( Tiếp theo )
Tào Tháo nhân danh phò vua nhà Hán cất quân đánh dẹp các thế lực cát cứ địa
phương như Công Tôn Toản, Lã Bố, Viên Thuật, Viên Thiệu v.v….
Trước khi khỏi binh chống lại Tào Tháo, người cát cứ Kinh Châu là Viên Thiệu
sai thư ký Trần Lâm làm bài hịch. Đó là văn bản phản biện lại lời tuyên bố của
Tháo nhân danh Triều đình nhà Hán.
Bài hịch như sau:
“Thường nghe rằng:
minh quân nhân nguy để bày kế; trung thần lo nạn để lập công. Bởi thế, phải có
người phi thường, mới lập được việc phi thường; có việc phi thường, mới có công
phi thường. Cái công phi thường ấy, vốn không phải người thường có thể làm nổi.
“Trước kia nhà Tần vua
yếu, Triệu Cao lộng quyền, hống hách trong triều, một tay tác oai tác phúc. Người
bấy giờ bị ức hiếp, không ai dám nói cầu gì, đến nỗi có biến ở cung Vọng
Di tổ tông nhà nó bị tiêu diệt, để tiếng nhơ nhuốc đến ngày nay, làm gương
cho đời.
“Cuối đời Lã hậu, Sản,
Lộc, chuyên chính, trong giữ hai đạo quân, ngoài thống lĩnh nước Lương, nước
Triệu; chuyên quyền ỷ thế, xử việc ở trong cấm sảnh, kẻ dưới lăng loàn, người
trên suy yếu, bốn bể ai cũng lo sợ. Bởi thế Giáng hầu và Chu Hữu hầu tức giận nổi
dậy giết sạch kẻ bạo nghịch, lập vua Thái tông nhờ thế đạo vương hưng thịnh,
sáng sủa và rõ rệt, ấy tức là cái nêu cao lập công của kẻ đại thần.
“Tư không là Tào Tháo
ngày nay: Ông nó là trung thường thị tên Đằng, cùng với bọn Tả Quan, Từ Hoàng
hưng yêu tác quái, tham lam rông rỡ, nát đạo hại dân. Bố nó là Tung, làm con
nuôi của Đằng, nhân có nhờ đút lót mà được chức vị, xe vàng khiêng ngọc, đem nộp
cửa quyền, trộm giữ ngôi cao, làm nghiêng đổ quyền lớn. Đến Tháo: nòi giống sót
của hoạn quan, vốn không có đức hạnh, gian giảo độc ác, thích gây ra sự biến loạn,
vui mừng thấy sự tai vạ.
“Mạc Phủ đây thống suất hùng binh, quét trừ kẻ hung nghịch, gặp khi Đổng Trác lấn quan hại nước, bèn chống gươm khua trống, phát lịnh ra cõi Đông Hạ, thu dụng anh hùng, bỏ nết xấu để dùng được việc, cho nên mới cùng Tháo hợp mưu, trao cho chức tì tướng, tưởng là tài ưng khuyển có thể dùng được. Không ngờ nó ngu dại, kém mưu lược, khinh thường sự tiến quân và lui quân, đến nỗi thất bại làm tổn thiệt quân sĩ.
“Mạc Phủ lại chia thêm
cho quân tinh nhuệ, sửa sang bù đắp cho nó, tâu xin cho nó sang Đông Quận lĩnh
chức thứ sử ở Duyện Châu; thân dê chó đội lốt hổ, để nó có chút quyền hành,
mong rằng nó sẽ có phen báo thù được trận thua trước như quân Tần báo thù được
nước Tấn khi xưa. Nhưng Tháo lại thừa thế bạt hổ, bạo ác càn rỡ, tàn dân, hại
người lương thiện. Vì thế quan thái thú Cửu Giang là Biên Nhượng, tài cán giỏi
giang, thiên hạ biết tiếng, nói thẳng lòng ngay, không a siểm ai, cũng bị nó
hãm hại, đầu phải bêu, vợ con phải tàn sát. Từ đó, sĩ phu ai cũng tức tối, nhân
dân lại càng oán ghét; một người vung cánh tay cả châu cùng hưởng ứng; cho nên
thân nó bị thua ở Từ Châu, đất nó bị cướp về tay Lã Bố; bơ vơ cõi Đông, không
nơi nương tựa, Mạc Phủ nghĩ đến nghĩa gốc mạnh cành yếu và thương nó,
không buộc nó vào đảng của kẻ phản nghịch, cho nên lại giương cờ, mặc áo giáp,
cất quân sang đánh. Chiêng trống vang lừng, Lã Bố tan vỡ, cứu cho nó khỏi chết,
và khôi phục lại chức phương bá cho nó, thế là Mạc Phủ ta tuy không có công gì
với dân Duyện Châu, nhưng thực là làm phúc cho Tào Tháo to lắm. Đến khi loan
giá trở về, giặc cướp quấy rối (loạn Thôi, Dĩ), bấy giờ Ký Châu đang có việc đề
phòng ở cõi bắc, ta chưa rờ ra ngoài được, cho nên sai tùng sự trung lang là Từ
Huân sang truyền cho Tháo phải sửa sang chốn giao miếu, giúp đỡ vua nhỏ. Nhưng
Tháo dám rông rỡ làm càn, hiếp vua thiên đô, khinh nhờn nhà vua, nát phép loạn
kỷ, ngồi giữ cả việc ba đài chuyên chế triều chính, muốn thưởng ai thì thưởng,
muốn giết ai thì giết; yêu ai thì người ấy sung sướng đến cả năm ngành; ghét ai
thì người ấy phải chết cả ba họ; ai bàn tán phải trái thì trị tội công khai, ai
thầm vụng chê bai, thì bị giết ngầm ngấm. Vì thế trăm quan buộc miệng, đường sá
đưa mắt nhìn nhau. Còn các quan thượng thư thì chỉ nhớ buổi vào triều đến hội
cho có mặt; công khanh thì chỉ gọi là có chức phẩm mà thôi!
“Cho nên quan thái uý
là Dương Bưu, từng giữ hai chức tư không và tư đồ, nhất phẩm trong nước, Tháo
nhân thế mang lòng ganh ghét, vu cho tội trạng, đánh đập tàn nhẫn, đủ cả năm thứ
hình cụ; tự ý làm càn, không nghĩ đến phép nước.
“Quan nghị lang là Triều
Ngạn, lời ngay nói thẳng, có thể nghe theo, vì thế vua nghe nói động lòng, thay
đổi nét mặt, tỏ ý khen thưởng, nhưng Tháo định che lấp lẽ phải, chặn lắp đường
nói năng của mọi người, tự tiện bắt Triệu Ngạn giết đi, không tâu vua biết.
“Lương Hiếu vương, là
anh em ruột với tiên đế, lăng mộ của người là nơi tôn quý, dẫu đến cây cối trên
mả, cũng phải kính cẩn gìn giữ, thế mà Tháo đem tướng sĩ, khai quật phá áo
quan, bỏ lộ thây, cướp lấy vàng báu, đến nỗi vua phải chảy nước mắt, dân sĩ phải
đau lòng.
“Nó lại đặt ra quan
trung lang tướng, đào mả quan hiệu uý bới vàng; đi đến đâu tàn hại đến đó,
xương trong mả phải bới ra cả ngoài. Nó ở ngôi Tam công, làm việc trộm cướp, nhơ
cả nước, khổ đến dân, làm hại cả người sống lẫn người chết. Vả lại chính sự tế
toái thảm khốc, luật lệ bày ra thật nhiều, khác gì dò bẫy đầy cả khe, hang hố lấp
cả đường, giơ tay mắc phải lưới, đụng chân vấp phải cạm. Cho nên ở Duyện, Dự có
những người đau buồn, kinh đô có những nhời than vãn. Xem hết cả sử sách xưa
nay, những kẻ làm tôi vô đạo, tham tàn ác nghiệt, đến Tháo là cùng.
“Mạc Phủ ta đang phòng
ngoại gian, chưa kịp dạy bảo nó, và cũng có ý khoan dung, mong cho nó tu tỉnh lại.
Nhưng nó bụng dạ sài lang, mang tâm gây vạ, muốn đạp đổ cột rường, làm cho nhà
Hán suy yếu, trừ giết kẻ trung chính chuyên làm kẻ kiêu hùng.
“Trước kia ta gióng trống
sang mặt bắc, đánh Công Tôn Toản, quân cường khấu nghịch tặc cự nhau với quân
ta một năm, Tháo nhân quân ta chưa đánh được, ngầm đưa thư cho Toản, ngoài mặt
giả làm giúp quân ta, kì thực nó định đánh úp quân ta, may được người mang thư
tiết lộ mưu gian, Toản phải thua chết. Cho nên nhuệ khí của nó phải nhụt và mưu
đồ của nó cũng không thành.
“Nay nó đóng giữ Ngao
Xương, chẹn sông giữ biển, muốn đem cánh tay con bọ ngựa chặn đường của xe thần
sét.
“Mạc Phủ nay phụng oai
linh nhà Hán, dẹp yên bờ cõi, kích dài trăm vạn, ngựa khoẻ nghìn đàn, đem những
tướng mạnh như Trung Hoàng, Hạ Dục, Ô Hoạch; dùng cái thế cung cứng nỏ bền, từ
Minh Châu vượt núi Thái Hàng; từ Thanh Châu qua sông Tế, sông Luỹ, đại quân qua
sông Hoàng Hà đánh mặt trước; quân Kinh Châu xuống đất Uyển, Diệp đánh mặt sau.
Sấm vang, hổ sợ, khác gì cầm bó lửa đốt mớ bòng bong, dốc nước bể tưới đống tro
tàn, còn cái gì không bị tiêu diệt?
“Vả lại quân sĩ của
Tháo người nào có thể đánh trận được toàn là người ở U, Ký, hoặc là quân sĩ của
bộ hạ cũ, đều oán giận muốn về quê hương, rỏ nước mắt trông về phía bắc. Còn
như dân ở Duyện, Dự và quân sót của Lã Bố, Trương Dương, đều là bị ức hiếp, tạm
bợ đi theo nó, vết thương chưa khỏi, quân nọ quân kia thù địch lẫn nhau. Nếu ta
lên núi cao đánh tiếng trống, phất cờ trắng chiêu hàng, thế tất đất lở ngói
tan, không đợi lưỡi gươm phải dây máu mới dẹp yên được.
“Hiện nay nhà Hán suy
đồi, kỷ cương trễ nải, triều đình không có một người phù tá nào giỏi, chân tay
của vua không có thể đánh dẹp được giặc; trong kinh đô, những người lão luyện,
đều phải cúi đầu khép cánh, không biết trông cậy vào đâu; tuy có kẻ trung nghĩa
cũng bị nó ức hiếp, không làm thế nào thổ lộ được khí tiết của mình?
“Vả lại Tháo sai bảy
trăm binh lính bộ hạ của nó, vây chốn cung khuyết, ngoài mặt giả làm giữ gìn
cho vua, kì thực là nó giam cấm vua. Chúng ta sợ rằng cái mầm thoán nghiệp, nảy
ra từ đó. Ấy thực là buổi óc gan lầm đất của trung thần và cái hội lập công của
hào kiệt, chúng ta chẳng nên gắng sức dư!
“Tháo nó lại mạo làm
chiếu vua, sai sứ cất quân. Ta sợ những châu quận ở xa, tưởng là chiếu của vua
thực, cấp quân cho nó, thế là trái với lòng dân và vào hùa với quân phản nghịch,
phi cả tiếng mình, lại để thiên hạ chê cười. Những bậc minh triết, tất không
làm thế.
“Nay mai, quân U,
Tinh, Thanh, Ký, bốn châu cùng tiến lên. Thư ta đưa đến Kinh Châu, xin phải cất
quân ngay, cùng quan Kiến trung tướng quân (Trương Tú) họp lại làm cho thanh thế
được mạnh.
“Các châu quận cũng
nên họp sẵn nghĩa binh, dàn khắp bờ cõi, thị võ dương oai, cùng giúp nền xã tắc.
Thế là cái công phi thường sẽ được rõ rệt dựng nên.
“Ai mà lấy được đầu
Tào Tháo sẽ được phong tước hầu năm nghìn hộ, thưởng tiền năm nghìn vạn quan.
“Những bộ khúc tướng
tá ai chịu quy hàng, đều tha tội hết. Mở rộng ân tín, ban bố phong thưởng. Nay
làm tờ hịch này báo cáo thiên hạ, để ai nấy đều biết mà vua đang có lệnh nguy cấp.
“Cấp cấp như luật lệnh!”
Thiệu xem hịch xong mừng lắm, liền sai sứ giả đưa đi
khắp cả châu huyện và yết thị các nơi cửa ải, bến đò. Bài hịch truyền tận Hứa
Đô. Bấy giờ Tào Tháo đang bị chứng nhức đầu, nằm trên giường. Tả hữu đem bài hịch
vào trình. Tháo xem xong rợn tóc rùng mình, mồ hôi toát ra như tắm, khỏi cả nhức
đầu, từ giường vùng dậy, ngoảnh lại hỏi Tào Hồng:
- Ai làm bài hịch này?
Hồng nói:
- Bài ấy nghe đâu của Trần Lâm soạn.
Tháo cười nói:
- Có văn hay phải có võ lược đi kèm, văn Trần Lâm, tuy
hay nhưng võ lược của Viên Thiệu lại dở, thì làm thế nào!. Bèn họp các mưu sĩ bàn việc nghênh địch.
Bài 2- Khổng Minh mắng Vương Lãng (hồi
93)
Khổng Minh kéo quân Thục đến Kỳ Sơn để
đánh Ngụy. Vua Ngụy Tào Tuấn cử Đại tướng Tào Chân cùng quân sư Vương Lãng đem
binh chống cự. Khi đã dừng binh hạ trại xong Vương Lãng nói với Tào Chân :
- Ngày mai nên sắp xếp đội ngũ chỉnh tề,
dàn bày tinh kỳ rợp đất. Lão phu chỉ dùng một câu chuyện, tự khắc Gia Cát Lượng
phải chắp tay lạy hàng, quân Thục không đánh cũng phải tan.
Chân mừng lắm, đêm ấy truyền lệnh: Ngày
mai, canh tư ăn cơm, sáng sớm binh mã đã phải đông đủ, thanh thế uy nghi, cờ quạt,
chiêng trống có thứ tự đâu ra đấy. Bấy giờ, sai người đưa chiến thư trước. Hôm
sau hai bên dàn thành thế trận ở trước Kỳ Sơn. Quân Thục thấy quân Ngụy hùng
tráng lắm, khác hồi Hạ Hầu Mậu nhiều. Trong quân dứt ba hồi trống, tư đồ Vương
Lãng cưỡi ngựa đi ra. Mé trên thì Tào Chân, mé dưới thì Quách Hoài. Hai tướng
tiên phong đứng áp hai góc trận.
Quân thám mã ra trước trận gọi to lên rằng:
- Mời chủ tướng bên kia ra nói chuyện!
Trận bên Thục mở cửa cờ, Quan Hưng,
Trương Bào chia làm tả hữu đi ra, kìm ngựa đứng hai góc trận. Rồi có một đội
kiêu tướng đứng dàn thành hai hàng; Khổng Minh ngồi một chiếc xe bốn bánh, quạt
lông, khăn lượt, áo trắng dải thâm, phớn phở ung dung đi ra.
Khổng Minh trông sang trận Ngụy, thấy
trước trận che cái lọng, trên cờ đề tên họ rõ ràng. Một người ở giữa, đầu bạc
phơ phơ, biết là quân sư Vương Lãng, mới đẩy xe ra, sai tên tiểu mã truyền rằng:
- Hán thừa tướng ra nói chuyện với tư đồ
đây.
Vương Lãng giật ngựa đi ra. Khổng Minh
ngồi trên xe chắp tay chào. Vương Lãng cũng nghiêng mình đáp lễ.
Lãng nói:
- Lâu nay nghe đại danh của ngài, nay được họp mặt, thật
là may lắm! Ngài đã là người biết mệnh trời, hiểu việc đời, cớ sao lại cất quân
vô danh làm vậy?
Khổng Minh đáp:
- Ta phụng chiếu ra đánh giặc, sao gọi là vô danh?
Lãng nói:
- Số trời mỗi lúc một khác, thần khí thay đổi mà về
người có đức, đó là lẽ tự nhiên. Tự đời Hoàn, Linh trở đi, giặc Khăn Vàng nổi
loạn, thiên hạ long lở. Đến đời Sơ Bình, Kiến An, Đổng Trác nổi nghịch. Thôi Dĩ
lại nối theo làm càn. Viên Thuật tiếm hiệu ở Thọ Xuân, Viên Thiệu xưng hùng ở
Nghiệp Thượng. Lưu Biểu chiếm giữ ở Kinh Châu, Lã Bố lừng lẫy ở Từ Quận. Trộm
giặc dấy lên như ong, gian hùng bay ra như cắt. Xã tắc nguy như chồng quả trứng,
sinh dân khổ như dốc ngược đầu. May có Thái tổ Võ Hoàng Đế ta, quét sạch sáu
cõi, cuốn hết tám phương, muôn dân dốc lòng, bốn phương ngóng đức. Đó không phải
là lấy quyền thế ăn hiếp gì ai, thực là lòng trời cho đấy! Thế tổ Văn Hoàng Đế
nối giữ nghiệp lớn, ngồi trong nước, coi trị muôn phương há chẳng phải là lòng
trời ru? Nay ông cậy tài to, ôm chí lớn, ứng trời hợp người phép Nghiêu Thuấn
trị Trung Nguyên để giữ vạn nhà, tự ví mình với Quản, Nhạc, sao lại muốn nghịch
lẽ trời, trái tình người mà làm thế ru? Há chẳng nghe có câu rằng: "Thuận
với trời thì thịnh, nghịch với trời thì nguy!" ư? Nay Đại Ngụy ta, giáp
binh trăm vạn, tướng tá nghìn viên. Cái thứ đom đóm lập lòe trong đám cỏ hôi, địch
nổi sao được vầng trăng vằng vặc giữa trời. Ông nên quay gươm cởi giáp, đem lễ
lại hàng, không đến nỗi mất vị phong hầu đâu mà sợ, để cho nước được yên, dân
được vui, thế chẳng hay lắm ru?
Khổng Minh nghe xong, cười ầm lên nói rằng:
- Ta tưởng ngươi là một vị lão thần nhà Hán, có lời
cao luận gì chăng? Ai ngờ ăn nói ngu dốt làm vậy! Ta có một lời này, các quân
nín lặng mà nghe:
Khi xưa về đời
Hoàn, Linh, nhà Hán suy đốn. Kẻ hoạn quan gây vạ, nước loạn, mất mùa, bốn
phương xao xuyến. Sau giặc Khăn Vàng, kế đến giặc Đổng Trác, Thôi Dĩ, hiếp vua
Hán đế, tàn ngược kẻ sinh dân. Chốn miếu đường, đồ mục nát làm quan; nơi điện bệ,
giống cầm thú ăn lộc. Những kẻ nết muông ruột chó, nhung nhúc đầy triều; những
phường gối tớ mặt mo, nghênh ngang quyền chính. Vì thế xã tắc đổ nát, sinh dân
lầm than. Ta biết ngươi vốn người ở bến Đông Hải, trước đỗ hiếu liêm, được vào
làm quan. Đáng lẽ phải phò vua giúp nước, yên nhà Hán dựng lại họ Lưu mới phải,
không ngờ ngươi lại giúp giặc, đồng mưu cướp ngôi. Tội nhiều, ác nặng, trời tất
không dong. Người trong thiên hạ, ai cũng muốn xé xác ngươi ra. Nay may lòng trời
chưa nỡ tuyệt nhà Viêm Hán, Chiêu liệt Hoàng Đế lại kế thống ở Tây Xuyên. Ta
nay phụng mệnh tự quân, cất quân đánh giặc. Ngươi là đứa xiểm nịnh, thì chỉ nên
giúp mình rụt cổ, cầu lấy cơm áo cho đủ là xong; sao dám ra chỗ trận mạc, nói
năng càn rỡ, đổ tại số trời làm vậy? Quân sất phu đầu bạc, thằng lão tặc râu trắng
kia! Nay mai ngươi cũng sắp đến suối vàng, còn mặt mũi nào trông trông thấy hai
mươi bốn vua nhà Hán nữa? Lão tặc bước ngay, bảo quân phản thần ra đây, cùng với
ta quyết trận sống chết.
Vương Lãng nghe xong, khí uất đầy ruột, kêu hú lên một
tiếng, ngã lăn xuống đất mà chết.
X– Phản biện của người chăn trâu
Chuyện 1- Đào Duy Từ
Ống
sinh năm 1572 ở Thanh Hóa vào thời vua Lê chúa Trịnh. Duy Từ học giỏi, có tài
năng nhưng không được vua chúa dùng vì cha làm nghề ca hát. Năm 1625 Duy Từ trốn
váo Nam. Ban đầu ở chăn trâu cho nhà phú hộ Chúc Trịnh Long, bạn của Trần Đức
Hòa là quan lớn, cận thần của Chúa Nguyễn Phúc Nguyên.
Một
hôm Chúc Trịnh Long mở tiệc mời các bậc trí thức bàn luận văn chương. Duy Từ xin
phép được đứng dưới thềm để nghe. Gặp đoạn thú vị Duy Từ vỗ tay khen hay. Quan
khách hỏi, người đứng dưới thềm là ai mà cũng biết thưởng thức văn chương. Chủ
nhà nói rằng đó là người ở chăn trâu. Một ông khách bảo: Chăn trâu thì biết gì
mà dám đàm đạo.
Duy
Từ cung kính phản biện rằng : Chăn trâu
có kẻ là tiểu nhân, nhưng cũng có người là quân tử.
Bị
hỏi vặn ai là tiểu nhân, ai là quân tử, Duy Từ nói, tiểu nhân thì nhiều, còn
quân tử ví như Bách Lý Hề thời Tần Mục Công, như Ninh Thích thời Tề Hoàn Công.
Họ đã giúp các vị ấy làm nên nghiệp bá .
Quan
khách nghe nói vậy, ngạc nhiên, cho gọi Duy Từ lên, cùng đàm đạo văn chương.
Sau đó chủ nhà đưa Từ lên làm thư ký và được Trần Đức Hòa đón về làm gia sư rồi
tiến cử lên chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Sau khi tự mình phỏng vấn, kiểm tra, chúa
biết Duy Từ thật sự có tài năng, liền phong chức quan to. Đào Duy Từ trở thành
khai quốc công thần lớn của Nhà Nguyễn. Ông mất năm 1635 (hưởng thọ 63 tuổi), để
lại công trạng hiển hách và nhiều tác phẩm, trong đó nổi tiếng là tập sách binh
thư Hổ Trướng Khu cơ và bài văn Ngọa
Long Cương.
Chuyện
2- Bách Lý Hề
Ông
là người nước Sở, sinh trước Công nguyên, thới Xuân Thu thuộc Đông Chu.Liệt quốc.
Bách Lý Hề có tài năng, rất muốn đem tài ra phò vua giúp nước nhưng nhà quá
nghèo, không tìm được cơ hội. Ông được vợ khuyến khích nên quyết chí bỏ nhà ra
đi tìm minh chủ. Người bạn là Kiển Thúc khuyên rằng, phải rất thận trọng để tìm
được người xứng đáng, vì nếu bị nhầm, vội theo người kém tài, thiếu đức thì rồi
sẽ hối tiếc, sẽ phạm phải một trong 2 tội khi người đó bị thất bại. Tội quá ngu
khi vẫn trung thành với kẻ không ra gì hoặc tội bất trung phản chủ khi họ gặp nạn.
Biết
thế, nhưng Bách Lý Hề không chọn được minh chủ, đành phải nhận làm quan cho vua
nước Ngu. Vì kém trí tuệ và và tham lam mà vua Ngu bị đánh đổ, mất nước. Bách
Lý Hề bị bắt rồi bỏ trốn,
nhưng lại bị quân nước Sở tóm được, bắt làm việc giữ ngựa, chăn trâu.
Lúc
này vua nước Tần là Mục Công đang cầu hiền tài. Có người mách là nên tìm Bách
Lý Hề đang chăn trâu ở nước Sở. Tần mục Công đã nhờ người lập mưu đón được họ
Bách đưa về. Sau khi kiểm tra, biết là người giỏi và đã ngoài 70 tuổi, vua Tần
nói rằng, tiếc thay ông đã quá già. Bách Lý Hề phản biện:
Nếu
đại vương sai tôi đuổi con thú dữ, phá núi, đào sông thì tôi đã già, nhưng nếu
để tôi ở trong màn trướng lo toan việc nước thì tôi còn trẻ hơn Thái Công gần
10 tuổi (*).
Tần
Mục Công đã dùng ông vào chức quan to, ông đã giúp Tần trở thành bá chủ, đã đón
vợ con về đoàn tụ. Vua nước Sở hối hận là đã có được người tài giỏi mà không biết
dùng, lại bắt đi chăn trâu, giữ ngựa.
(*) Ghi chú : Thái Công, tên là Khương Tử Nha,
lúc trên 80 tuổi, ngồi câu trên sông Vị, được
Chu Công đón về tổ chức cuộc chiến lật đổ Trụ Vương, lập nên Nhà Chu kéo
dài trên tám trăm năm.
Chuyện 3- Ninh Thích
Ông
là người tài giỏi ở nước Vệ, sinh trước Công nguyên, thời đầu của Đông Chu Liệt
quốc. Vua nước Vệ vì ngu và tham mà không dùng được ông. Được tin Tề Hoàn Công
là đấng minh chủ, lại có Quản Trọng và Thấp Bằng là những người giỏi giúp sức
nên ông sang nước Tề tìm cách tiến thân.
Nước
Tề vừa trải qua cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Đầu tiên Quản Trọng theo Công Tử
Củ là anh, đánh nhau với Tiểu Bạch là em. Đã có lần Quản Trọng bắn Tiểu Bạch một
mũi tên khiến Tiểu Bạch suýt chết và hận thù đến xương tủy. Kết quả cuộc chiến
Tiểu Bạch thắng, Củ bị chết. Tiểu Bạch trở thành Tề Hoàn Công, rất muốn giết Quản
Trọng, nhưng khi biết Quản trọng là người tài giỏi nên xóa hết hận thù, thu nạp và phong chức Thừa
tướng đứng đầu trăm quan, trên cả Thấp Bằng
là người đã theo Tiểu Bạch từ trước.
Ninh
Thích đến Tề, chưa tìm được cơ hội nên đi chăn trâu cho người ta kiếm kế sinh
nhai. Một hôm biết được Quản Trọng và Tề Hoàn công sẽ đi qua vùng ấy nên Ninh
Thích đem trâu đến chăn gần đường để đợi. Khi Quản Trọng ngồi xe đi qua Ninh
Thích hát to một bài. Quản Trọng nghe được, đoán biết là người tài, cho người
mang rượu thịt đến biếu. Ninh Thích cám ơn và tỏ ý muốn được tiếp kiến. Quản Trọng
đã cho đón Ninh Thích và hai người trò chuyện thân mật. Qua trò chuyện Quản biết
Ninh là người tài giỏi, dặn rằng ta viết một phong thư tiến cử ông với Chúa
Công, ông giữ lấy, vài hôm nữa Chúa công qua đây sẽ đem trình để được thu nhận.
Khi
Tề Hoàn Công đi qua Ninh Thích hát một bài có ý phê phán triều chính. Hát rằng
:
Kìa sông Thương Lang, đá trắng lởm chởm,
Có con cá chép dài một thước hơn.
Nghiêu Thuấn thái bình đã không được gặp,
Áo cộc che thân độ đến ngang lưng,
Ta cho trâu ăn từ tối đến đêm.
Đêm tối mờ mờ, bao giờ thấy sáng!
Tề Hoàn Công nghe thấy lấy làm giận, sai quân
đòi đến. Hoàn Công hỏi họ tên rồi bảo:
- Nhà ngươi là đứa chăn trâu, sao dám gièm chê
việc chính trị?
Ninh Thích đáp : Tôi có dám gièm chê chính trị
đâu.
Hoàn Công nói:
- Ngày nay trên thì có thiên tử nhà Chu trị vì,
dưới thì các chư hầu theo lịnh. Nhân dân vui vẻ, cây cỏ tốt tươi, dẫu đời
Nghiêu Thuấn thái bình chẳng qua cũng chỉ như thế. Vậy mà nhà ngươi dám bảo rằng:
"Nghiêu Thuấn thái bình đã không được gặp", lại bảo: "Đêm tối mờ
mờ, bao giờ thấy sáng". Thế không phải gièm chê chính trị là gì?
Ninh Thích thưa (phản biện) :
- Tôi nghe nói đời Nghiêu Thuấn mưa gió thuận
hòa, dân gian không phải lo sợ gì, chỉ việc cày ruộng mà ăn, đào giếng mà uống.
Đời bây giờ trái lại, giềng mối đổ nát, giáo hóa suy đồi, thế mà bảo
"Nghiêu Thuấn thái bình" thì thật tôi không hiểu được. Vả lại đời
Nghiêu Thuấn trừ bốn kẻ hung ác mà thiên hạ được yên. Từ bấy giờ không phải nói
mà dân tin, không phải giận mà dân sợ. Nay chúa công mới hội chư hầu, đã thấy
nước Tống bội ước, nước Lỗ hiếp thề, chinh chiến quanh năm. Tôi lại nghe nói
vua Nghiêu bỏ con là Đan Chu mà nhường thiên hạ cho ông Thuấn, Thuấn không chịu
nhận bỏ trốn ra Nam Hà, trăm họ rủ nhau mà theo Thuấn. Bấy giờ ông Thuấn bất đắc
dĩ mới lên nối ngôi. Nay chúa công giết anh ruột mà cướp nước, lại mượn uy thiên
tử để sai khiến các chư hầu. Vậy thì tôi không biết có phải là lối vái nhường
nhau như vua Nghiêu, vua Thuấn ngày xưa không?
Tề Hoàn Công nổi giận, quát:- Đứa thất phu dám
nói càn!
Liền truyền quân sĩ dẫn ra chém.
Ninh
Thích bị trói dẫn đi, nhưng vẫn nghiễm nhiên, không sợ hãi, ngửa mặt lên trời
nói: "Ngày xưa vua Kiệt giết Long Bàng, vua Trụ giết Tỷ Can, nay tôi cùng
với hai ông ấy kể là ba người".
Quan Đại phu là Thấp Bằng thưa với Tề Hoàn
Công:
- Người ấy không xu phụ quyền thế, không sợ uy
nghiêm, chẳng phải là kẻ chăn trâu tầm thường đâu. Chúa công chớ nên giết.
Tề Hoàn
Công sực nghĩ lại, cơn giận đã nguôi, bước tới mở trói cho Ninh Thích và nói:
- Ta thử nhà ngươi đó thôi, nhà ngươi thật là người khí phách.
Ninh
Thích bấy giờ mới đem bức thư giới thiệu của Quản Di Ngô dâng lên. Tề Hoàn Công
xem xong, mỉm cười bảo:
- Đã có bức thư của Trọng Phụ, sao không đưa
ngay.
Ninh Thích thưa:
- Tôi nghe nói vua hiền chọn người mà dùng, tôi
hiền chọn chúa mà thờ. Nếu chúa công ghét người thẳng, ưa người nịnh mà nhân
lên cơn giận giết tôi, thì tôi thà chết đi, chớ quyết không đưa thư của quan Tể
tướng làm gì nữa.
Tề Hoàn Công bằng lòng lắm, truyền cho ngồi một
chiếc xe sau. Tối hôm ấy, khi đóng quân lại nghỉ, Hoàn Công sài thắp đèn lên tự
đi tìm mũ áo. Có tên cận thần là Thụ Điêu hỏi:
- Chúa công cho tìm mũ áo có phải muốn phong
cho Ninh Thích chăng?
- Phải.
Thụ Điêu thưa:
- Từ nước ta sang Vệ cũng chẳng xa bao nhiêu,
sao chúa công không cho người sang hỏi dò xem. Nếu thực là hiền, bấy giờ sẽ
phong tước cho, có chi mà vội.
Tề Hoàn Công nói:
- Người này là một bực đại tài không câu nệ những
điều nhỏ nhặt. Hoặc giả khi ở nước Vệ, cũng có vài điều lỗi nhỏ, nếu dò hỏi biết
những điều lỗi ấy chẳng lẽ lại phong tước cho. Còn nếu bỏ đi không dùng thì
đáng tiếc lắm.
Nói xong, ngay đêm hôm ấy phong cho Ninh Thích làm quan Đại
phu, để cùng với Quản Di Ngô trông coi quốc chín
XI–Ba bài phản biện của
Phan Khôi
Bài 1- Bác cái thuyết“Nước Pháp giúp nước Nam về hồi cuối thế
kỷ XVIII”
Thấy bài của M. Trần Huy Liệu biện luận về quốc sử đã đăng ở bổn báo số trước có nhiều chỗ sai lầm thái
quá và lại có giọng tự phụ vô cùng, tỏ ra trình độ học thức có lẽ còn thấp kém
thua một kẻ sơ học, nên ông C.D. không buồn trả lời; song nay ông viết bài này
cũng tựa như là trả lời gián tiếp cho M. Trần Huy Liệu vậy.
Đ.P.
(Tòa kiểm duyệt bỏ hết một đoạn).
Sử sách còn rành rành ra đó, không ai bịt mắt ai được,
mà cũng không ai bưng mồm ai được, có người nói bướng thì phải có người cãi lại.
Sự cải lại ấy không phải là hiếu thắng: chỉ vì, một là yêu lẽ thật, hai là muốn
trừ cái hại cho nước về sau.
Về cái thuyết "nước Pháp giúp nước Nam" nầy,
tôi có thể dẫn chứng trong nhiều sách của người Pháp người Nam chép ra mà đoán
là lời không thật. Tiếc thay, trong khi có một cớ riêng buộc tôi phải vội vàng
viết bài bác luận nầy thì trong tay tôi không có đủ sách mà tra khảo, cho nên
chứng cứ không được dồi dào lắm. Dầu vậy, một chút chơn thực cũng đủ đánh đổ
muôn vàn cái giả dối.
Việc nầy quan hệ với nước Nam nhiều hơn, cho nên phải
lấy sử sách của người Nam chép ra làm chủ yếu.
Sách Đại Nam chánh biên liệt truyện về
truyện Bá Đa Lộc chép rằng:
"Năm Giáp Thìn (1784), mùa thu, vua (Gia Long) lấy
quân Xiêm về đánh Gia Định, bị thua. Vua lại trở qua nước Xiêm, sai người sang
Chơn Bôn vời Bá Đa Lộc về phò Hoàng tử Cảnh qua Tây cầu viện. Ở Tây bốn năm,
người Tây không có thể giúp được ; năm Kỷ Dậu (1789) khi vua đã lấy lại Gia Định
rồi, Bá Đa Lộc bèn đem Hoàng tử Cảnh trở về".
(Xem Đại Nam chánh biên liệt truyện cuốn
28, tờ 8).
Sách Quốc triều chánh biên toát yếu, về
năm Quý Mão (1783) vào năm vua Cao hoàng tức vị tại Gia Định được bốn năm, chép
rằng:
"Vua nghe Bá Đa Lộc ở Chơn Bôn (đất Xiêm), sai
người đi mời về. Bá Đa Lộc là người nước Pháp, thường đi truyền đạo trong các xứ
Chơn Lạp và Gia Định, đã từng đến yết kiến vua, vua lấy khách lễ mà đãi. Lúc đó
mời đến, vua bảo rằng: Vận nước ta đương hồi khốn khó, giặc giã chưa yên, thầy
cũng vẫn biết; bây giờ thầy có thể vì ta đi sứ bên nước Tây, nói với họ đem
binh qua giúp ta không? Bá Đa Lộc bằng lòng xin đi, và hỏi lấy gì làm con tin.
Vua đáp rằng: Con trai ta là Cảnh, lên bốn tuổi, nay ta đem nó mà phó cho thầy,
thầy hãy giữ gìn lấy nó, đường sá xa xuôi, nếu gặp sự ruổi ro gì thì bảo hộ nó
một chút. Bá Đa Lộc vâng lời.
Vua cùng bà phi gạt lệ mà đưa đi. Vua có sai phó vệ uý
là Phạm Văn Nhân và Cai cơ là Nguyễn Văn Liêm đi với".
Về năm Giáp Thìn (1784), chép rằng:
"Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Liêm cùng Bá Đa Lộc phò
Hoàng tử Cảnh qua Đại Tây Dương, đến Tiểu Tây Dương, nghe bên Đại Tây trong nước
có việc, bèn trú lại tại thành Phong-ti-thê-gi (Pondichéry)."
Về năm Bính Ngọ (1786), chép rằng:
"Bá Đa Lộc đem Hoàng tử Cảnh qua Đại Tây, còn Phạm
Văn Nhân, Nguyễn Văn Liêm trở về Mang-cốc tâu cho vua biết."
(Vì bấy giờ vua Cao hoàng đã chạy qua trú ngụ bên nước
Xiêm.)
Về năm Kỷ Dậu (1789), chép rằng:
"Tháng Sáu, Hoàng tử Cảnh ở Tây về. Số là Bá Đa Lộc
đem Hoàng tử Cảnh đi cầu viện, hơn hai năm mới đến nước Tây. Vua nước ấy lấy
vương lễ mà đãi Hoàng tử. Song nhơn vì trong nước có việc ! bèn cho kẻ thuộc hạ
là Nguyễn Văn Thắng và Nguyễn Văn Chấn theo Bá Đa Lộc đưa Hoàng tử về. Về đến
nơi, vua cả mừng, Thắng và Chấn(*) xin ở lại làm tôi tớ, vua bổ cho chức cai đội
và ban cho một ngàn quan tiền".
(Nhẫn lên xem Quốc triều chánh biên toát yếu cuốn
1, tờ 6-7, 9-10, 17)
Cứ như hai sách đó, dầu rằng biên chép sơ lược quá,
song cũng đã là rõ ràng. Nói rằng "người Tây không có thể giúp được"
và nói rằng "nhơn vì trong nước có việc bèn sai người đưa Hoàng tử về"
thì đủ biết lúc bấy giờ nước Pháp không có đem binh lính hay là khí giới gì qua
giúp cho vua Gia Long hết. Nếu quả nước Pháp đã có giúp gì cho vua An Nam ít nữa
cũng phải có chép lấy một vài lời, chứ không có lẽ nào bỏ qua đi được.
Tuy vậy, chúng ta lấy con mắt nhà sử học mà xét thì
hai cái chứng cớ ấy cũng chưa đủ lấy làm tin, vì thường tình cũng có lấy sự
mang ơn kẻ khác làm xấu hổ, hoặc giả nước Pháp có giúp thật mà sử gia An Nam giấu
đi để có phi ơn, cũng chưa biết chừng.
Nếu vậy thì, bước tới một bước nữa, chúng ta hãy tra
xem sách của chính tay người Pháp viết ra.
Sách Việt Nam cận thế sử (Histoire
moderne du Pays d'Annam) của ông văn khoa tấn sĩ Charles B. Maybon chép việc
nầy đầu đuôi rõ lắm song sự tích khí dài không thể dịch y theo nguyên văn mà lục
ra đây được, vậy xin tóm tắt lại như dưới nầy.
Nguyên khi Cao hoàng sai giám mục d'Adran (tức Bá Đa Lộc)
phò Hoàng tử Cảnh qua Pháp thì có phó cho một bức thơ, trong có 14 khoản đại lược
nói nhờ nước Pháp giúp cho 1500 quân và tàu bè súng ống thuốc đạn thì ngài sẽ
nhường cho nước Pháp cửa Hàn, đảo Côn Lôn và để quyền buôn bán trong nước mình
riêng cho nước Pháp chớ không cho nước nào khác bên Âu châu dự vào.
Giám mục d'Adran ở nước An Nam ra đi ngày tháng chạp
năm 1785 đến cuối tháng hai năm sau thì đến Ấn Độ tại Pondichéry. Bấy giờ Coutenceau des Algrains
làm tổng đốc cai trị năm tỉnh của Pháp ở Ấn Độ, giám mục liền nói ngay với ông
nầy xin đem quân sang giúp Cao hoàng. Coutenceau từ chối rằng việc ấy phải chờ
lịnh vua Pháp chớ mình không giám tự chuyên. Rồi d'Adran với Hoàng tử trú lại ở
đó. Sau đó Charpentier de Cossigny sang thay cho Coutenceau cũng không chịu nhận
lời d'Adran, chỉ cho tàu chở cả bọn d'Adran về Pháp mà thôi.
Đầu tháng hai năm 1787 thì d'Adran tới cửa biển Lorient
nước Pháp rồi đến Paris. Giám mục đưa Hoàng tử(**) đi dự các hội hè và đến đâu
cũng cổ động rằng việc giúp vua An Nam là việc nghĩa và cũng có lợi. Người vận
động đến các quan lớn trong triều, nên không bao lâu thì được vào yết kiến vua
Louis XVI. Người hết sức nói cho vua nghe việc cứu vua nước Nam là phải, thì
vua nhận lời. Tháng 11 năm ấy vua Louis XVI ký tờ Pháp Việt giao ước tại
Versailles, song cái quyền thi hành tờ giao ước ấy cũng ví rằng ông nầy ở đó
thì rõ việc nước Nam hơn.
Cũng trong lúc ấy bộ ngoại giao nước Pháp có viết thơ
cho De Conway mà dặn rằng nhà vua đã giao việc nầy cho thì phải cẩn thận, nhứt
là nhà vua đương túng bấn về đường tài chánh mà định bỏ ra 20 vạn đồng bạc để
làm việc nầy thì khí nguy hiểm; vậy phải liệu cử binh mà có lợi thì hãy cử
không thì thôi, đừng làm gì si sứt đến món tiền hai mươi vạn ấy.
Giám mục d'Adran và Hoàng tử Cảnh ở Pháp về, ngày 18
tháng 5 năm 1788 thì đến Pondichéry. Giám mục đến yết kiến De Conway, xin cấp
tiền công cho mình và hoàng tử để tiêu dùng thì ông ấy không cho; và xin phái một
chiếc tàu nhỏ đi báo tin cho Cao hoàng thì cũng trớ(***) và không chịu. Từ đó
hai người không ưa nhau. Khi nào d'Adran nói đến việc cử binh giúp vua An Nam
thì De Conway cũng kiếm lời nói trớ đi, nhứt định không chịu.
Tháng ba năm 1789, d'Adran có được một bức thơ ở Nam Kỳ
gởi sang nói rằng: "Bây giờ Nguyễn chúa đã lấy được năm tỉnh phía Nam rồi,
có nhiều tàu chiến và có thể mộ thêm bảy tám vạn binh; song ngài chỉ ước ao có
một đạo binh lớn nào đến làm thanh viện, cho lòng dân thêm vững". D'Adran
bèn viết thơ xin De Conway gởi cho Cao hoàng một chiếc tàu to, mấy chiếc tàu nhỏ,
một trăm lính pháo thủ, sáu khẩu súng lớn và thuốc đạn, và có nói rằng, về tổn
phí các món trên đó, Nguyễn chúa sẽ chịu cho. Song De Conway cũng không nghe.
De Conway lại còn viết thơ về bộ ngoại giao mà bác lời
d'Adran đi. Vì vậy nên triều đình Pháp mới quyết định không thi hành tờ giao ước
ấy nữa. Việc ấy có chứng đành rành. Một là lời phê của quan Thượng ngoại giao
phê trong tờ bẩm của ông Moracin ngày 20 tháng 7 năm 1788 rằng: "Tôi đã
thay mặt Hoàng thượng tư cho ông De Conway hoãn việc cử binh qua Nam Kỳ rồi".
Hai là bức thơ của Cao hoàng gởi sang Pháp, về đầu năm 1790 trong đó cảm ơn vua
Louis XVI có lòng tốt giúp ngài, song lại nói cho vua biết rằng quan tổng đốc
Pháp ở Ân Độ là người do dự không chịu thi hành các khoản mà vua đã hứa giúp
ngài."
(Nhẫn lên lấy ở thiên thứ V và thứ VI trong sách Việt
Nam cận thế sử).
Thế là việc Cao hoàng sai Bá Đa Lộc phò Hoàng tử Cảnh
sang cầu viện bên nước Pháp rút lại không hiệu quả gì cả. Sách của ông Charles
Maybon chép đây có kỹ lưỡng hơn, song đến chỗ kết cục thì cũng không trái với sử
sách của người An Nam làm ra.
Đến như cái công của Giám mục Bá Đa Lộc đối với Nguyễn
triều thì chúng tôi không hề chối. Chúng tôi cũng nhìn nhận rằng khi Bá Đa Lộc ở
Ấn Độ về, có đem theo các người Tây và tàu bè, súng ống, thuốc đạn để giúp vua
Cao hoàng.
Sử An Nam chép việc nầy rời rạc và không rõ ràng lắm,
không thể trưng dẫn được; song sách của ông Maybon thì chép rõ. Cứ theo sách ấy
thì lúc bấy giờ Bá Đa Lộc nhờ mấy nhà buôn Pháp ở Pondichéry và Ile de France
giúp tiền cho, lại hồi đó vua Cao hoàng cũng đã có tiền để mà chi dụng về việc
quân phí, nên người mới mua được tàu bè súng ống và đưa lần lần về Nam Kỳ.
Đầu hết có tàu La Dryade đến tại đảo Côn Lôn, chở một
ngàn khẩu súng mua cho đức Cao hoàng. Sau có chiếc La Garonne và chiếc Le
Robuste ở Ile de France chở súng đến; trong tàu Garonne có hai khẩu súng đại
bác. Vào mùa thu năm 1789 có chiếc Le Moyse và chiếc Saint-Esprit chở thuốc đạn
và lương thực đến Nam Kỳ. Tháng bảy năm ấy, Giám mục Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh
cũng đáp tàu Méduse về tới nơi.
Bá Đa Lộc có rủ được nhiều người Pháp cùng đến, lắm
người đương có chơn trong đạo hải quân Pháp mà cũng bỏ, đi theo người. Trước hết
có Victor Olivier đến ngày 19 tháng 9 năm 1788 theo vua Cao hoàng. Sau có những
ông J. Baptiste Guillon, Guillaume, Guilloux, Théodore Lebrun, Magon de Médine,
Julien Girard, L'Isle Sellé Vannier, de Forsans, Laurent Barisy và hai người thầy
thuốc là Desperles và Despiau. Có công nhứt là D'Ayot, ông nầy có rủ anh mình
là Félix đến nữa. (Nhẫn lên lấy ở thiên thứ VII trong sách Việt Nam cận
thế sử ).
Bấy giờ thế Tây Sơn đã rúng lắm và kế đến Nguyễn Huệ
đau chết, vua Cao hoàng đã đắc thắng luôn mà lại nhờ có các người Tây và khí giới
tàu bè ấy nữa, nên dễ mà đánh lấy lại đất cũ của chúa Nguyễn và thống nhứt nước
Nam.
Vậy thì, nhơn thấy giám mục Bá Đa Lộc nhờ tiền của mấy
nhà buôn Pháp hoặc lấy tiền của vua Gia Long gởi sang mà mua tàu súng và mộ người
Pháp về giúp vua để đánh lại Tây Sơn, rồi nói rằng đó là nước Pháp giúp, có được
không? Không được, vì đó là mấy mươi người riêng của nước Pháp giúp, chứ không
phải chính nước Pháp giúp. Mấy mươi người ấy hoặc có vì lòng háo nghĩa chăng nữa,
song đã không phụng mạng bổn quốc mình, ăn lương của vua Cao hoàng mà đi đánh
giặc mướn, thì người ta chỉ coi như một bọn lính thuê mà thôi.
(Tòa kiểm duyệt bỏ hết một đoạn)
Nói rằng nước Pháp giúp đi nữa, thì sự giúp ấy cũng chỉ
giúp vua Gia Long mà thôi, nào có giúp gì cho nước An Nam mà hòng kể công với
dân An Nam? Vì bấy giờ, cuộc loạn trong nước Nam chỉ là một cuộc nội tranh, bên
nào thắng thì làm vua đó thôi, còn dân An Nam vẫn cứ làm dân, và nước An Nam
cũng không hề bị mất mà.
Trái lại, phỏng khiến nước Pháp bấy giờ quả quyết thi
hành theo như giao ước mà đem quân sang giúp Cao hoàng, thì có lẽ nước Nam lại
vong quốc ngay bởi nước Pháp trong lúc đó chưa biết chừng. Ừ, quả vậy thì cái
công ơn ấy mới lớn cho! Mà cái giả thuyết ấy có lẽ lắm, vì về việc nước Pháp
không giúp cho đây, một nhà trứ thuật người Pháp là ông Faure có lấy làm tiếc
mà nói mấy lời như vầy: "Giá phỏng bấy giờ chánh phủ Pháp sẵn lòng giúp
Giám mục d'Adran thì có lẽ ông ấy đã lập nên cho nước Pháp thành cuộc bảo hộ ở
nước Nam từ cuối thế kỷ XVIII rồi, không cần về sau phải dùng đến binh lực mới
thành công được."
Cứ lời ấy mà suy, thì sự giúp nhau lại là sự nguy hiểm
lắm. Mà phải, tổ tiên An Nam chúng tôi đã hiểu thấu điều đó nên có đặt ra câu
cách ngôn mà dặn dò chúng tôi rằng đừng có "rước voi về giày mồ"!
[...]
Nước Nam còn được tự chủ già nửa thế kỷ rồi mới bị nước
Pháp chinh phục, sự ấy người An Nam ta nên cảm ơn ai? Có lẽ nên cảm ơn bộ ngoại
giao về đời vua Louis XVI và quan Tổng đốc ở Ấn Độ bấy giờ là ông De Conway mà
thôi. Còn những ông giám mục Bá Đa Lộc, chúa tàu Long, chúa tàu Phụng, vân vân,
đối với nước An Nam, dân An Nam thật không có một mảy ân tình chi hết, dầu mà mỗi
năm đến ngày mồng 2 tháng năm, Nam triều có làm lễ kỷ niệm các ông ấy tại nhà
chung Phú Cam rất trọng thể.
Bây giờ chúng tôi lại cảm ơn ai nữa? Chúng tôi lại còn
cảm ơn ông Charles B.Maybon, vì ông đã viết bộ Việt Nam cận thế sử,
mà lưu lại những tài liệu chơn thật về cuộc Pháp-Việt giao thiệp hơn một thế kỷ
về trước cho chúng tôi, nhờ những tài liệu ấy, chúng tôi có thể đánh đổ những sự
giả dối của mấy nhà làm sử bất công ngày nay vậy.
C.D.
Đông Pháp thời
báo, Sài Gòn,
s.720 (15.5.1928) ;
s.721 (19.5.1928)
-----------------
* Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Văn Chấn là những người Pháp;
sách Quốc triều chính biên…ghi theo họ tên đã Việt hoá của họ sau
khi họ đã trở thành cận thần của vua Gia Long;
** bản gốc là Hoàng nữ, hẳn do in sai, ở
đây sửa lại;
*** trớ: tránh, lảng; nói trớ
đi: nói lảng đi (Từ điển phương ngữ Nam Bộ, sđd.)
Bài 2- Cái dốt của triều đình Huế
Mấy lâu tại triều đình Huế có đặt một sở biên tập để
làm một bộ Hán Việt từ điển.
Họ đã bắt đầu xuất bản một tập rồi.
Tập Hán Việt từ điển nầy chính nhà
biên tập tự gọi là bản thảo, chứ chưa phải sách. Chúng tôi tạm gọi là sách, là
vì nó đã in ra và đóng lại thành tập.
Trong số 20 của tập ấy có lắm cái quái hiện hình ra mà
chúng tôi đã xem thấy.
Trong số 20 nầy thấy mấy người đứng tên biên tập khác
với mấy người đứng ở các số trước, nhứt là ông Hồ Đắc Hàm, thay cho ông Nguyễn
Bá Trác, làm chủ sở biên tập.
Vậy thì, trong số nầy nếu có điều chi sai lầm, người
ta sẽ đổ trách nhiệm cho ông Hồ Đắc Hàm chớ ai?
Chúng tôi nói câu ấy là có ý kêu oan cho ông Hồ, vì
ông có quen làm những việc như là việc biên tập từ điển đâu, mà bắt ông ra làm
chủ, rồi đổ vãi trách nhiệm cho ông!
Những việc của các quan Nam triều làm ra, quá nửa là
việc để cho người ta phì cười!
Tợ hồ như mấy người biên tập Hán Việt từ điển số
20 nầy không hiểu chữ "Từ điển" nghĩa là gì, nhứt là không hiểu chữ
"Từ" nghĩa là gì.
Tôi xin cắt nghĩa:
Từ điển khác với Tự điển. Tự điển mỗi điều(*) chỉ có một
chữ, mà từ điển mỗi điều phải từ hai chữ sắp lên đến sáu bảy chữ. ấy là vì chữ
"Từ" khác với chữ "Tự"
"Từ" nghĩa là lời, "Tự" nghĩa là chữ, hiệp nhiều chữ
lại mới thành lời.
Nhưng không phải hễ thấy lời nào có nhiều chữ mà cho
là "từ" hết thảy được đâu. Phải biết thế nào mới gọi là "từ
" được.
Từ (lời) là hiệp mấy tự (chữ) lại mà thành ra, để chỉ tên một sự vật hoặc một
danh lý, để biểu thị một ý tưởng hoặc một tình cảm của người ta; song, tuy có
nhiều chữ mà đã thành ra như một chữ, và nó có cái vẻ đặc biệt, gần gần như là
một cái điển cố vậy. Tức trong tiếng Pháp gọi là expression(*).
Phải lấy ví dụ cho rõ hơn. Vậy như: Thiênmã thì gọi là từ
được, mà tẫn mã hay dịch mã thì không gọi
là từ được.
Bởi vì, đời vua Võ Đế nhà Hán có được một con ngựa bên Tây Vực hay lắm, bèn
đặt tên là thiên mã, nghĩa là con ngựa của trời, thế thì thiên mã là
tên đặc biệt, cho nên gọi là từ. Và chữ thiên mã ấy đáng để
vào từ điển, vì sau nầy có con ngựa nào hay như con ngựa ấy thì người ta có thể
dựa theo đó mà gọi nó là thiên mã được. Còn tẫn mã là
ngựa cái, dịch mã là ngựa trạm, chẳng qua lấy chữ tẫn chữ dịch ghép
với chữ mã mà thôi, là phổ thông, không phải là đặc biệt, cho
nên không gọi là từ được, và không đáng đem vào từ điển.
Ấy vậy mà trong số 20 của tập Hán Việt từ điển nầy có nhiều
chữ không đáng gọi là từ và không đáng thu vào Từ điển như cái ví dụ "tẩn
mã" và "dịch mã" ấy.
Đại để như: về chữ hưu, điều thứ 4: Hưu mộc sở; về
chữ Nễ, điều thứ 4: Nễ môn Hoàng đế, đều không phải là
từ, mà các ổng cũng cứ việc thu vào.
Nếu là Từ điển mà thu vào những chữ như vậy thì giấy nào mà chứa cho hết,
in mấy mươi đời cho rồi?
Tuy nhiên, mấy điều đó chưa dốt mấy, điều nầy mới là dốt, mới là cực dốt!
Về chữ Hưu, điều thứ 5, tôi xin chép y theo nguyên văn như
vầy:
Hưu số hoang đường: Số tốt rộng lớn. Vương
đào, Trang xuân: Cây đào bà Vương, cây xuân ông Trang, số tốt rộng lớn (bài
tụng của Dực Tôn chúc bà Chương hoàng hậu trong lúc lục tuần đại khánh tiết, ý
muốn chúc cho số bà được rộng lớn lâu dài như cây đào bà Vương và cây xuân ông
Trang) (Đại Nam chính biên hậu phi liệt truyện).
Thiệt rõ ra là các ông biên tập Hán Việt từ điển bướng
quá, bậy quá, và dốt quá!
Có đời nào ai lại cắt nghĩa chữ hưu số là "số tốt"
và chữ hoang đường là "rộng lớn" bao giờ? Có sách
nào, có từ điển nào cắt nghĩa chữ hoang đường là "rộng lớn",
xin hỏi các ông?
Xin các ông chịu khó mà nghe tôi:
Đó không phải là "hưu số hoang đường" như các ông đọc bậy đâu, mà
chính nó là "hưu sổ hoang đường".
Hưu sổ nghĩa là đừng kể. "Vương đào Trang xuân
hưu sổ hoang đường" nghĩa là: đừng kể chuyện hoang đường như chuyện
cây đào của Tây Vương Mẫu và cây xuân của Trang Tử.
Giá phỏng các ông cắt được đúng nghĩa như tôi, là điều nầy cũng không đáng
đem vào Từ điển, vì nó không phải là từ, huống chi các ông lại cắt nghĩa bậy nữa!
Các ông quả là to gan dám cắt nghĩa bậy một câu văn của vua Dực Tôn(**) mà
đem in ra! Chớ nào viện đô sát ở đâu? Chớ nào các quan ngự sử ở đâu?
Chúng tôi chỉ trích như vậy, các ông chắc không còn chỗ nào cãi được nữa,
các ông sẽ nói mềm mỏng rằng đó chẳng qua là bản thảo, còn đợi các nhà văn học
phủ chính lại nữa.
Các ông nói phải! Chúng tôi chẳng có trách nữa làm chi.
Song le, chúng tôi chỉ lấy lòng chơn thành mà trách các quan Nam triều sao
có chuẩn ra mỗi năm hai ngàn đồng bạc để cho các ông vẽ cua vẽ còng như vậy? Ừ!
Tiền cứ ăn, viết bậy cứ viết rồi thiếu chi người phủ chính!
Người An Nam ta từ Nam chí Bắc chán biết cái dốt của các ông biên tập Hán
Việt từ điển bây giờ, chẳng dấu làm chi; song các quan Nam triều nếu
còn muốn giữ thể diện cho triều đình đôi chút thì nên chú ý đến việc nầy, kẻo
ngoại quốc người ta cười lắm. Vì có lẽ các ngài không thèm ngó đến tập Hán
Việt từ điển, không hề biết nó mặt ngắn hay mặt dài, song chúng ta biết rằng
các ông cố đạo cho bộ sách ấy là quan hệ lắm, thường xem xét đến luôn.
C.D.
đăng trong mục "Câu chuyện hằng ngày"
Đông Pháp thời báo, Sài Gòn, s.717
(8.5.1928)
-----------
* expression (tiếng Pháp): thành ngữ, từ tổ cố định;
** vua Dực Tôn (đúng ra là Dực Tông) tức là Nguyễn Phúc Thì tự Hồng Nhậm
(1829-1883), lên ngôi Hoàng đế Đại Nam với niên hiệu Tự Đức (1848-1883), khi mất
được đặt miếu hiệu Dực Tông.
Bài 3- Sự dùng người của chánh phủ
Vẫn biết việc chánh trị của chánh phủ Pháp là
theo lối pháp trị, chớ không theo lối “nhân trị” như triều đình An Nam ngày
xưa. Theo lối pháp trị thì đã có hiến pháp và pháp luật làm thầy cho nên trong
sự dùng người, cứ quý hồ người nào làm được việc thì thôi chớ không cần đến cái
tư cách riêng của người ấy cho lắm. Hay là, muốn nói cho dễ hiểu hơn thì nói rằng
trong sự dùng người chỉ trọng về đằng tài chớ ít trọng về đằng đức.
Vẫn biết vậy rồi, nhưng mà đối với dân tộc Việt Nam
trong sự cai trị, chưa có thể rặt ròng khuynh hướng về phương diện ấy được đâu;
nói trắng ra tức là chưa có thể chuyên dùng lối pháp trị.
Người Việt Nam trải lâu đời ở dưới quyền quân chủ, ở dưới quyền Nho giáo, ai nấy đều trông lên ông quan mà
tôn là một hạng người “dĩ đức hóa dân”; chẳng những coi quan trên như
cha mẹ mà thôi, lại cũng coi như thầy dạy nữa. Cho nên, một ông chủ tỉnh
(Administrateur de la province), theo con mắt người Pháp thì chỉ coi như một ông quản lý của một nhà buôn; song
theo con mắt người An Nam, thì coi là quan hệ với mình lắm, là cha mẹ và thầy
mình.
Theo ý chúng tôi thì làm dân đời nay mà đối với quan lại,
còn có cái quan niệm ấy, là không tốt. Song sự ấy chúng tôi đem mà bàn luận ở
đây(*). Ở
đây chúng tôi chỉ vạch đến chỗ ấy ra, là cốt muốn cho chánh phủ chớ(*) rằng
trong khi dân An Nam còn có cái quan niệm “coi quan như cha mẹ và thầy” đó, thì
còn cần phải dùng lối nhân trị nghĩa là chánh phủ dùng người ra làm quan, cần
phải trọng bên đức hơn bên tài.
Có một lúc, bị tình thế ép buộc, chánh phủ dùng người
không cần “đức”, là lúc xứ nầy mới bị chinh phục vừa xong, người hiền trốn lánh
không chịu ra, mà muôn việc không thể bỏ, thì lúc bấy giờ có tên thợ rèn đã được
làm Tổng đốc, tên buôn gà đã được làm tri huyện. Cái chế độ dụng nhân ấy tạm
thi hành trong hai lần lấy thành Hà Nội (1873 và 1882) nên mới có câu đối rằng:
“Dã tượng tích vi tổng đốc; mại kê kim tác huyện quan”(**).
Chúng tôi đã nói là “tạm hành”, vì biết sự đó là bởi cực
chẳng đã, hồi nhà nước cần có người để sai sử, mà không có người, thì cũng phải
dùng đỡ vậy thôi. Sau khi đó, trong nước được bình yên, nhà nước lại lấy nhân tài ở trong khoa cử hoặc học
đường ra mà dùng.
Tuy vậy, chúng tôi cũng còn thấy những người xuất thân
đê tiện mà được lên làm quan sang. Một anh lý trưởng đã nhảy lên ngôi tứ trụ.
Vài anh bồi cũng đã nhờ có tài năng mọn mạy chi đó mà anh thì làm đến thượng
thơ, anh thì làm đến tuần phủ. Còn mấy ông do chưn thông ngôn ký lục mà bây giờ
cũng “vị cực nhân thần”, thì đem sánh với những hạng trên kia, thiệt đã xứng
đáng lắm, chúng tôi còn nói năng chi.
Chúng tôi không hiểu làm sao đến ngày nay là ngày cuộc
bảo hộ đã yên rồi, mà nhà nước lại còn đem cái “chế độ tạm” hồi trước ra mà thi
hành lại? Sự dùng người lộn xộn như vậy thiệt là làm mích lòng dân nhiều lắm;
mà sự làm mích lòng dân, ai dám bảo là sự không có hại gì cho chánh phủ ư?
Trước hết là đối với bọn sĩ phu. Bọn nầy, thầy của họ
là Khổng Tử, Mạnh Tử, có cái chí khí tự trọng tự cao, ít hay chịu khuất, mà khi
thấy anh bồi hay chú xã nhảy lên làm thầy họ, thì họ chịu sao nổi? Nhà nước chớ ngó thấy một vài kẻ ở trong đám nhà nho ra,
cũng lòn lỏi nơi cửa quyền để nuôi cái thân cho mập, mà tưởng lầm rằng hết thảy
sĩ phu trong nước đều phục cái chế độ ấy. Không đâu; sĩ phu họ vẫn không chịu được cái lối dùng người
đó, mà nhiều sự phiến động cũng có một phần bởi cái duyên cớ ấy mà
ra vậy.
Cho đến hạng dân hèn đi nữa, cũng đừng nên thấy họ ngu
dốt mà tưởng rằng bất kỳ ông quan nào, hễ có bằng sắc của nhà nước thì họ cúi đầu vâng phục hết đâu. Cái người làm cha mẹ, làm thầy
họ, mà không đáng mặt, thì họ đâu có chịu? Há chẳng từng thấy có nhiều dân làng
kiện quan, và đến nỗi có nhiều khi họ khiêng quan đem trả cho nhà nước sao? Hạng
bình dân nầy dễ bị người ta khêu chọc lắm, hễ họ đã sẵn có sự bất bình rồi, thì
gặp có dịp gì một chút, họ sẽ nổi lên làm quấy.
Dùng người không có đức không có tư cách ra để làm lớn
dân, thì cái hại là vậy đó.
Hiện bây giờ đây, ở Bắc kỳ dân sự đương kêu rêu về ông
Vi Văn Định là người Thổ mà làm Tuần phủ Thái Bình. Tờ báo Tây Ami du
Peuple đã viết một bài kể tội ông quan nầy và một bạn đồng nghiệp
chúng tôi là Đuốc Nhà Nam có dịch đăng cách mấy bữa trước.
Theo báo Ami du Peuple thì ông Vi Văn
Định thiệt là người tàn ác hại dân nhiều bề, cho nên dân tỉnh Thái Bình mới có
cuộc biểu tình ngày 1er Mai để phản đối ông ấy.
Chúng tôi chẳng biết cài tài ông Vi Văn Định có những
gì, chỉ biết ông ấy là người kém về đức; vậy mà nhà nước dùng làm một ông quan
chúa tỉnh, theo cái lý thuyết trên kia thì dân sự không phục tình mà phản đối
là phải.
Ngoài cái vấn đề tài đức, lại còn cái vấn đề chủng tộc
nữa. Thái Bình là một tỉnh lớn, thanh danh văn vật giữa trung châu Bắc kỳ, cả
dòng giống An Nam chẳng có một người đủ gánh cái trách nhiệm chúa tỉnh hay sao,
mà lại phải cầu đến một người tôi con của “ngài Điêu”(1) mới
được? Nhà nước không nghĩ kỹ mà làm điều ấy, thiệt đã chích bụng người An Nam lắm
đó.
Đối với dân Chàm, nhà nước cũng
còn nể họ, huyện Tham Lý(*) là huyện rặt những Chàm đó, vẫn dùng người Chàm
làm tri huyện, thì nỡ nào lại dùng một người Thổ để ngồi trên dân An Nam?
Cái vấn đề chủng tộc tuy là quan
hệ mà là đơn độc, vì chỉ có cái “ca”
Vi Văn Định đây thì nó mới phát sanh. Còn cái vấn đề tài đức kia là phổ biến, vì nó bao hàm hết sự dùng người của
chánh phủ, vậy nên chúng tôi xin chánh phủ để ư về chổ đó hơn khi
bê một ông quan địa phương ra, phải
nghĩ đến chỗ cái đức ông ấy có đủ cho dân tình phục không, chớ đừng
kể nội một cái tài đủ cho chánh phủ.
Đã có một lần chúng tôi đem cái ý kiến trên nầy mà bày
tỏ cho một vị thủ hiến bên Bảo hộ ở Trung kỳ nghe. Ngài dạy rằng đã biết vậy rồi,
song trong quan trường An Nam ngày nay hình như ông nào cũng vậy đó, biết đâu
kiếm cho ra người có đức mà dùng! Chúng tôi thưa lại như vầy: “Nếu quả như lời
thượng quan nói đó thì “người” Việt Nam chúng tôi ngày nay đã hóa ra “ma” hết rồi
sao? Không có lẽ”. Vị thủ hiến bèn gật đầu mỉmcười, và nói rằng: “Nhưng lại còn phải biết sự thay đổi
là khó quá!” – Cái đó thì chúng tôi cũng biết rồi, khó quá!(**)
D. PHỤ LỤC 2
MỘT SỐ BÀI PHẢN BIỆN CỦA TÁC GIẢ VỀ
CHÍNH TRỊ
Sau
đây là một số bài chính luận, tôi đã đăng trên một số báo mạng và facebook cá
nhân. Những bài này thuộc loại nhạy cảm mà trong thời gian dài người Việt trong
nước không dám bàn đến mặc dầu ngoài tôi ra
thì cũng có nhiều người khác có hiểu biết sâu sắc và chính xác hơn. Tôi
dám viết ra chỉ vì đã thắng được nỗi sợ
và không bị người trong gia đình kiên quyết ngăn trỏ. Những bài như thế bi một
số người trung thành với chủ nghĩa và ý thức hệ phản đối kịch liệt, mạt sát thậm
tệ. Tôi cam đoan là chỉ dựa trên kiến thức và phương pháp khoa học để phản biện
những điều sai trái chứ không bìa đặt, không lợi dùng quyền tự do dân chủ để chống
đảng hoặc đòi lật đổ chế độ. Nay tôi chép vào sách này, lưu lại để các thế hệ độc
giả tham khảo và đánh giá.
D 1- HÃY NGỪNG LẠI NGAY THÓI NGỤY BIỆN XẢO TRÁ
Tôi vừa đọc bài “Luận cứ
phê phán cho rằng giai cấp công nhân không thể lãnh đạo được cách mạng trong điều kiện ngày nay……”
Tác giả là Đại tá, PGS TS Bùi Đình Bôn, sinh năm 1950.
Đây là một bài đầy rẫy
ngụy biện, là một đống ngôn từ sáo rỗng và dối trá từ đấu chí cuối.
Trước hết xin bàn về
khái niệm lãnh đạo.
Lãnh đạo là một động từ.
Tiếng Pháp là Diriger, tiến Anh là Lead, tiếng Nga phiên âm là Rukơvađit. Sự
lãnh đạo là danh từ. Lãnh đạo có khi còn dùng như bổ ngữ cho một danh từ khác.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về lãnh đạo.
Tôi chưa tiếp cận được với tất cả mọi định nghĩa có trong các ngôn ngữ mà chỉ mới
tham khảo được vài chục định nghĩa có trong các từ điển thông dụng và
Wikipedia. Tất cả điều tôi tìm được chỉ ra rằng lãnh đạo là hoạt động của con
người đối với người khác trong phạm vi ảnh hưởng. Chỉ xin nêu ra vài thí dụ :
+ Lãnh đạo là đề
ra chủ trương đường lối và động viên tổ chức thực hiện.
+ Lãnh đạo là hoạt động mà một người ảnh
hưởng đến những người khác để thực hiện một mục tiêu nào đó, đồng thời hướng tổ
chức tới sự gắn kết chặt chẽ.
+ Lãnh đạo tạo tầm nhìn, hoạch định chiến lược, quản lý đội
nhóm bằng tầm ảnh hưởng của mình.
+ Lãnh đạo là dìu dắt và điều khiển công việc của
một tổ chức để đạt được những mục tiêu mong muốn".
[Từ điển
Bách khoa Việt Nam ( tập 2-xuất bản năm 2002) (*) không có mục từ Lãnh đạo,
trong khí có các mục Lãnh chúa, Lãnh địa, Lãnh hải- trang 640]
Như vậy lãnh đạo là hoạt
động của một hoặc một vài con người cụ thể chứ không phải là hoạt động hoặc nhiệm
vụ của một tổ chức, càng không phải là của một giai cấp..
Thế mà không biết từ
đâu ra khái niệm “Giai cấp lãnh đạo”, gán cho giai cấp công nhân (GCCN). Phải
chăng đây là một sự bịa đặt và gán ghép của một ai đó có danh vị, rồi nhiều người
khác nói theo như vẹt và thành thói quen. Đến nỗi trong Từ điển Bách khoa Việt
Nam cũng viết : “Trong chế độ chủ nghĩa xã hội GCCN lãnh đạo chính quyền- (*-
trang 103).
Tôi cho rằng mệnh đề
“GCCN làm lãnh đạo” là một sự bịa đặt, đã lừa dối được nhiếu triệu người, kể cả
những người có tri thức cao, nghe theo và nhắc lại như vẹt. Không phải chỉ
trong điều kiện ngày nay mà cả trong lịch sử, GCCN chưa bao giờ lãnh đạo ai cả,
không thể lãnh đạo ai cả.
TS Bôn mở đầu bài viết:
“Một trong những cống hiến vĩ đại nhất của Chủ nghĩa Mác Lênin là phát hiện
và làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của GCCN, giai cấp tiên tiến nhất, triệt để cách
mạng nhất, giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động
bị áp bức, bóc lột, tiến hành cách mạng vô sản….GCCN đại biểu cho lực lượng sản
xuất tiên tiến nhất, nó là lực lượng quyết định phá vở quan hệ sản xuất cũ, là
giai cấp đại biểu cho sự tiến bộ của lịch sử, là giai cấp duy nhất có khả năng
lãnh đạo một phương thức sản xuất mới cao hơn”.
Về GCCN Việt nam, TS
Bôn viết “Vai trò lãnh đạo của GCCN Việt Nam được củng cố và giữ vững trong
những năm đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong thực tiễn vai trò tiên
phong của GCCN VN đã và đang được thể hiện trên tất cả các mặt của đời sống xã
hội”.
Không biết
viết ra những điều như trên TS Bôn có dựa vào những luận cứ có thực, có tự tin rằng đó là những sự thật
hay là chỉ nhắc lại như con vẹt những điều đã được ai đó bịa đặt ra và đem nhồi
sọ, tẩy não cho những người ngu tín, ngu trung.
Chỉ xin
thảo luận một điều. Liệu có phải GCCN là đại diện cho nến sản xuất công nghiệp
tiên tiến. Không phải. Cho như thế là một nhầm lẫn lớn, do thiếu trí tuệ mà lẫn
lộn giữa hiện tượng với bản chất hay là do thủ đoạn đánh tráo khái niệm. Về
việc vạch ra GCCN không thể nào là đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến,
tác giả Tân Tử Lăng đã chứng minh rất rõ ràng, chặt chẽ trong sách “Mao Trạch
Đông- Ngàn năm công tội”. Để tránh dài dòng tôi xin không lặp lại ở đây chứng
minh của Tân Tử lăng với hy vọng rằng những người có suy nghĩ bình thường
(không bị nhồi sọ) đề có thể hiểu được tầng lớp nào mới thật sự đại diện cho
lực lượng sản xuất tiên tiến, chứ nhất thiết không phải là công nhân, những
người chủ yếu chỉ thực hiện một số thao
tác trong dây chuyền sản xuất. Đúng là công nhân sử dụng máy móc, công nghệ để làm ra nhiều
sản phầm, nhưng hoạt động của họ chỉ hạn chế chủ yếu trong việc kết hợp với máy
móc. Ngày nay rất nhiều hoạt động của công nhân được rô bôt đàm nhận. Không có
công nghệ và máy móc bản thân công nhân không thể làm ra sản phẩm công nghiệp.
Ở cuối bài
TS Bôn viết : “Đảng và Nhà nước cần có biện pháp hữu hiệu để củng cố, chăm
lo xây dựng GCCN VN vững mạnh, chăm lo xây dựng bộ phận lãnh đạo của mình vững
mạnh về mọi mặt.”.
Ô hô !
Giai cấp lãnh đạo làm sao, đến nỗi nào mà cần người khác chăm lo. Phải chăng họ
đang tháo chạy về quê để khỏi phải chết vì đói trước khi chết vì dịch bệnh
covid (tháng 6 và tháng 10 năm 2021)
Trước đây nghe Tổng bí
thư Nông Đức Mạnh nói về sứ mệnh lãnh đạo cách mạng của GCCN VN tôi đã bị ớn lạnh,
nhưng cho qua khi nghĩ rằng ông ta chỉ có trình độ để nói như vậy. Gần đây, tại
Đại hội Công đoàn VN lần thứ XII (25 tháng 9/2018) ông Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng vài lần nhắc đến GCCN VN đại diện
cho nền sản xuất tiên tiến và là giai cấp lãnh đạo làm cho tôi không nhịn được cười .
Rồi ông chăm chú nhìn
vào bài viết sẵn và đọc : “Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, chúng ta tiếp
tục kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng….;
giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại; giai cấp tiên
phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội … ..Nhân dịp này, tôi cũng đề
nghị các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội các cấp cần quán triệt sâu sắc, nâng cao nhận thức, trách
nhiệm đối với việc chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục và phát huy vai trò, tiềm năng
của giai cấp công nhân Việt Nam”.
Giai cấp lãnh đạo gì
mà đời sống cơ cực, trình độ thấp kém đến
nỗi phải nhờ người khác chăm lo, giáo dục. Rồi nữa, ông Trọng còn than thở : “Hiện
nay xã hội vẫn băn khoăn trước tình trạng một bộ phận công nhân, người lao động
có biểu hiện phai nhạt về chính trị, chỉ lo nhiều đến những vấn đề lợi ích kinh
tế, đời sống cụ thể trước mắt, ít quan tâm đến những vấn đề cơ bản, lâu dài, có
tính chiến lược như ý thức giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, vai trò, sứ mệnh
lịch sử, trách nhiệm của giai cấp công nhân.. “.
Giai cấp lãnh đạo mà
như thế thì lãnh đạo được ai, làm được gì. Phải chăng những điều ông TS Bôn viết
ra là từ nhận thức sai lạc của mình hay là lặp lại như vẹt lời của các ông TBT
đảng.
Xin hãy nhìn vào sự thật.
Tuy rằng dân trí chưa cao nhưng không còn quá thấp để chấp nhận những lời ngụy biện và lừa bịp. Nói, viết ra những điều
như trên chỉ chứng tỏ sự kém cỏi về trí tuệ hoặc sự đểu giả, định tiếp tục lừa
bịp những người nhẹ dạ cả tin. Thực tế không hề có giai cấp lãnh đạo, nó chỉ là
một khái niệm giả dối, thực tế GCCN không hề đại diện cho nền sản xuất tiên tiến, người ta bịa ra và dùng để lừa bịp nhau. Đành
rằng việc lừa bịp này chẳng ảnh hưởng mấy đến sự phát triển của xã hội, nhưng
cũng xin vạch ra nhằm cảnh báo một hiện tượng để mọi người suy nghĩ.
D2- PHẢN BIỆN ĐƯỜNG
LỐI CÁN BỘ CỦA ĐCSVN
1-Đặt vấn đề
Lãnh đạo ĐCSVN đang
loay hoay với vấn đề cán bộ (CB), đặc biệt là CB cấp chiến lược. Họ khát khao
có được đội ngũ CB vững mạnh, nhưng càng
ngày thực tế càng xa rời mong ước, càng phát hiện ra nhiều CB thoái hoa biến chất,
làm mất lòng tin của dân, làm ruổng nát tổ chức, làm lung lay sự lãnh đạo. Họ tìm đủ trăm phương
ngàn kế để quy hoạch, lựa chọn, đào tạo, đề bạt, giám sát CB, xây dựng và làm
trong sạch tổ chức, nhưng chủ yếu vẫn không đạt được . Vì sao vậy?. Phải chăng
vì kém trí tuệ và kiêu ngạo mà họ đã chọn
chủ thuyết có nhiều độc hại để tôn thờ,
làm việc trái ĐẠO TRỜI và LÒNG
NGƯỜI. Như thế càng quẩy đạp càng chui
sâu vào đống bùng nhùng không lối thoát.
Thực tế cuộc sống, lịch
sử và sách báo đã giúp tôi suy nghĩ,
chiêm nghiệm, nhận thức về việc làm CB, hoặc theo cách nói dân giả là làm quan.
Tôi đề ra thuyết Tam đại và Tam ủng cho việc làm quan (Tam Đại là Đại Nhân, Đại
Nghĩa, Đại Sự. Tam Ủng là sự ủng hộ của 3 cấp ), cũng đã viết vài bài tiểu luận, một số phản biện về
nghị quyết, quy định của ĐCS VN liên
quan đến công tác CB. Phản biện này chủ yếu là tập hợp những điều tôi đã viết
và công bố, cộng thêm một số suy nghĩ và phát hiện gần đây. Tôi viết nhân dịp
nghe nói trung ương Đảng họp lần thứ 9 vào cuối tháng 12/2018 để thảo luận về
công tác cán bộ.
Sự suy nghĩ, hiểu biết của một con người là có
hạn và chắc rằng những điều được viết
trong bài này cũng được nhiều người suy
nghĩ, hiểu biết và bàn luận. Tôi trình bày
các ý kiến của cá nhân, hy vọng
có thể gợi ra vài tham khảo hoặc phản bác.
2-Gốc gác của mọi vấn đề
Chủ nghĩa Mác Lê nin (
CNML) là gốc gác đường lối CB của CS.
Lãnh đạo ĐCSVN quá tin vào nó, kiên trì nó phải chăng vì chỉ thấy mặt tích cực
giả tạo của nó mà không thấy được những độc hại có thật do nó gây ra. Phải
chăng vì một thời được học, được nhồi sọ CNML rồi tự bịt mắt, tự bưng tai,
để không thấy thực tế, không nghe sự thật, rồi còn bịt mồm người khác,
không cho phản biện. Hay còn lý do nào
khác. Có thể một số nào đó biết rõ độc hại
của CNML, nhưng cố tình lợi dụng nó để
vinh thân phì gia, để thi hành mưu sâu kế hiểm.
ĐCSVN đã từng là đảng
cách mạng, nay trở thành một đảng chính
trị, cầm quyền . Cần thay đổi tổ chức cho phù hợp với nhiệm vụ mới. Thế mà họ
không nhận thức được, vẫn khăng
khăng tiếp tục như cũ, tự tạo ra mâu thuẩn
không sao khắc phục được.
ĐCSVN tự cho mình quyền
lãnh đạo toàn diện, đặc biệt là quyền
quyết định về CB. Đó là cướp quyền của dân. Họ bày ra trò dân chủ giả hiệu
trong bầu cử để lừa mọi người và tự lừa
mình.
Đó là đống bùng nhùng lớn
mà ĐCSVN đang vướng phải. Không chịu tìm cách thoát ra mà vẫn lăn lộn trong đó
thì không có cách nào tạo được đội ngũ CB
tài giỏi và liêm khiết, nói gì đến việc có thể nêu gương.
3- Về tiêu chuẩn CB.Có thể quy CB về 2 loại theo nguồn
gốc : được bầu và được tuyển. Tiêu chuẩn ( TC) chung nhất cho CB là Tài và Đức
(CS gọi là Hồng và Chuyên). Tuy vậy nhận thức và vận dụng trong từng giai đoạn
có khác nhau.
Hồ sơ quan trọng nhất
là lý lịch. Đã từng có thời tổ chức chỉ xét người theo lý lịch. Nhờ lý lịch
sáng đẹp một số kẻ ngu dốt và lười biếng đã trở thành ông nọ bà kia. Vì lý lịch
có tỳ vết mà nhiều tuổi trẻ tài năng ôm hận chịu vùi dập.
Đối với CS tiêu chuẩn
quan trọng nhất có lẽ là Trung thành. Với một đảng hoạt động bí mật, một quân đội thì trung thành là bắt buộc, nhưng đảng chính
trị cầm quyền không thực sự cần. Tổng thống Trump của Mỹ đã vào đảng Dân chủ, bỏ
Dân chủ, vào Cộng hòa, bỏ Cộng hòa gia nhập đảng Cải cách, bỏ Cải cách để trở lại
vào Dân chủ. Lại bỏ Dân chủ quay về với Cộng hòa. Thế mà chẳng thấy ai quan tâm
đến sự không trung thành của ông ta. Chỉ có kẻ độc tài mới đòi hỏi cao sự trung
thành. Mọi thể chế dân chủ không đòi hỏi trung thành với đảng phái chính trị.
Tiêu chuẩn phải làm qua
CB cấp dưới đủ thời gian nào đó mới được đề cử, ứng cử lên cấp trên. Tôi gọi đó
là cách leo trèo mà không chấp nhận bước nhảy. Sự phát triển tiệm tiến, trèo dần
từng bước là bình thường, nhưng cần có
những bước nhảy dành cho những tài năng vượt bậc. Loại bỏ bước nhảy có tác hại
ngăn trở tài năng.
Tiêu chuẩn đã có nhiều
thành tích và kinh nghiệm là khá thiển cận, ngăn trở việc tìm kiếm những năng lực
tiềm ẩn. Chọn CB là để người đó phát huy năng lực, làm những việc mới chứ không
phải để họ lặp lại những công việc đã làm. Đành rằng qua việc đã làm thì có thể
đánh giá năng lực. Nhưng đó là năng lực trong quá khứ. Giữa một người có nhiều
thành tích mà đã cạn tiềm năng và một
người tuy chưa có thành tích ( vì
chưa được làm), nhưng có nhiều tiềm năng thì rất nên chọn người có tiềm năng. Ở
đây có cái khó là người chưa làm, chưa có thành tích, sao mà biết được họ có tiềm
năng. (điều này sẽ bàn sau, trong mục 4 và 5).
Nếu cứ phải qua cấp dưới, cứ phải có thành
tích thì Lưu Bị không bái Khổng Minh làm quân sư, chúa Nguyễn Phúc Nguyên không
phong cho Đào Duy Từ chức Nha úy nội tán, Tề Hoàn Công không phong đại phu cho
người chăn trâu Ninh Thich, Những người vừa kể đã làm nên sự nghiệp lẫy lừng
trong lịch sử. Và gần đây, nếu theo yêu cầu phải leo trèo dần qua các chức vụ
thì dân Mỹ không bầu Trump làm Tổng thống,
QĐ số 90 nêu ra nhiều tiêu
chuẩn cụ thể cho từng loại cán bộ. Cụ thể đến vụn vặt. Đó là một QĐ chứa nhiều
điều vô minh. Nhiều TC đưa ra là những tính cách thông thường, cần thiết cho bất
kỳ một con người lương thiện nào, thí dụ : trung
thực, khiêm tốn, chân thành, trong sáng, cần, kiệm, liêm chính v.v…Nhiều TC là thông thường
đối với bất kỳ cán bộ hoặc đảng viên nào, thí dụ : Kịp thời phát
hiện những mâu thuẫn, chủ động đề xuất những nhiệm vụ giải pháp có tính khả thi
và hiệu quả, năng động, sáng tạo, cần
cù, chịu khó, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; nói đi đôi với làm; gắn
bó mật thiết với nhân dân và vì nhân dân phục vụ ; được cán bộ, đảng viên,
quần chúng nhân dân tin tưởng, đủ sức khỏe để thực hiện nhiệm vụ; Có tinh thần
yêu nước nồng nàn v.v… Đưa ra nhiều đức
tính mà người lương thiện bình thường, CB bình thường cần có để gán cho cán bộ cấp cao là phạm vào lỗi tầm thường hóa. Riêng các TC
quan trọng dành riêng cho CB cũng khá mơ hồ .
TC « Tuyệt đối trung
thành với lợi ích của Đảng ». Đây là một khái niệm mơ hồ vì chưa thấy một
văn bản nào định nghĩa lợi ích của Đảng gồm những thứ gì. Thỉnh thoảng có được
nghe giải thích, ngoài lợi ích của dân tộc thì Đảng không còn lợi ích nào khác.
Bây giờ lại có “ lợi ích của Đảng ». Việc trung thành này có gì khác so với
trung thành với các lãnh đạo chóp bu. Trong điều lệ không thấy viết gì về lợi ích của Đảng.
Về TC «Tuyệt đối không tham
vọng quyền lực » . Vấn đề quan trọng không phải là tham hay không tham quyền
lực mà người ta định dùng quyền lực để làm gì, tương quan giữa năng lực và quyền
lực có phù hợp không. Nếu lên án sự tham vọng quyền lực chung chung thì những ứng
viên tổng thống của tất cả các nước đều bị lên án và loại bỏ.
TC “Kiên định Chủ nghĩa
Mác-Lênin (CNML)” thể hiện sự vô minh rõ ràng nhất. Một mặt bắt kiên định CNML,
mặt khác đề ra TC năng động sáng tạo.
TC “ Tốt nghiệp đại học trở
lên” thể hiện cái nhìn thiển cận về bằng cấp, sự vô minh về cách đánh giá trình
độ.
TC” Sẵn sàng hy sinh vì sự
nghiệp cách mạng của Đảng”. Hỏi rằng hiện nay Đảng đang định làm cách mạng gì nữa
trong lúc khẳng định là đảng cầm quyền.
TC “Có trình độ cao
về lý luận chính trị, xây dựng Đảng” là một TC mơ hồ. Những lý luận theo CNML,
đường lối xây dựng đảng theo CNML đã tỏ ra quá lỗi thời, quá lạc hậu. Ai ðánh
giá trình độ này. Liệu có dám đối thoại công khai để thể hiện trình độ này cho
toàn dân biết không.
Ngoài QĐ 89 và 90 ngày 4/8/2017 còn có
các vãn bản liên quan nhý QÐ số 105, ngày 19/12/2017 về
phân cấp quản lý cán bộ. QĐ số 147 và 148 ngày 25/10/2018 lập Ban chỉ đạo xây dựng
quy hoạch CB cấp chiến lược, kế hoach số 11 ngày 6/11/2018 của Bộ chính trị về
hoạt động của Ban chỉ đạo. Nhận thấy các QĐ về TC chưa đủ mạnh, còn cần thêm
các QĐ về nêu gương, ngày 7/6/2012 có QĐ
số 101, ngày 19/12/2016 có QĐ số 55 và ngày 25/10/2018 có QĐ số 08. Nêu gương
cũng chưa đủ, phải ra thêm những QĐ về kỷ luật và những điều cấm kỵ.
Những văn bản vừa dẫn,
phần nhiều là những rừng ngôn từ, nó làm cho nhiều người bị choáng ngợp . Nhưng
đọc và phân tích kỹ mới thấy phần lớn chỉ là một mớ tạp nham, thể hiện trình độ
thấp kém của người soạn ra và xét duyệt.
Trong nhiều nước dân chủ, tiêu chuẩn bắt
buộc của ứng viên, dù là nghị sĩ hay tổng thống thường chỉ có hai. Đó là tuổi tối
thiểu ( không hạn chế tuổi tối đa) và thời gian tối thiểu có quốc tịch và cư
trú. Thế còn phẩm chất , năng lực, uy tín, đạo đức… có cần không. Cần quá đi chứ
và đó mới là thật sự quan trọng, nhưng không ai đề ra tiêu chuẩn cho ai hết. Cử
tri sẽ đánh giá thông qua việc vận động, tranh cử, đối thoại công khai. Người
tuyển chọn sẽ đánh giá khi phỏng vấn trực tiếp. Ở Singapore Lý Quang Diệu trước
đây chỉ đề ra 2 tiêu chí để chọn người vào các cơ quan chính quyền là có tài
năng và liêm khiết.
4- Bầu cử và quy hoạch
Quan trọng nhất trong bầu cử là danh
sách ứng viên gồm những người ứng cử. Có thể ban đầu, ai đó được đề cử, nhưng
khi chấp nhận sự đề cử họ trở thành ứng cử. Các ứng viên sẽ tranh cử bằng
chương trình hành động với 2 vấn đề chủ yếu : sẽ làm gì và làm như thế nào.
Ở Việt Nam, dưới thể chế CS việc bầu cử
trong Đảng hoặc các cơ quan quyền lực nhà nước từ cấp phường, xã trở lên phần lớn
chỉ là dân chủ giả hiệu (trừ việc bầu tổ trưởng dân phố và trưởng thôn là còn
tương đối có dân chủ). Một việc làm tưởng rằng hay, rằng đúng nhưng lại ẩn chứa
sai lầm lớn, đó là cấp ủy nhiệm kỳ cũ quyết định danh sách ứng viên cho nhiệm kỳ
mới. Đúng ra họ chỉ được phép lập danh sách ứng viên mà không có quyền quyết định.
Rõ ràng nhẩt là Bộ chính trị khóa trước quyết định danh sách các CB chủ chốt của
Đảng và của Nhà nước trong nhiệm kỳ sau. Bầu cử kiểu gì mà chưa bầu người ta đã
biết chắc ai sẽ trúng và làm chức nào.
Người trước chọn người sau kế nghiệp chỉ
xẩy ra trong chế độ quân chủ và độc tài. ĐCSVN gọi là Làm quy hoạch CB. Việc đó
tưởng là quá hay, nhưng không phù hợp. Tại sao vậy ? Nhiều người nắm quyền lực có một tâm lý muốn người khác theo
mình, giống minh vì thế mà thích chọn ra những kế nghiệp có cùng quan điểm. Để xã hội tiến lên đòi hỏi thế hệ sau phải
hơn thế hệ trước, phải phát hiện và sửa chữa được sai lầm của thế hệ trước. Vậy
trước hết không nên đặt tiêu chuẩn chọn người để kế tục những việc làm của mình ( trong đó có việc thực ra là sai mà
mình tưởng nhầm là đúng ) mà rất nên chọn người biết cách phát hiện và khắc phục,
sửa chữa những cái sai mình phạm phải. Sẽ là rất khó để một người đang có chức
quyền tự nhận ra cái sai, cái kém của mình, tự phủ định mình, để chấp nhận, để đề bạt người khác có tài
năng hơn nhưng có một vài quan điểm khác. Quá khó, may ra chỉ một số ít những bậc
hiền nhân mới có thể làm được. Đây là lý
do để việc quy hoạch cán bộ khó tìm được người thực tài mà dễ tìm được kẻ cơ hội
vì bọn chúng biết phô ra năng lực giả tạo và che đi mục đích ẩn dấu, còn người
thực tài thường thể hiện trung thực sự bất đồng quan điểm và vi phạm vào tiêu
chuẩn tuyệt đối trung thành, bị loại ngay từ đầu.
Hiện nay một tệ nạn đang ngấm ngầm hoành hành là
nạn mua quan bán tước. Tệ nạn này tạo ra môi trường độc hại nhằm dung dưỡng những kẻ cơ hội có tiền
và loại bỏ những người trung thực có tài.
Nạn mua bán quan tước và danh vị là do tệ tham nhũng sinh ra. Tệ tham
nhũng lại được sự độc quyền nuôi dưỡng. Trong môi trường như vậy mà tìm cách quy hoạch cán bộ thì không khéo
“tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa”. Từ chỗ chạy chức chạy quyền sẽ chuyển thành chạy
chỗ trong quy hoạch. Rõ ràng là phải chiếm được một chỗ trong quy hoạch thì mới
mong tìm đường tiến thân. Cách làm như vậy chỉ thích hợp với kẻ cơ hội có tiền,
không thích hợp với người có thực tài , biết tự trọng. Gặp môi trường không
trong sạch thì người có thực tài sẽ tìm lối thoát thân bằng cách nhập vào dòng
“ chảy máu chất xám” hoặc ôm hận chờ thời chứ không chịu xin một chỗ trong quy
hoạch.
QĐ
105 với 5 bước tuyển chọn ứng viên ( phụ lục 2) và kế hoạch 11 (ngày 6/11/2018)
với 4 điểm mới trong cách tiến hành, trong đó có đổi mới quy trình và coi trọng
bản lĩnh chính trị, được nhiều nhà lý luận
CS ca ngợi là bài bản, chặt chẽ, công tâm, loại bỏ được bon tự diễn biến và bọn
bất tài kém đức là con ông cháu cha, tránh được tệ nạn chạy chức chạy quyền, chạy
quy hoạch. Bài bản, chặt chẽ, công tâm chỉ là hình thức, có làm thật mới biết
bên trong còn ẩn dấu một số chước quỷ mưu ma. Loại được bọn tự diễn biến, bọn bất
tài con ông cháu cha là có thể, nhưng rất khó dẹp được nạn chạy quy hoạch, nó sẽ
biến tướng ngày càng tinh vi. Nhưng quan trọng nhất là rất khó chọn được người
thực sự có tài năng. Họ đã bị loại hoặc tự loại từ vòng đầu.
Trong
bầu cử, để cho cử tri biết và đánh gia tiềm năng của ứng viên thì tổ chức bầu cử
phải tạo điều kiện để ứng viên trình bày chương trình hành động ( sẽ làm gì và
làm như thế nào), quan điểm về các vấn đề quốc kế dân sinh, đối thoại trực tiếp
với cử tri hoặc với các ứng viên khác. Trình bày chương trình hành động chứ
không phải báo cáo thành tích, đối thoại trực tiếp chứ không phải tuyên truyền
và hô khẩu hiệu.
Ở
VN, bầu Quốc hội là đảng cử dân bầu, trong đảng thì người cũ cử để bầu người mới
(cũ là cấp ủy hết nhiệm kỳ, mới là cấp ủy sẽ được bầu). Không có vận động công
khai, không có tranh cử. Kiểu bầu cử như thế vừa phản dân chủ, phản tiến bộ, phản
khoa học.
5- Tuyển chọn và đề bạt
QĐ 105 khẳng định : Đảng
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Từ việc cử người
đứng đầu các cơ quan chính quyền như Chủ tich nước, chủ tịch Quốc hội, thủ tướng,
các bộ trưởng cho đến chủ tịch UBND xã, phường, việc phong tướng tá của quân đội và công an, nhất nhất đều do đảng quyết định. Quốc hội và
các Hội đồng nhân dân chẳng có quyền hành gì, chỉ có việc bỏ phiếu theo gậy chỉ
huy. Như vậy đảng đã cướp quyền của Quốc
hội và của toàn dân trong công tác cán bộ, trắng trợn vi phạm Hiến pháp. Việc
các ông bà đặt tay lên Hiến pháp, đọc lời thề theo mẫu, tại Quốc hội, chỉ là
trò hề .
Ở các cơ quan, quyền
hành về cán bộ phụ thuộc chủ yếu vào trưởng phòng ( ban, vụ…) tổ chức.Thỉnh thoảng
ở một vài nơi hiếm hoi nào đấy có được vị trưởng như thế có trình độ, có phẩm
chất tốt, đã giúp cho cơ quan tạo được đội ngũ nhân sự vững mạnh. Nhưng phần lớn
cán bộ tổ chức thiếu những phẩm chất cần thiết. Tổ chức là làm việc với con người,
nhưng chủ yếu họ làm việc với giấy tờ, họ xét lý lịch và đánh giá phẩm chất con
người thông qua tuổi đảng, các chức vụ đã làm, các bằng cấp cùng chứng chỉ, và
đặc biết thông qua quan hệ cá nhân cùng các thư tay của các anh chị ở trên. Tại
sao như vậy. Tại vì phần lớn CB tổ chức được cho là cần có lập trường giai cấp
vững vàng còn trình độ chuyên môn thì phiên phiến cũng được. Không thể trực tiếp
tìm hiểu, kiểm tra về chuyên môn nên đành phải dựa vào bằng cấp hoặc chứng chỉ.
Đó là chỗ sơ hở lớn cho bọn làm và dùng bằng giả hoặc bằng dởm.
Thời phong kiến nhà vua
dùng các phẩm hàm từ nhất phẩm đến cửu phẩm để ban cho những người có một công
lao hoặc vị thế nào đó. Những ông cửu phẩm, bát phẩm chỉ là danh xưng, không phải chức vụ. Thế
nhưng dưới chế độ CS, một thời người ta đã đem chức vụ trao cho người có công
như là một phần thưởng, một quyền lợi. Ông này đã hoạt động bí mật, bị Pháp bắt
ở tù, vậy để ông ta làm chủ tịch huyện hoặc tỉnh. Ông kia, bộ đội chuyển
ngành, đã là cán bộ trung đoàn, vậy phải để ông làm giám đốc xí nghiệp, hiệu
phó trường đại học hoặc vụ trưởng v.v….
NHững người như vậy một thời đã kìm hãm sự phát triển. Họ được giao chức vụ
nhưng không có năng lực làm việc, biến thành “ông bình vôi” ( chữ cuả Phan
Khôi). Đáng lẽ vì công việc mà tìm người,
nhưng trong nhiều trường hợp đã vì người mà bịa ra việc.
Ứng viên trong việc tuyển
chọn cần được cơ quan hoặc CB tuyển chọn tạo điều kiện để thể hiện năng lực tiềm
ẩn và trước hết họ cần chuẩn bị để thể hiện năng lực đó trong phỏng vấn, trong
kiểm tra, trong thử việc. Bạn có thể chuẩn bị một lý lịch trong sạch và sáng ngời,
một hồ sơ thật đẹp với nhiều bằng cấp, nhiều chứng chỉ và cả thư tay, kèm phong
bì dấu kín để nộp cho một ông CB tổ chức , nhưng để dự phỏng vấn trực tiếp , do
người có trình độ chủ trì, bạn cần thể hiện con người thật của bạn.
Rồi việc tăng lương,
thăng cấp hàm. Đúng ra việc này phải dựa vào kết quả công việc và năng lực,
nhưng như thế lại cần đến trình độ người đánh giá. Mà người đánh giá lại không
có trình độ cần thiết nên đành phải dựa vào bằng cấp và thời gian công tác. Cái
việc khuyến khích “sống lâu lên lão làng”, không làm gì cũng 3 năm tăng lương,
3 năm tăng bậc là việc làm kém trí tuệ,
kém hiệu quả, cứ tưởng là hay, là đúng, nhưng nó làm chậm sự phát triển.
6-Hiến kế
Tôi biết, lãnh đạo chủ
chốt của đảng không muốn nghe những phản biện, những hiến kế của người nói thẳng.
Họ chỉ thích nghe những lời tâng bốc nịnh hót. Tôi cố tìm những lời không tâng
bốc nịnh hót, vẫn nói lên được ý kiến của mình mà lãnh đạo vẫn vui lòng lắng
nghe. Nghĩ mãi mà không tìm ra được. Thôi thì cứ viết theo ý mình, ai nghe được
đến đâu hay đến đó.
Đảng muốn có được đội
ngũ CB giỏi giang, vững mạnh, đặc biệt là CB cấp chiến lược, thì trước hết phải
thoát ra khỏi đống bùng nhùng viết ở mục 2.
Làm sao để thoát ra được.
Trước hết phải tự chân thật với chính mình. Liệu khi tuyên bố câu : “ Ngoài lợi ích của dân tộc Đảng không còn lợi
ích nào khác” có thật lòng không. Liệu từ TBT, Bộ CT cho đến các đảng viên có
nghĩ đúng như vậy không. Nếu đó chỉ là mánh khóe, là tuyên truyền, nói vậy
nhưng không phải vậy, thì thôi, không
bàn thêm. Nếu thật lòng như vậy thì hãy nghiêm túc thảo luận tiếp, hiện nay lợi
ích của dân tộc là gì, hãy để cho tự do ngôn luận.
Thứ đến cần thật công
tâm, thật khách quan đánh giá sự hoạt động vì dân chủ của các tổ chức xã hội
dân sự, đánh giá đúng những người bị cho là tự diễn biến như Nguyên Ngọc, Chu Hảo,
Nguyễn Trung, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn Khắc Mai, Nguyễn Huệ Chi,
Tương Lai, Nguyễn Quang A, Nguyên Bình
v.v…, xem thực sự họ là người như thế nào. Phải tạo ra môi trường thật sự tự do
và dân chủ thì tài năng mới nẩy nở, mới có người tài mà chọn. Vườn ươm tài năng
không phải là các trường các viện nghiên cứu mà là môi trường tự do về học thuật,
tự do tư tưởng trong toàn xã hội, đặc biệt là trong các trường các viện.
Quan trọng nhất là thấy
được đống bùng nhùng. Có thể nhiều người đang vướng trong ấy không thấy được mà
người đứng ở ngoài thấy rõ hơn. Hãy từ bỏ thói kiêu ngạo cộng sản, chịu khó lắng
nghe, mời những trí thức phản biện đến để nghe họ trình bày, đối thoại với họ.
Trừ những hành động
theo bản năng và thói quen còn hoạt động của người ta bắt đầu bằng nhận thức.
Con người tử tế cần nhận thức đúng. Người làm lãnh đạo và quản lý xã hội càng cần
phải có nhận thức đúng. Trong hoàn cảnh
hiện nay nhiều điều đúng sai lẫn lộn. Muốn có được nhận thức đúng phải đem nó
ra cọ xát, đối chiếu, thử thách, phản biện. Còn những người, nếu cứ khư khư ôm chặt lấy một mớ giáo điều cũ
rích, cứ kiên trì một chủ nghĩa có đầy độc hại và ảo tưởng thì không biết sẽ trở
thành loại người như thế nào. (6/1/2019 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét