luận được rút ra
từ suy luận. Nó có thể được công nhận khi toàn bộ quá trình suy luận là đúng,
chặt chẽ, nó bị bác bỏ khi trong quá trình suy luận phạm phải sai lầm (trong luận
cứ, trong luận chứng hoặc cả hai).
Suy luận có hai phương
pháp chính là Quy nạp và Diễn dịch.
2.4 – QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA
LOGIC
Lôgic hình thức có bốn
quy luật cơ bản, được trình bày tóm tắt như sau :
1-Quy luật đồng nhất :
Mọi vật phải đồng nhất với chính nó.
Vật ở đây là khái niệm,
phán đoán hoặc suy luận. Trong quá trình lập luận thì một vật phải được dùng
theo cùng một nghĩa, không được thay đổi, lẫn lộn, đánh tráo.
Một cách diễn tả khác:
Mọi tư tưởng phản ảnh cùng một đối tượng, trong cùng một quan hệ thì phải đồng
nhất với chính nó.
2- Quy luật cấm mâu thuẩn:
Một vật không thể vừa có vừa không có cùng một lúc.
Diễn tả khác : Một phán
đoán không thể vừa là chân thật vừa là giả dối. Hoặc: Hai phán đoán trái ngược
nhau không thể đồng thời là chân thực.
3- Quy luật bài trung (triệt tam): Một vật có hoặc không
có (phải hoặc không phải là…) chứ không có trường hợp thứ ba.
Diễn tả khác: Một phán
đoán chỉ có thể là chân thật hoặc giả dối chứ không thể có giá trị thứ ba nào
khác.
4- Quy luật lý do đầy đủ:
Tất cả những gì tồn tại đều có lý do để tồn tại.
Diễn tả khác: Một tư tưởng
được coi là chân thực khi có lý do đầy đủ làm căn cứ.
Các quy luật trên đây
dùng làm cơ sở cho việc suy luận. Trong các sách về logic đều gọi là quy luật,
nhưng chúng không giống như các quy luật trong Vật Lý (đúng hoàn toàn, không có
ngoại lệ) mà giống như Hệ Tiên đề trong toán học.
Ngoài bốn quy luật cơ bản thì trong suy luận
còn cần tuân thủ các quy tắc cho tiên đề
và kết đề.
2.5- SUY LUẬN DIỄN DỊCH
Diễn dịch là cách suy luận đi từ tổng quát
đến trường hợp riêng, từ nguyên lý tới hậu quả của nguyên lý ấy. Có hai cách diễn
dịch là trực tiếp và gián tiếp.
Diễn dịch trực tiếp là cách đi thẳng từ một
phán đoán tiên đề đến kết luận mà không dùng các bước trung gian. Thí dụ: Ngôi
nhà này đặt trực tiếp trên nền đất yếu,
ngôi nhà sẽ bị lún.
Quy tắc của diễn dịch
trực tiếp là: Nếu phán đoán ở tiên đề không phải là toàn bộ thi kết luận cũng
không phải là toàn bộ.
Diễn dịch gián tiếp là cách dùng từ hai phán
đoán trở lên làm tiên đề, suy luận qua một vài bước trung gian. Thường gặp kiểu
luận ba đoạn (tam đoạn luận).
Luận ba đoạn gồm ba thuật ngữ và ba mệnh đề. Ba thuật
ngữ gồm S, P và M, trong đó S và P là thành phần chính, M là trung gian Ba mệnh đề gồm hai tiên đề liên kết giữa M với
S và P và mệnh đề thứ ba là kết đề. Trong kết đề thì S là chủ từ, P là vị từ
còn trong hai tiên đề thì S, P và M có thể là chủ từ hoặc vị từ của phán đoán,
chủ từ đứng trước. Tiên đề chứa M và P là tiên đề lớn, tiên đề chứa M và S là
tiên đề nhỏ. Kết đề chỉ ra quan hệ S-P. Mỗi mệnh đề có thể thuộc một trong bốn
dạng phán đoán : A, I, E, O.
Thí dụ phán đoán về ngôi nhà bị lún khi dùng tam đoạn
luận sẽ như sau:
1-Nền đất yếu làm cho nhà bị lún
2-Ngôi nhà này được xây trên đất yếu
3- Ngôi nhà này sẽ bị lún
Thí dụ khác: - Mọi sinh vật đều phải chết – (
tiên đề 1 ); ( M -- P)
- Ông Beo là một sinh vật
- ( tiên đề 2 ); (S—M)
- Ông Beo sẽ phái chết
- ( kết đề ); (S- -P)
Tiên đề 1 là lớn, trong
đó mọi sinh vật (M) là chủ ngữ, chết (P) là vị ngữ. Tiên đề 2 là nhỏ, trong đó ông Beo (S) là chủ ngữ, sinh vật (M)
là vị ngữ.
Có bốn dạng tam đoạn luận
tùy theo tương quan giữa M với S và P thể hiện trong hai mệnh đề đầu tiên:
Dang 1 : (M—P) và (S—M)
Dạng 2 : (P—M) và (S—M)
Dạng 3 : (M—P) và (M—S)
Dạng 4 : (P—M) và (M—S)
Tam đoạn luận có các
quy tắc (Qt)
sau :
Qt 1- Có ba mệnh đề và ba danh từ logic S, P, M
Qt 2- M phải có ít nhất
một
lần là phán đoán A (khẳng định toàn thể)
Qt 3- Nếu S hoặc P
không là A ở tiên đề thì không thể là A ở
kết luận.
Qt 4- Nếu cả 2 tiên đề
là phủ định (E, O) thì không thể kết luận.
Qt 5- Nếu một trong hai
phán đoán tiên đề là phủ định thì kết luận là phủ định.
Qt 6-Nếu cà hai phán
đoán tiên đề là bộ phận thì không thể lết
luận.
Qt 7- Nếu một trong hai
phán đoán tiên đề là bộ phận thì kết luận là bộ phận.
Qt 8- Nếu cả hai phán
đoán tiên đề là khẳng định thì kết luận là khẳng định
Nếu quy tắc bị vi phạm
thì không thể công nhận kết luận.
Thí dụ : A nhỏ thua C
(S—M) , B nhỏ thua C (P--M ). Vậy A bằng
B.
Kết luận không được
công nhận vì đã vi phạm Qt 4hoặc Qt 6.
Thí dụ khác : Mọi loài
chim đều biết bay (P--M). Bồ câu là một loài chim (S--M). Vậy bồ câu biết bay.
Kết luận không được công nhận (tuy đúng với thực tế, do ngẫu nhiên) vì tiên đề
trên là giả dối, không phải mọi loài chim đều biết bay. Nếu thay bồ câu bằng đà
điểu, chim cánh cụt, chim Kiwi thì rõ ràng là không đúng.
Khi nói ngay rằng: “Chim bồ câu trưởng thành
biết bay” thì đó là một phán đoán đúng, cần gì phải bày ra trò suy luận.
Ngoài cách suy luận kiểu ba đoạn còn một
số cách khác, thường là dạng ba đoạn rút gọn hoặc ba đoạn mở rộng.
2.6- SUY LUẬN QUY NẠP
Quy nạp là cách suy luận đi từ những cái
riêng (đặc thù) đến cái chung (tổng quát). Đó là cách “khái quát hoá”. Có hai
cách quy nạp là hoàn toàn và không hoàn toàn.
Quy nạp hoàn toàn là cách suy luận đi từ tất
cả những trường hợp riêng đã biết đến một kết luận chung. Quy nạp không hoàn
toàn (hoặc quy nạp phóng đại) là cách suy luận đi từ một số trường hợp riêng đã
biết đến một kết luận chung cho đối tượng vượt qua tổng số những trường hợp đã
biết.
Quy nạp hoàn toàn có độ tin cậy chắc chắn
còn quy nạp không hoàn toàn có độ tin cậy không cao. Để tăng độ tin cậy của quy
nạp không hoàn toàn cần nêu thêm những chứng minh bổ trợ.
Diễn dịch và quy nạp tuy khác nhau nhưng
có mối quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung cho nhau.
2.7-
NHỮNG SAI LẦM CÓ THỂ GẶP
Sai lầm trong suy luận có thể do cố ý hoặc
vô tình.
Sai
lầm cố ý là do chủ động của người nghiên cứu và họ tìm cách giấu giếm. Đó là sự lừa bịp mà chủ yếu là
ngụy biện.
Phát hiện loại sai lầm này là việc của cộng đồng khoa học.
Lừa bịp là việc ngụy tạo ra luận cứ
không có thực hoặc cố tình loại bỏ một số luận cứ có thực để chứng minh luận điểm
theo chủ quan. Lừa bịp cũng có thể là cố tình vi phạm các quy luật hoặc quy tắc của logic. Lừa bịp để nhằm
đạt một mục đích không trong sáng nào đó.
Sự bịp bợm trong việc ngụy tạo ra tế bào gốc
và sinh sản vô tính của một nhà sinh vật học Hàn Quốc năm 2008 là một dẫn chứng
sinh động trong nghiên cứu khoa học. Một thí dụ khác: Cần điều tra hoặc làm tổng
kết một sự kiện nào đó có hai mặt X và T. Nếu người thực hiện không thực sự
khách quan, không tôn trọng nguyên tắc khoa học mà đã có chủ ý là T, thế rồi chỉ
thu thập dữ liệu loại T mà cố tình loại bỏ phần lớn dữ liệu loại X, để rút ra kết
luận. Cách làm này là phổ biến của “bệnh thành tích rởm” trong phong trào thi đua hoặc nhằm để tuyên truyền,
là mưu mô và hành động của những kẻ lợi dụng khoa học để thu vén lợi ích cá
nhân hoặc phục vụ cho một ý đồ đen tối. Những chứng cứ họ đưa ra toàn bộ hoặc
phần lớn là có thật, có thể kiểm chứng nhưng là một sự thật đã bị cố tình cắt
xén, đã bị che dấu, mà cái phần bị che, bị cắt này lại là phần quan trọng hơn,
chủ chốt hơn. Có một câu châm ngôn nổi tiếng sau đây dùng để mô tả việc trên: “
Một phần
của cái bánh mì vẫn là bánh mì, nhưng một phần của sự thật nhiều khi là dối trá”.
Khi mà sự lừa bịp thành công sẽ làm sai
lệch nhận thức của nhiều
người
và có thể kéo theo hậu quả tai hại.
Sai lầm vô tình là do thiếu kiến thức, thiếu
kỹ năng, thiếu kinh nghiệm hoặc thiếu trách nhiệm. Thường thường gặp sai lầm
trong luận cứ và luận chứng dẫn đến sai trong kết quả (luận đề), cũng có thể phạm
sai lầm ngay trong luận đề.
Sai trong luận cứ thể hiện ở một số dạng
như: dùng khái niệm mơ hồ, dùng thiếu hoặc thừa dữ liệu, dùng dữ liệu hoặc phán đoán không chân thật (bị
đánh lừa), xét sai tương quan, dùng giả thiết quá thô thiển, dùng lập luận vòng
quanh.
Khái niệm mơ hồ là khái niệm không được định
nghĩa rõ ràng, có thể hiểu và vận dụng theo các cách khác nhau. Trong phương
pháp dùng toán nếu dùng ký hiệu trùng nhau có thể gây nhầm lẫn khi thao tác.
Trong logic học có thuật ngữ “đánh tráo khái niệm” là chỉ việc lợi dụng hiện tượng đồng âm trong
tên gọi để làm lẫn lộn các khái niệm khác nhau, không tôn trọng quy luật cơ bản
số 1.
Dùng thiếu dữ liệu hoặc dùng dữ liệu (phán
đoán) không chân thật, nếu cố ý thì đó là lừa bịp, nếu vô tình thì có thể dẫn đến
kết luận sai. Thí dụ có hai nguyên nhân
N1 và N2 cùng tác động để gây ra kết quả B, trong đó N1 là rõ ràng, N2 bị
ẩn giấu. Nếu chỉ biết đến N1, bỏ sót N2, hoặc quá quan tâm tới N1 mà coi nhẹ N2
thì đã là thiếu sót, kết quả kém tin cậy. Tuy vậy khi chỉ dừng lại ở B thì sai
lầm còn hạn chế, còn khi từ B suy luận tiếp ra C, D thì có khi sai lầm sẽ tăng
lên, đặc biệt là cái bị bỏ sót N2 lại có tác dụng quan trọng. Sở dĩ N2 bị bỏ
sót là vì nó ở dạng ẩn, trừu tượng chứ không tường minh như N1.
Trong toán học cũng như
trong đời sống thường dùng mệnh đề “ điều kiện cần và đủ để… là….”, Nếu chỉ
quan tâm tới điều kiện cần mà quên điều kiện đủ thì không thể chấp nhận kết quả
của chứng minh hoặc suy luận; hoăc chỉ chú ý tới điều kiện đủ mà ít quan tâm tới
điều kiện cần cũng phạm sai lầm.
Dữ liệu sai là do nhầm lẫn khi thu thập,
phần lớn là sai sót ngẫu nhiên. Trong quá trình sắp xếp và xử lý cần kịp thời
phát hiện và để riêng ra, nếu cứ dùng chúng một cách bình thường dễ dẫn đến kết
quả không chính xác.
Xét nhầm tương quan. Thí dụ nguồn S làm
phát sinh đồng thời B và C nhưng người quan sát vì lý do nào đó mà chỉ thấy B
và C mà không thấy S. Cứ hễ thấy B là thấy C xuất hiện, từ đó cho rằng B là
nguyên nhân gây ra C.
Sai lầm ở luận chứng là sai trong quá
trình suy luận, chứng minh vì vi phạm các quy tắc logic, nhầm trong giải toán,
nhầm trong việc xác định khoảng giới hạn của các tham số v.v…. Sai trong phép
diễn dịch thường là do dùng tiên đề giả dối, vi phạm quy tắc suy luận. Sai
trong phép quy nạp thường
là do “khái quát hoá vội vàng”, chỉ mới dựa vào một ít trường hợp riêng đã vội
rút ra kết luận.
Sai lầm kiểu suy luận vòng quanh là từ A suy ra B rồi lại dùng B để chứng
minh A.
Sai lầm trong luận đề là do chủ quan, thiếu
năng lực mà đề ra giả thuyết không đúng, tuy vậy không kịp thời phát hiện ra để
sửa đổi mà vẫn cố tìm cách chứng minh. Cúng có thể do mưu mô xảo trá, tạo ra ngụy biện.
2.8- NGỤY BIỆN
Có vài cách định nghĩa
ngụy biện:
+ Ngụy biện là việc
dùng những lý lẽ bề ngoài có vẻ là đúng, nhưng thật ra là sai, để rút ra kết luận
xuyên tạc sự thật.
+ Ngụy biện là việc sử dụng các lập luận một cách sai
lầm, không hợp lý, vi phạm các quy tắc logic trong suy luận. Một lý luận ngụy
biện có
thể có ý lừa đảo .
+ Ngụy biện là
cách đưa ra kết luận giả dối dựa trên một số suy luận hoặc chứng minh tưởng như
là đúng đắn, chặt chẽ nhưng thật ra là sai lạc. Giả dối là biến cái đúng thành
sai và ngược lại.
Ngụy
biện là dối trá, lừa bịp ở mức cao vì nó cũng dựa vào suy luận của lý trí, cũng
tỏ ra tuân theo các phương pháp của logic, nhưng ẩn giấu những vi phạm quy tắc,
rất khó phát hiện. Ngụy biện rất dễ đánh lừa được những người nhẹ dạ cả tin, những
người ít chịu dùng tư duy phản biện.
Có hai loại ngụy biện:
cố ý và vô tình.
Ngụy biện cố ý đã được
trình bày qua ở mục 2.7 (sai lầm cố ý)
Kẻ ngụy biện cố ý thường
có trình độ khá cao về lý luận, nhưng không trung thực, nhiều lúc họ dùng hùng
biện, dùng danh vị khoa học, dùng chức tước để che đậy sự ngụy biện, để mê hoặc
lòng người.
Ngụy biện vô tình là do
trình độ non kém, họ tin vào những ngụy biện do người khác phát ra rồi nhắc lại
một cách máy móc hoặc do họ
tự nghĩ ra trên cơ sở non yếu về trí tuệ, họ không có khả
năng biết được điều dối trá bị ẩn giấu.
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn chia ngụy biện làm hai dạng chính. Ngụy biện
trong bàn luậnvà ngụy biện trong tranh luận. GS Tuấn đưa ra năm dạng chính
trong ngụy biện bàn luận như sau
1. Công kích cá nhân
Đây là một loại ngụy biện phổ biến nhất, thấp kém nhất,
nguy hiểm nhất, nhưng có “công hiệu” nhất. Nguy hiểm vì nó tấn công vào cá nhân
của người phát biểu hơn là quan điểm của người phát biểu. Từ đó, người ta chỉ tập
trung vào cá nhân hơn là quan điểm của cá nhân đó.
Có 5 hình thức phổ biến thuộc loại ngụy biện này:
- Loại thứ nhứt là tấn công vào uy tín cá nhân của người
phát biểu, kiểu "Anh là dân làm kinh tế, biết gì về khoa học mà nói chuyện
nghiên cứu khoa học". Tức là, người ngụy biện không bàn về lý lẽ của người
phát biểu về khoa học mà tấn công vào cái 'background' của người đó.
- Loại thứ hai là dưới hình thức sỉ nhục, hay chửi rủa.
Khi bất đồng ý kiến, người ngụy biện chỉ việc công kích vào cá nhân của người
phát biểu. Chẳng hạn như "Bà hay đánh con, bà không có tư cách nói chuyện
nhân nghĩa".
- Loại thứ ba là tấn công vào động cơ của người phát
biểu. Mặc dù không biết động cơ của người phát biểu là gì, kẻ nguỵ biện vẫn đặt
ra một cái cớ để làm lạc hướng luận điểm của người phát biểu. Ví dụ tiêu biểu
là "Anh nói như vậy là vì anh muốn được chút ơn huệ của kẻ cầm quyền".
- Loại thứ tư là tấn công vào lòng yêu nước. Tiêu biểu
cho loại ngụy biện này là: "Anh im đi! Nếu anh thấy nền giáo dục Việt Nam
kém cỏi như vậy thì anh hãy đi Mỹ mà học".
- Loại thứ năm là dùng một đặc điểm của một vật thể
nào đó để ứng dụng cho một cá nhân hay một vật thể khác. Ví dụ: “Anh học của
Tây có vài chữ mà đã quay lại chửi bới đồng nghiệp à? Anh là con công cháu cha,
anh không hiểu gì về sự nghèo khổ của chúng tôi”.
2. Lợi dụng thẩm quyền
Đây là loại ngụy biện dùng những nhân vật nổi tiếng
hay được nhiều người ái mộ để tìm sự ủng hộ cho luận điểm của mình. Chẳng hạn
như "Cái bàn chải đánh răng này được giới nha sĩ ủng hộ, nên nó tốt lắm",
hay "Báo chí loan tin hà rầm rằng gia đình đó loạn luân mà ông còn cãi à?
Ai cãi là ngu si, hèn hạ”. Hèn hạ?
Cái sai ở đây là thẩm quyền (báo chí, chuyên gia, Nhà
nước, v.v.) không thuyết phục được ai; chỉ có sự thật, lý lẽ và logic mới quan
trọng và có khả năng thuyết phục.
Do đó, việc xem thẩm quyền là chân lý là một nguỵ biện,
và loại nguỵ biện này rất phổ biến và nguy hiểm. Nguy hiểm là vì nó làm thui chột
tư duy độc lập của người ta. Nguy hiểm là vì nó có thể đưa người vô tội vào tù.
3. Lợi dụng nặc danh
Trong trường hợp này, người ngụy biện không nêu danh
tính người có thẩm quyền, và vì không ai biết tên người có thẩm quyền nên không
ai có thể kiểm chứng sự chính xác của lời phát biểu. Một ví dụ tiêu biểu là
"Các chuyên gia nói với tôi rằng chủ trương của chúng tôi là hợp lý".
Ở đây, chúng ta không biết chuyên gia là ai (nặc danh), mà cho dù có biết thì
đây cũng là nguỵ biện loại lợi dụng thẩm quyền.
Một loại ngụy biện khác có quan hệ với loại này là
dùng lời đồn đại để làm cơ sở lập luận. Giới công an cảnh sát hay sử dụng ngụy
biện này, ví dụ như “Có nhiều đơn của nhân dân tố giác rằng cái hộ gia đình này
phạm pháp”. Chẳng ai biết 'nhân dân' là ai, nhưng nó bị đem ra làm cơ sở cho
nguỵ biện.
4. Luận điệu ngược ngạo
Loại nguỵ biện này hay xuất hiện dưới hình thức bằng
chứng. Chẳng hạn như kẻ nguỵ biện phát biểu rằng "Gia đình đó có loạn
luân", nhưng khi bị người ta bác bỏ phát biểu đó thì kẻ nguỵ biện quay
sang hỏi: "Anh nói họ không loạn luân, vậy anh chứng minh đi".
Đây là nguỵ biện khá phổ biến, mà theo đó kẻ nguỵ biện
đùn đẩy trách nhiệm bằng chứng về phía người phát biểu trong khi chính người
phát biểu cáo buộc phải trình bày bằng chứng. Loại nguỵ biện này khá thô thiển,
nhưng ngạc nhiên thay nó thuyết phục khá nhiều người ngây thơ!
5. Làm lạc hướng câu chuyện
Loại ngụy biện này thường hay được ứng dụng khi một
người nào đó đưa vào những phát biểu không dính dáng gì đến vấn đề đang tranh
luận, nhằm mục đích đánh lạc hướng vấn đề.
Một trong những ví dụ tiêu biểu của nguỵ biện loại này
là những câu qua lại về tu sĩ. Người phát biểu cảm thấy tu sĩ đóng phim là
không phải, người nguỵ biện quay sang tấn công …Giáo Hoàng:
“Nếu bà cho rằng bà có cái quyền tấn công tăng ni tham
gia đóng phim thì bà trước nhứt nên tấn công hai Đức Giáo Hoàng của bà trước
thì đó mới là công bằng”.
Một ví dụ khác: “Anh có thể nói rằng tử hình là một
hình phạt không có hiệu quả trong việc chống lại tội phạm, nhưng còn nạn nhân của
tội phạm thì sao?”. Tức là, người ngụy biện chuyển chủ đề về hiệu quả của án tử
hình sang nạn nhân, hai vấn đề chẳng có liên quan gì với nhau.
Nhiều tài liệu phổ thông phân chia ngụy biện thánh 15 kiểu
1-Lợi dụng sự đồng tình
của đám đông.
2-Lợi dụng lòng thương
hại.
3-Lợi dung uy thế: Học
vị, chức tước, quyền lực.
4-Lợi dụng những chỗ
chưa chặt chẽ trong lập luận, ngụy tạo ra cách lập luận.
5-Lợi dụng nặc danh hoặc
giữ bí mật.
6- Khái quát hóa vội
vàng.
7-Dùng luận cứ chỉ một phần sự thật, phần không chứa bản
chất.
8-Bóp méo, xuyên tạc quan điểm của
người khác, gắp lửa bỏ tay người.
9-Lạm dụng ngôn từ,
đánh tráo khái niệm.
10- Dùng lẫn lộn các
tiên đề mâu thuẩn (trong phép tam đoạn luận).
11-Nói càn: Bạn cũng vậy, ai mà chẳng thế.
12-Công kích cá nhân.
13-Lãng tránh chủ đề, dùng luận cứ vụn
vặt.
14-So sánh khập khiểng.
15-Vin vào truyền thống.
Có tác giả nêu thêm và
kê ra 24 kiểu. Cũng
có tác giả chia nhỏ thành 48 kiểu.Triệu Truyền Đống còn kể ra 120 cách ngụy biện khác nhau (sách Phương
Pháp Biện luận-Thuật Hùng Biện).
Vạch ra và phản bác được
các ngụy biện là việc làm cần thiết và tương đối khó khi làm phản biện (xem mục
3.4)
( Còn tiếp -2- )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét