( Tiếp theo và hết )
D3- PHẢN BIỆN
HỌC THUYẾT CỦA MÁC
1-Giới thiệu
Xin không bàn đến câu chuyện có hay không có Chủ nghĩa Mác mà chỉ đề cập
đến học thuyết của Mác.
Những người tôn sùng Mác được gọi là Macxit. Họ đánh giá rất cao học
thuyết của ông. Họ tôn ông là lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản và các đảng
Cộng sản, người lỗi lạc nhất trong những người lỗi lạc, nhà triết học, kinh tế
học, sử học, xã hội học, chính trị học, người trọn đời đấu tranh chống áp bức
bóc lột, vì hạnh phúc của giai cấp vô sản và nhân loại.
Số người Macxit tuy đông, nhưng chỉ chiếm một phần nhỏ của thế giới. Số
đông hơn nhiều đánh giá Mác là kẻ hồ đồ, xảo trá, là tội phạm lớn của nhân loại,
đánh già học thuyết của Mác là phản khoa học.
Mác sinh năm 1818, mất năm 1883, là một người rất giỏi ngụy biện, đã
dùng hình ảnh vô cùng tốt đẹp của một xã hội tương lai do ông tưởng tượng ra để
đánh lừa nhiều triệu người. Những người đó phần lớn là tầng lớp vô sản, ít học
hoặc những người tuy có học, có bằng cấp cao nhưng dễ tin nên bị mắc lừa, đặc
biệt là bị nhồi sọ từ lúc còn bé, trở thành cuồng tín. Ngoài ra có một số người
trong các Đảng CS cầm quyền cũng đề cao Mác, tuy biết những cái sai của ông,
nhưng vẫn cố bám víu vào ông, nhằm bảo vệ quyền và lợi họ đã chiếm được nhờ vào
cách mạng vô sản và những thủ đoạn của họ.
Riêng một số người biết suy nghĩ, ban đầu bị nhầm mà tôn sùng và tìm cách vận dụng học thuyết của Mác, nhưng rồi họ tỉnh ngộ ra và chống lại khi phát hiện thấy rằng những điều tốt đẹp về Chủ nghĩa cộng sản ở thế giới đại đồng chỉ là bánh vẽ, rằng đấu tranh giai cấp và cách mạng vô sản là những sự phá hoại, rằng xóa bỏ tư hữu về sản xuất là sai lầm. Nói chung, cứ đem áp dụng học thuyết của Mác vào thực tế thì chủ yếu gặp thất bại. Đại diện cho những nhà trí thức lớn trước thì theo, sau thì bỏ Mác có Bertrand Russell (1872-1970 người Anh), ở VN có GS Trần Đức Thảo (1917-1993).
Theo sách “Trần Đức Thảo-Những lời trăng trối” của Phan Ngọc Khuê thì
lúc trẻ ông Thảo say mê Mác, nhưng dần dần ông phát hiện nhiều sai lầm của Mác.
Trần Đức Thảo đang viết một quyển sách vạch ra những sai lầm đó thì bị đột tử.
Trong sách của ông Khuê có chương 14,
nhan đề “Nêu đích danh thủ phạm”, viết một số nhận định của ông Thảo, rằng
chính Mác là thủ phạm, đã lừa dối nhân loại, đẩy một số người vào việc phạm tội
ác.
Người chống lại học thuyết của Mác rõ ràng và có hiệu quả là Bernstein
(1850-1932-người Đức). Ông đã có ảnh hưởng lớn trong Đệ nhị quốc tế, người chủ
trương xây dựng chế độ Xã hội dân chủ bằng con đường đấu tranh nghị trường, phản
đối cách mạng vô sản. Mô hình này đã thành công ở các nước Bắc Âu.
Có một nghịch lý là số người theo Mác là rất ít so với số người phản đối
Mác nhưng số bài viết ca ngợi Mác lại khá nhiều so với những bài phản biện. Vì
sao vậy?. Vì rằng số người theo Mác tuy ít nhưng có tổ chức, đó là các đảng cộng
sản, đặc biệt là các ĐCS cầm quyền, họ có những cơ quan tuyên truyền hùng hậu,
họ ra sức truyền bá và đề cao Mác để lôi kéo quần chúng, để tự thỏa mãn ảo tưởng
của bản thân.
Những ĐCS cầm quyền tuyên truyền rằng họ kiên trì theo Mác, nhưng thực
ra không hoàn toàn đúng như vậy. Họ chỉ giữ sự độc tài toàn trị về chính quyền
để áp đặt nền thống trị, còn về kinh tế thì họ đã làm ngược với quan điểm của
Mác trong nhiều vấn đề. Làm ngược nghĩa là phản lại, nhưng họ ngụy biện là vận
dụng sáng tạo và phát triển ý tưởng của Mác. Đây là lập luận dối trá vô cùng lộ
liễu, thế mà vẫn có người nghe theo. Họ là những kẻ cuồng tín, ngu tín, những kẻ
đã bị nhồi sọ quá nặng đến nỗi không còn biết suy nghĩ.
Tại sao Mác có thể dùng ngụy biện để đánh lừa và có một số người bị mắc
lừa như vậy. Vấn đề này xin để lại sau. Dưới đây tôi chỉ phân tích một số sai lầm
và ngụy biện trong học thuyết của Mác.
2-Sai về triết học
Mác chủ trương triết học duy vật. Cuộc đấu giữa duy vật và duy tâm đã diễn
ra hàng ngàn năm chưa phân thắng bại. Triết học Mác cho rằng vật chất có trước
và toàn bộ vũ trụ là vật chất. Ý thức có sau và là sản phẩm bậc cao do hoạt động
vật chất của bộ não con người. Mác đã kết hợp duy vật và phép biện chứng thành
Duy vật biện chứng. Điều này đã hấp dẫn một số người thích lối suy luận dựa vào
logic, họ cho rằng duy vật của Mác đã thắng một cách áp đảo, đã chôn vùi triết
học duy tâm. Những người theo duy tâm cho rằng ý thức có trước.
Vật chất và ý thức là hai phạm trù tồn tại song song, chúng có quan hệ
qua lại và không thể nói cái nào có trước. Duy vật và duy tâm đều cực đoan. Hiểu
sai, nghiêng về duy tâm tuy có lệch lạc về nhận thức nhưng không gây nên những
tai họa lớn cho xã hội. Hiểu sai nghiêng về duy vật tạo ra nhiều tai họa hơn.
Những người tôn sùng duy vật thường coi trọng các nhu cầu vật chất của
con người. Trong đấu tranh giai cấp và cách mạng vô sản Mác cũng nhằm vào mục
đích chính là đem lại quyền lợi vật chất cho giai cấp vô sản. Trong ảo tưởng về
một xã hội cộng sản Mác đưa ra những hưởng thụ về vật chất để làm mồi nhử.
Tâm linh là một trong hai phần cơ bản tạo nên Vũ trụ và Con người, là đối
tượng của Tôn giáo. Nó là phần quan trọng trong đời sống tinh thần của nhiều
người. Tôn giáo duy trì, cổ vũ đức tin và đời sống đạo đức. Thế mà duy vật bài
bác tâm linh, ngăn cản hoặc phá hoại tôn giáo. Duy vật làm gia tăng máu lạnh
trong con người, xô đẩy người ta vào cuộc tranh giành quyền bính và lợi ích vật
chất. Nền đạo đức của xã hội Việt Nam gần đây bị xuống cấp trầm trọng, phần lớn
là do nguyên nhân này.
3-Sai
ở nhận định về con người
Mác cho rằng “Bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”.
Đó là một phán đoán chỉ phản ảnh một phần nhỏ mà đã bỏ qua phần lớn thuộc tính
bản chất. Vì vậy có thể nói rằng Mác đã phán đoán sai. Cái sai này đã dẫn ông
đi lạc đường trong nhiều vấn đề.
Hoạt động của con người, ngoài một số ít theo bản năng thì đều xuất phát
từ nhận thức. Theo phép biện chứng của Mác thì nhận thức là do:“Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Trực quan sinh động diễn ra dưới 3
hình thức: cảm giác, tri giác, biểu tượng. Tư duy trừu tượng là giai đoạn tiếp
theo, cao hơn về chất của quá trình nhận thức, diễn ra dưới 3 hình thức: Khái niệm,
phán đoán, suy lý”.
Những nghiên cứu sâu hơn về con người chỉ ra rằng quan niệm về nhận thức
như trên của Mác chỉ đúng một phần. Thực ra nhận thức (hoặc Tâm thức) gồm từ
hai nguồn là tiềm thức và ý thức. Tiềm thức là những thông tin được chứa trong
Tàng thức, trong các tầng hào quang của con người mà khoa học thực nghiệm hiện nay chưa biết
rõ (1). Tiềm thức được hình thành từ
trong bào thai do di truyền, do tiếp thu tinh hoa sông núi. Ý thức thuộc hoạt động
của não mà phần lớn được hình thành từ lúc còn rất bé, một phần nữa do các quan
hệ xã hội tạo nên. Mác thấy khá rõ phần
quan hệ này, quan trọng hóa nó lên, rồi
vội cho rằng đó là bản chất.
Mác quy kết sai về bản chất con người như vậy do bị ảnh hưởng bởi thuyết
tiến hóa Đac Uyn. Thuyết này đề cao ảnh hưởng của môi trường và hiện nay đang bị
đánh đổ dần dần.
Từ chỗ đề cao các mối quan hệ xã hội do vị trí của con người trong nền sản
xuất và sự thụ hưởng quyền lợi vật chất mà Mác phân chia loài người thành các
giai cấp mà coi nhẹ yếu tố quốc gia và dân tộc. Trong các giai cấp thì Mác tỏ
ra yêu thương giai cấp vô sản vì thấy họ bị bóc lột, bị áp bức, chịu nhiều sự bất
công. Đó là lòng tốt. Nhưng rồi lòng tốt này đã làm Mác mờ mắt và loạn trí, đã
nhìn thấy ở giai cấp vô sản những đức tính tốt đẹp để có thể làm chủ thế giới
trong lúc họ không có đủ phẩm chất để làm công việc đầy khó khăn đó. Cuối Bản
Tuyên ngôn Cộng sản Mác đã kêu gọi “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại”. Để làm
gì?. Phải chăng để: Quyết phen này sống chết mà thôi, để mau phá sạch tan tành
chế độ xưa, để giành lấy toàn bộ lợi quyền về tay mình (lời của Quốc tế ca).
Mác cũng có thấy một vài thói xấu của vô sản và vì không thể bỏ qua nên
có nhắc đến ‘tầng lớp vô sản lưu manh’ và cảnh báo rằng khi nắm được chính quyền
một số cá nhân nguyên là vô sản có thể sẽ thay đổi tính nết mà đi theo vết xe đổ.
Bản chất của con người được tạo nên từ giống và điều kiện môi trường. Giống
hoặc hạt giống có từ trong bào thai, chứa trong Tiềm thức. Nó sẽ nảy nở, phát
triển hay bị tàn lụi như thế nào là do môi trường. Như vậy môi trường là rất
quan trọng, nhưng chính hạt giống mới là nhân tố quyết định. Trong môi trường
có các quan hệ xã hội. Vì đầu óc bị vật chất ám ảnh mà Mác không thấy hoặc cố
tình bỏ qua vai trò hạt giống, còn trong môi trường thì Mác thấy rất rõ quan hệ
xã hội, không thấy được những thứ khác như sự giáo dục gia đình từ lúc trẻ còn
rất bé và sự tu dưỡng của bản thân.
Với số đông người hạt giống về tư hữu là mạnh nhất, nó chi phối nhiều hoạt
động. Người vô sản, trong hoàn cảnh phải bán sức lao động để sinh sống thì hạt
giống ấy bị kìm hãm, chưa phát triển được. Nhưng khi đã nắm được quyền lực thì
hầu như toàn bộ mọi người sẽ để cho hạt giống tư hữu phát triển chứ không phải
chỉ vài trường hợp riêng. Nếu có đặc biệt thì đó là một số rất ít người có sẵn
hạt giống tốt về đạo đức nhân bản mà sức mạnh của nó có thể chiến thắng hạt giống
tư hữu vốn có nhưng yếu.
Một nhận định khá sai lầm của Mác, cho rằng giai cấp công nhân đại diện
cho nền sản xuất công nghiệp tiên tiến và từ đó gán cho họ những đức tính do
Mác suy luận ra. Điều này đã được nhiều học giả vạch ra (2), được thực tế chứng
tỏ, tưởng không cần chứng minh thêm nữa.
Chú thích: (1)- Xem sách Bàn tay ánh sáng (Hand of light), tác giả
Barbara Ann Brennan. Lê Trọng Bổng dịch. NXB Văn hóa thông tin- 1996.
(2)- Xem sách Mao Trạch Đông ngàn năm công tội, tác giả Tân Tử Lăng. NXB
Thư Tác Phương- Hồng Công- 2007.
4- Sai ở
phương pháp nghiên cứu
Mang danh làm khoa học, nhưng Mác đã sai phạm trong phương pháp. Những
sai phạm này khá tinh vi, không dễ thấy mà có thể Mác cũng không biết hết được.
Trước tiên là việc rút ra các kết luận có tính quy luật. Đành rằng các
quy luật về xã hội không yêu cầu chặt chẽ như quy luật tự nhiên, nhưng không thể
chỉ căn cứ vào vài suy luận sơ sài rồi rút ra kết luận chắc nịch. Mác cho rằng
xã hội loài người tất yếu xảy ra 5 phương thức sản xuất và sau phương thức tư bản
sẽ là phương thức cộng sản mà quá độ là xã hội chủ nghĩa, rằng phải có sự thống
nhất giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, rằng đấu tranh giai cấp là động
lực phát triển của xã hội có giai cấp, rằng giai cấp vô sản sẽ làm chủ xã hội
tương lai, rằng nguyên nhân nghèo khổ của vô sản là vì họ không có tư liệu sản
xuất. Những kết luận đó đều chỉ mới dựa vào một vài hiện tượng đơn lẻ rồi suy
diễn ra. Thế mà chúng được tô vẽ, được ngụy biện để đến nỗi rất nhiều người tin
là chân lý. Xin hãy đừng tuyệt đối tin vào Mác, đừng nhắc lại như vẹt mà hảy lật
lại, thử phản biện xem sao.
Trước hết tạm phân tích về các phương thức sản xuất. Mác đưa ra 5 :
nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản, cộng sản và cho rằng đó là tất yếu. Về
phương thức sản xuất nguyên thủy, người ta cho rằng đó là việc hái lượm, săn bắt
và trồng trọt ở thời kỳ đầu. Trồng trọt được xem là sản xuất, nhưng nó xuất hiện
sau, ghép nó vào thời nguyên thủy là khiên cưỡng. Còn hái lượm và săn bắt thì sản
xuất ở chỗ nào?. Về phương thức nô lệ. Nếu nó thuộc quy luật chung thì ở Việt
nam và Trung quốc là thuộc thời kỳ lịch sử nào. Người ta tìm không thấy nên bịa
thêm phương thức sản xuất châu Á. Sự bịa này gây tranh cãi. Trong lịch sử, nô lệ
là một hình thái xã hội thể hiện quan hệ giữa những con người chứ không phải là
một chế độ chính trị, càng không phải là phương thức sản xuất phổ biến.
Năm phương thức có phải là quy luật?. Không, hoàn toàn không phải. Quy
luật là sự thật khách quan, trước khi được phát hiện ra thì nó ở dạng ẩn giấu,
nhưng vẫn là sự thật tồn tại. Sau khi được phát hiện nó phải được kiểm chứng chặt
chẽ. Có thể dùng quy luật để rút ra những kết luận theo cách nội suy. Theo đúng
phương pháp khoa học không thể dùng phép ngoại suy để rút ra quy luật. Sau
phương thức phong kiến là phương thức tư bản, đó là sự thật. Sau tư bản là gì
thì chưa có, chưa xảy ra, chưa biết. Chỉ có thể đoán. Cho rằng sau tư bản là cộng
sản, đó chỉ là một phỏng đoán, một sự ngoại suy. Thế mà người ta khẳng định rằng
đó là quy luật do Mác phát hiện ra. Nghĩ như thế, nói như thế là quá láo khoét.
Mác đưa ra kết luận
rằng “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ
trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp”. Câu này là mở đầu của Tuyên ngôn các đảng Cộng sản,
công bố năm 1848. Đó là một kết luận quá vội vàng, chỉ mới dựa trên một vài hiện
tượng riêng lẻ. Tôn Trung Sơn đã kịch liệt phản bác luận điểm này (3).
Đúng là trong lịch sử có xảy ra những cuộc đấu
tranh của nô lệ chống lại chủ nô, của nông dân chống tập đoàn phong kiến, đặc
biệt trong thời đại của Mác là các cuộc đấu tranh đòi quyền lợi của công nhân.
Không thể nào xem các cuộc đấu tranh như thế là động lực phát triển lịch sử.
Công xã Paris (1889…) Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930) là những cuộc đấu tranh chống cường
quyền và áp bức chứ chứ không hẳn là đấu tranh giai cấp và sự thất bại của các
cuộc đấu tranh đó chẳng tạo nên động lực phát triển.
Mác còn phạm một số
sai lầm trong “Tư duy trừu tượng, là giai đoạn tiếp theo, cao hơn về chất của quá trình
nhận thức, diễn ra dưới 3 hình thức: Khái
niệm, phán đoán, suy lý”.
Về khái niệm. Mác
đưa ra một số khái niệm mới (so với trước đó) như giai cấp, đấu tranh giai cấp,
cách mạng vô sản, phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất, giá trị thặng dư
v.v…Những khái niệm này đã được phổ biến, một số người theo Mác đã công nhận và
dùng quen. Tuy vậy không phải mọi khái niệm đó đều phản ánh đúng thực tế.
Phán đoán là mệnh đề
liến kết giữa các khái niệm. Phán đoán do người nghiên cứu đưa ra, mỗi phán
đoán có thể đúng hoặc sai. Mác đã đưa ra một số phán đoán như là: + Công nhân đại
diện cho nền sản xuất tiên tiến; +Cách mạng vô sản là tất yếu; + Vô sản là giai
cấp cách mạng nhất; +Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
v.v…Phần lớn các phán đoán của Mác chỉ là những phán đoán bộ phận nhưng đã được
đưa thành khẳng định.
Suy lý (hay suy luận)
dựa vào logic, từ luận cứ, dùng luận chứng để rút ra luận đề, (là kết luận) Một kết luận chỉ được công nhận khi các luận
cứ phải đúng và đầy đủ, luận chứng phải tuân thủ chặt chẽ các quy tắc của
lôgic. Phân tích một số suy luận của Mác tôi thấy rằng ông đã dùng luận chứng
đúng, chặt chẽ, vì thế mà hấp dẫn được nhiều người. Nhưng phần lớn suy luận là
ngụy biện vì dựa vào một số luận cứ chưa đủ tin cậy.
Luận cứ có hai loại:
thực tế và lý thuyết. Khi đọc hoặc học Mác, nếu với lòng tin tuyệt đối vào ông,
xem ông là thánh thì sẽ thấy các luận cứ ông đưa ra là đúng và đủ. Đó là do cuồng
tín. Nhưng chỉ cần có một chút tư duy phản biện thì không khó để phát hiện ra
những thiếu sót trong luận cứ. Tôi sẽ lần lượt trình bày một số phát hiện trong
các mục sau.
Ghi chú: (3)- Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn- Sách lưu hành nội bộ
trong Đảng.
5-Xã hội thiên đường cộng sản
Xã hội cộng sản do Mác vạch ra: “ Mọi tư liệu sản xuất là công hữu, của
cải vật chất dồi dào, mọi người tự giác làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu
…”. Đó chỉ mới là sản phẩm của trí tưởng tượng hoang đường nhưng Mác đã vội khẳng
định tính tất yếu của nó. Việc làm này ngược với phương pháp khoa học. Mác chỉ
rõ con đường đi đến xã hội cộng sản phải trải qua thời kỳ quá độ là xây dựng chế
độ Xã hội chủ nghĩa. Thế rồi các học trò của Lê nin còn thêm vào một thời kỳ
quá độ thứ hai là “Quá độ từ xã hội
phong kiến lạc hậu lên thẳng CNXH”.
Thông thường thầy chỉ dạy cho học trò công việc mà mình đã từng làm, có
kiến thức, có kinh nghiệm. Thế mà Mác dám dạy cho đệ tử việc mà ông chẳng biết
đầu cua tai nheo ở đâu. Mác chỉ mới tưởng tượng ra một cái bóng rồi xúi dục người
khác làm theo nó. Trong việc này có ba sai lầm rất lớn.
Một là mô hình xã hội Mác đưa ra hoàn toàn là hoang đường. Việc công hữu
toàn bộ tư liệu sản xuất, xóa bỏ mọi tư hữu về nó là trái với bản chất con người.
Sự tự giác của con người là có, nhưng quá tin vào sự tự giác của tất cả mọi người
là ảo tưởng.
Hai là việc tạo lập nên xã hội tốt đẹp phải được giai cấp vô sản thực hiện
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là đội tiên phong của họ. Thực ra ban đầu,
khi thành lập các ĐCS đều tự cho mình là đội tiên phong của giai cấp vô sản,
nhưng khi đã nắm được chính quyền thì họ đã trở thành một ‘giai cấp mới’. Và
quan trọng là giai cấp vô sản chưa bao giờ và không thể là động lực chính cho một
xã hội tiến bộ. Chế độ vô sản chuyên chính do các ĐCS lập nên trong quá trình
xây dựng CNXH là độc tài toàn trị.
Ba là, chẳng biết rồi xã hội cộng sản sẽ tốt đẹp như thế nào, nhưng con
đường để thiết lập vô sản chuyên chính và sự thống trị cúa nó là đầy đau thương
và tàn bạo.
Nhiều
người say mê Mác vì ông cổ vũ cho việc chống áp bức bóc lột, chống bất công,
mong muốn nhân loại được sống trong no ấm, hạnh phúc. Đây là một sự say mê
thiên lệch và mù quáng. Những điều vừa kể và một số điều tốt đẹp khác không phải
do Mác đề xuất đầu tiên hoặc duy nhất. Trước, ngang và sau Mác có hàng ngàn
hàng vạn những thủ lĩnh chính tri, dù đang cầm quyền hoặc tranh đấu để có quyền
đều tuyên bố như thế. Mác chỉ nói theo và nói thì hay mà làm thì dở. Đó là chống
áp bức này nhưng lại tạo ra áp bức khác trong đấu tranh nhằm tiêu diệt giai cấp
bóc lột, đó là Mác hầu như không quan tâm đến nhân quyền mà chỉ quan tâm đến
giai cấp vô sản. Cái riêng của Mác là xã hội làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu
thì làm gì có.
6- Nghèo khổ và bị bóc lột
Quan sát xã hội nước Anh dưới chế độ tư bản ở thế ký 19 Mác nhận ra sự
nghèo khổ của tầng lớp người phải bán sức lao động để kiếm sống, họ bị bóc lột
vì không có tư liệu sản xuất. Mác gọi họ là vô sản. Mác không thể, không muốn
hay không dám thâm nhập sâu vào cuộc sống của vô sản để biết được bản chất,
nguyên nhân sâu xa của sự nghèo khổ. Mác
chỉ quan sát từ xa, quan sát lớt phớt, thấy được điều rõ ràng nhất, dễ thấy nhất
là họ không có tư liệu sản xuất. Đó là cái nhìn phiến diện. Từ đâu sinh ra lớp
người không có tư liệu sản xuất khi mà từ đầu loài người vốn không ai có của
riêng.
Nguyên nhân tạo ra những người vô sản có ba. Một là nguồn gốc từ ông
cha, hai là bị tai nạn, ba là tự phá sản.
Từ ông cha, đó là truyền đời, nhưng ông tổ đầu tiên tại sao lại trở
thành vô sản trong khi những người khác trở thành hữu sản. Phải chăng họ bị khiếm
khuyết gì đó về thể chất hoặc tinh thần, mà một số không ít là do lười nhác hoặc
kém trí tuệ. Ông cha là vô sản nhưng con cháu không phải tất cả sẽ nối nghiệp
vô sản mà chỉ những người kém năng lực mới
trở thành vô sản, còn những người trẻ có năng lực đã sớm thoát khỏi và có người
trở thành tư sản. Vậy nguồn gốc chỉ là một phần, nó còn kết hợp với sự yếu kém
phẩm chất tinh thần.
Có những người hữu sản vì gặp phải tai nạn gì đó mà mất hết, trở thành
vô sản. Số này ít thôi, nhưng không phải tất cả họ đều suốt đời chịu làm vô sản.
Một số họ chỉ là vô sản tạm thời rồi họ
sẽ tìm cách đổi đời.
Có một số người mà cha mẹ là hữu sản nhưng họ trở thành vô sản vì đã rượu
chè, cờ bạc, ăn chơi, lười nhác mà phá nát cơ nghiệp tổ tiên, tự mình làm phá sản.
Mác trông cậy vào vô sản mà quên rằng đặc trưng nổi bật của phần đông vô
sản là kém trí tuệ.
Vì đánh giá không đúng về bản chất của vô sản nên Mác đã tưởng tượng ra
những bản chất tốt đẹp mà họ không có hoặc có rất ít, gán cho họ những khả năng
quản lý và lãnh đạo. Vì điều này mà ở Việt Nam một thời đã đề lên rất cao thành
phần bần cố nông, cho rằng những người nghèo khổ nhất là đáng tin tưởng nhất,
giao cho họ những chức vụ lãnh đạo và họ đã phá nát nhiều thứ.
Mác chưa hề tham gia vào sản xuất, chưa làm kinh doanh bao giờ, chỉ biết
một số kiến thức qua sách vở, báo chí và những quan sát từ xa. Từ đó Mác nghĩ
ra thuyết giá trị thặng dư, chỉ ra việc tư bản bóc lột công nhân như thế nào rồi
công bố, không hề kiểm nghiệm, không nghe phản biện. Thuyết giá trị thặng dư ấy
đã được nhiều người tung hô, giảng dạy, tuyên truyền, nhưng chỉ trên giấy và
trên cửa miệng, không thấy có ai vận dụng được gì vào thực tế. Vì sao vậy?. Vì
nó sai. Thực ra thì không sai hoàn toàn mà đã bỏ sót một vài yếu tố quan trọng.
Điều này đã có nhiều chứng minh, để tránh dài dòng tôi không nhắc lại.
7-Quy luật thống nhất giữa lực lượng và quan hệ sản xuất
Theo Mác thì lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tác động qua lại lẫn
nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật, có nội dung: “Quan hệ sản xuất phải
phù hợp với lực lượng sản xuất”. Những người Mác xít cho rằng đó là quy luật
cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội. Họ giải thích rằng lực lượng sản xuất quyết định quan
hệ sản xuất và phát triển nhanh hơn. Đến một lúc quan hệ sản xuất trở nên lạc hậu
so với lực lượng. Lúc này, để bảo đảm sự phù hợp thì phải làm cách mạng để đổi
mới quan hệ sản xuất nhằm tái lập sự phù hợp.
Đây là một sự bịa đặt rất phản khoa học.
Đã gọi là quy luật thì phải luôn luôn đúng, nếu có cái gì làm cho lệch lạc thì
hệ thống tự động điều chỉnh. Ở đây con người phải can thiệp
nhằm sửa đổi quan hệ sản xuất, uốn nắn cho nó phù hợp. Phải có sự can thiệp của
con người thì còn gi là quy luật. Mà lại can thiệp bằng cách mạng vô sản.
Cho rằng quan hệ và lực lương phải phù hợp nhưng khái niệm phù hợp ở đây
rất tù mù. Quan hệ và lực lượng là hai đối tượng khác nhau hoàn toàn về bản chất,
thành phần và cấu tạo. Vậy sự phù hợp này được quyết định bới cái gì, đánh giá
như thế nào. Tôi chưa nghe ai nói, chưa thấy tài liệu nào giải thích rõ về sự
phù hợp này.
Cho rằng lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Quyết định như
thế nào cũng lại là một sự tù mù khác. Đây là một phán đoán hay kết luận của một
suy lý, của một chứng minh. Nếu đây là phán đoán thì nó nhận giá trị giả dối. Nếu
là kết luận thì đây là bịa đặt vì chẳng thấy quá trình suy lý như thế nào.
Khi Mác đưa ra quy luật này phải chăng có thâm ý là chuẩn bị tiền đề cho
cách mạng vô sản.
8- Bộ sách Tư Bản
Luận
Bộ sách gồm ba tập,
là công trình Mác viết chung với Engels.
Tập 1: Quá
trình sản xuất của Tư bản (xuất bản năm 1867)
Tập 2: Quá
trình lưu thông của Tư bản (xuất bản sau 1883)
Tập3 : Toàn bộ
quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa .
Tập 1 xuất bản khi
Mác còn sống. Tập 2 và 3 do Mác khởi thảo, Engels hoàn thiện và xuất bản sau
khi Mác chết.
Theo sự tuyên truyền của những người Marxit thì bộ sách là tác phẩm lớn của nhân loại, là
kinh điển của các đảng Cộng sản, là một công trình kinh tế vĩ đại, đồng thời có giá trị
to lớn về mặt triết học. Để biên soạn
Mác đã dành 40 năm lao động không mệt mỏi, từ những năm 40 của thế kỷ
XIX đến khi ông qua đời. Trong bộ sách Mác đã phân tích một cách toàn diện và
sâu sắc về chủ nghĩa tư bản với tính cách là một hình thái kinh tế – xã hội, vạch
ra các quy luật ra đời, phát triển và suy vong của nó, đồng thời luận chứng các
luận điểm và khái niệm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Không chỉ đề cập đến
những vấn đề như: tư bản, hàng hóa, tiền tệ, gái trị thặng dư, tích lũy tư bản,
tiền lương…, tác phẩm còn chứa đựng những quan điểm triết học của Mác và những
kiến thức về lịch sử các nước Tây Âu đương thời.
Thế nhưng đại đa số cán bộ cao cấp của
các ĐCS chỉ mới nhìn thấy bìa các cuốn sách mà chưa đọc được vài trang, còn phần
lớn đảng viên chỉ mới nghe tên sách chứ cái bìa cũng chưa được thấy. Riêng
OSHO, một nhà triết học lớn của Ấn Độ nhận xét : “ Đó là cuốn sách tệ hại nhất
đã từng được viết… Hàng nghìn trang và tất cả
chỉ là rác rưởi, được viết một cách phi logic hoặc phi lý, giống như ai đó đã
hóa điên”. (OSHO nói về cuốn Tư bản luận- Nguyễn Đình Hách dịch).
Về hình thức bộ sách quả thực đồ sộ, cần rất nhiều công sức để hoàn thành,
nhưng nội dung chỉ có giá trị khoa học thấp chứ không như những người Marxit
tuyên truyền.
Công trình khoa học có nhiều mức. Thấp nhất là mô tả. Đó là việc trình bày
những hiện tượng quan sát được, sắp xếp, phân loại để giúp cho việc nhận biết,
phân biệt. Việc quan sát do người nghiên cứu thực hiện theo đúng phương pháp
khoa học là quan sát trực tiếp, tạo ra thông tin cơ bản, còn nếu dùng tài liệu
của những người khác thì đó là thông tin thứ cấp, có giá trị thấp hơn thông tin
cơ bản.
Trong Bộ Tư bản thì trên 90% là mô tả và phần lớn là dựa vào thông tin thứ
cấp thu thập được từ các thư viện chứ không phải từ hoạt động thực tế của Mác.
Ông chưa bao giờ trực tiếp chỉ đạo sản xuất hoặc lưu thông hàng hóa. Một phần
nhỏ là những phân tích, những luận chứng của Mác để rút ra vài luận đề về giá
trị thặng dư, về quy luật của phương thức sản xuất, về sự diệt vong tất yếu của
chủ nghĩa tư bản v.v…. Tiếc rằng để làm những việc này Mác đã phạm sai lầm về
triết học và phương pháp nghiên cứu như đã phân tích ở trên, và phần lớn kết luận
của Mác là sai. Câu nhận xét của OSHO đã dẫn ở trên đáng được cho những người Marxit tỉnh ngộ
9-Trao đổi với những người bao che cho Mác
Trong kỳ nghỉ tết vừa qua tôi về quê, được một người cháu gọi bằng bác
tới thăm. Anh là TS Nguyễn Đình Cả, nguyên là cán bộ giảng dạy môn chủ nghĩa
Mác Lê nin ở một trường đại học tại thành phố HCM, đã nghỉ hưu. Anh biết tôi
thường viết bài phản biện, vạch ra những sai lầm, độc hại của Mác Lê nên đến gặp tôi,
ngoài chuyện thăm hỏi còn cung cấp thông tin mà chắc anh nghĩ rằng đối với tôi
là quan trọng.
Sau khi nghe tôi nói vài lời thông cảm với các thầy dạy môn Mác Lê, rằng họ quả đang
gặp khó khăn lớn trong giảng dạy vì chưa tìm ra cách nào có hiệu quả để dạy môn
đó khi thực tế và lý thuyết gần như ngược nhau. Họ rất dễ phạm vào một trong
hai điều rất kiêng kỵ trong nghề dạy học. Một là nghĩ một đàng, nói một nẽo, phạm
vào lỗi dối trá. Hai là không nhiệt tình với công việc, giảng dạy như con vẹt,
chỉ máy móc nhắc lại giáo trình do người khác soạn mà không làm được việc quan
trọng của người thầy là tạo cảm hứng cho người học. Lại nữa, vừa dạy vừa lo sợ,
lỡ ra có khi nào đó, không giữ được mồm mà nói ra cái gì đó không có trong bài
mẫu.
Anh nghe mà không có ý kiến gì, chỉ hỏi, rằng trong lúc viết phản biện
CNML, tôi có tìm hiểu xem vài nhà học giả của tư bản có ý khen Mác hay không.
Khen rằng nhờ Mác vạch ra các bất cập của nền kinh tế tư bản mà nhiều nước Âu Mỹ
đã sửa chữa được những khuyết điểm nguy hiểm và có được những phát triển ngoạn
mục. Anh kể ra vài tên người mà tôi biết chưa được rõ.
Tôi trả lời, tôi không lạ gì ý của anh vừa nói vì đã nghe nhiều lần từ
vài người. Tôi cho rằng họ là những người bao che , bảo vệ cho Mác. Về các học
giả tư bản mà anh kể tên tôi cũng đã có lần nghe qua, nhưng không nghiên cứu về
họ. Tôi có đọc kỹ sách của Brezezinski, cố vấn của vài đời tổng thống Mỹ viết về
Mác và phong trào cộng sản. Tôi định nói cho anh biết những suy nghĩ của mình về
điều anh định bao che cho Mác, nhưng anh nói vội đí chúc tết vài nơi, hẹn tôi
vào dịp khác. Sau đó vài hôm tôi gọi điện thoại định gặp anh chuyện trò, nhưng
anh đã quay về TP HCM.
Tôi viết bài này, vạch ra chất ngụy biện trong việc bao che cho Mác
khi dẫn ra việc nhờ Mác mà các nước Âu Mỹ có được sự phát triển. Tôi viết cho
anh và những người quan tâm đến Mác tham khảo và đặc biệt, may ra có thức tĩnh
được chút nào những người bao che cho Mác.
Những người được tuyên truyền một chiều về Mác đã ngộ nhận rằng ông ta
là thiên tài, là bậc thầy của cách mạng vô sản nên khi nghe người khác vạch ra
các sai lầm không thể chối cãi của Mác, thì họ xót xa cho một thần tượng ảo, họ
thương ông và tìm cách bao che. Họ như đang chới với giữa dòng nước sâu và chảy
xiết, bỗng vớ được một vật, tưởng là phao cứu sinh nên bám chặt lấy, không ngờ
đó chỉ là một cọng rơm.
Thế không phải nhờ Mác thì nhờ ai đã vạch ra những bất cập, những xấu
xa của chế độ tư bản để họ biết mà sửa chữa, mà cải cách, mà phát triển.
Đúng là Mác đã vạch ra những xấu xa, độc ác của tư bản trong giai đoạn
đầu của việc tích lũy của cải (tư bản hoang dã). Nhưng vạch ra để lên án, để
đánh đổ, để đưa công nhân đào huyệt chôn vùi nó và lập ra chính quyền chuyên
chính vô sản và công hữu hóa mọi tư liệu sản xuất chứ không phải để cho tư bản
biết được mà sửa chữa, mà làm cải cách.
Người phản biện vạch ra cho anh thấy sai lầm. Đó là một việc. Còn tiếp
thu như thế nào, sửa chữa như thế nào lại là việc của anh, phụ thuộc vào phẩm
chất của anh. Nếu đánh giá đủ những điều giúp anh tiến bộ là 100% thì sự đóng
góp của người phản biện thiện chí (muốn giúp cho sự tiến bộ) cũng chỉ chiếm một
phần rất ít (khoảng vài phần trăm). Còn với sự thù địch như Mác, đấu tranh để
tiêu diệt thì càng ít hơn. Cứ xem chế độ phát xit và chế độ cộng sản thì rõ. Đã
có biết bao người vạch ra những bất cập của vô sản chuyên chính ở Việt Nam mà
chính quyền có chịu nghe, chịu sửa đâu, lại còn bắt bớ tù đày, trục xuất những
người bất đồng chính kiến và cộng sản càng ngày càng lún sâu vào vũng bùn
chuyên chế.
Khi Mác phê phán tư bản, ông chỉ nhìn thấy mặt tối của nó mà vì một lý
do nào đó đã bỏ qua mặt sáng. Ông đã phạm sai lầm. Chính cái mặt sáng của tư bản
là đọng lực rất lớn đã giúp họ tiếp thu sự chỉ trích của Mác, giúp họ tìm ra
phương hướng phát triển.
Những người bao che cho Mác đã dùng lối ngụy biện đánh tráo, đưa phụ
thành chính. Họ làm thế để tự lừa dối mình, để bao che cho Mác trước sự tấn
công trực diện của những người phản biện.
Trong những bài viết trước đây (Chất dất sét trong các đá tảng của
Mác), tôi chứng tỏ rằng Mác đã phạm sai lầm về triết học, về sự hiểu biết con
người, về phương pháp nghiên cứu, về việc sử dụng luận cứ trong chứng minh, về
việc Mác không phải phát hiện ra quy luật mà bịa ra nó, đặc biệt là nhận đinh “đấu
tranh giai cấp là động lực phát triển của lịch sử”. Mơ ước của Mác “Vô sản toàn
thế giói liên hiệp lại để đào huyệt chôn tư bản” đã trở thành lố bịch, hy vong
xây dựng một chế độ mà mọi người làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu là quá
hão huyền.
Viết bài này tôi còn phát hiện ra sai lầm của Mác khi đánh giá không
đúng về “Giai cấp và chính quyền tư bản”. Báo chí VN xếp Mác vào một trong những
vĩ nhân của thế giới. Nếu có như vậy thì nên tìm cách loại bỏ để sửa sai.
10-CHỦ NGHĨA MÁC LÊ HỎNG TỪ GỐC RỄ !
( Bài này của Hà Sĩ Phu, đăng báo
Bô Xit)
(LÝ THUYẾT MÁC-LÊ XUẤT PHÁT TỪ NHỮNG
NHẦM LẪN, PHẢN TIẾN HÓA). Ước gì TBT NGUYỄN PHÚ TRỌNG giành 15 phút đọc bài này
!
Xin không bàn về những lý thuyết
thuần túy Triết học của Marx, mặc dù Duy vật biện chứng và Duy vật lịch sử
Mác-xít cũng có những điều rất cần phải tranh luận về mặt Triết học. Điều có ý
nghĩa thực tế cần thiết cho xã hội ở đây là chỉ xét những “lý sự” gọi là chủ
nghĩa Mác-Lênin được dùng làm kim chỉ nam chỉ đạo mọi chủ trương của Đảng Cộng
sản, những điều đã thành nhận thức phổ thông, tuyên truyền phổ cập ai cũng biết.
Hiện nay về lý thuyết cũng như thực tiễn Cộng sản tuy có những biến đổi để hòng
thích nghi nhưng bản chất chủ thuyết căn bản vẫn không có gì thay đổi.
Trong bài Từ Nguyễn Phú Trọng đến
Lê Hiền Đức (2012, đăng trên trang mạng của nhà văn Phạm Thị Hoài) tôi đã kể
qua 9 điều “nhầm lẫn nhỏ” (mà các Cụ nhà ta thường dùng chữ rất hay là “bé cái
nhầm”) của Mác-Lênin khi dựng một học thuyết cao siêu và vĩ đại. Ở đây chỉ xin
nhắc lại năm điều nhầm lẫn quan trọng nhất.
1/ MÁC-LÊNIN HIỂU NHẦM VỀ THỜI ĐẠI
MÀ CÁC ÔNG ĐANG SỐNG.
Tại sao có thể nói các nhà Mác-xít
kinh điển đã “đọc nhầm” thông điệp của Thời đại?
Thế kỷ 18-19 và đầu thế kỷ 20 là thời
kỳ phôi thai bột phát của nền văn minh Công nghiệp, vừa đem lại những thành quả
nhảy vọt nhưng đồng thời cũng tạo ra những tai họa nhất thời mà lúc đầu chưa có
phương án chế ngự, đó là sự áp chế của một số chủ Tư bản đối với Công nhân và sự
áp chế của các nước đại công nghiệp đối với các nước còn lạc hậu cổ hủ, sự áp
chế được gọi là Chủ nghĩa Đế quốc và Chủ nghĩa Thực dân.
Chủ nghĩa Đế quốc-Thực dân ấy thực
ra chỉ là bước chập chững, loạng choạng, hăm hở chào đời của một “đứa hài nhi”
sẽ thành khổng lồ, nhưng Mác-Lê tưởng “Chủ nghĩa Đế quốc là giai đoạn tột cùng
của Chủ nghĩa Tư bản”! Đã là “giai đoạn tột cùng” rồi thì tất nhiên là già nua
sắp chết, nên phải nghĩ ngay ra một Chủ nghĩa mới để thay thế, trước mắt là huy
động “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại” để đào mồ chôn nó đi! Nhưng rồi theo
thời gian đứa hài nhi có gien khổng lồ ấy “cứ giãy mãi mà không chết”, ngày
càng trưởng thành và sửa chữa những điều ấu trĩ của mình, còn cái chủ nghĩa với
đội quân đi “đào mồ chôn” nó thì cứ huênh hoang vô địch nhưng bỗng lăn ra chết
ngay tại quê hương của mình, mà chẳng thấy giãy giụa gì.
2/ MÁC-LÊNIN HIỂU NHẦM LỊCH SỬ, TƯỞNG
LỊCH SỬ CHỈ LÀ MỘT CHUỖI ĐẤU TRANH GIAI CẤP, VÀ COI ĐẤU TRANH GIAI CẤP LÀ ĐỘNG
LỰC CỦA TIẾN HÓA.
Theo Mác, Lịch sử là một chuỗi những
cuộc đấu tranh giai cấp, với tư cách là động lực của Tiến hóa (trích: Giai cấp
bị trị và giai cấp thống trị luôn đối kháng nhau về quyền lợi nên sinh ra đấu
tranh giai cấp. Nô lệ chống chủ nô làm chế độ chiếm hữu nô lệ tan rã. Nông dân
chống địa chủ phong kiến làm chế độ phong kiến tan rã. Giai cấp công nhân chống
giai cấp tư sản làm chủ nghĩa tư bản sụp đổ…… Kết quả cuối cùng của những cuộc
đấu tranh đó đều dẫn tới sự ra đời của phương thức sản xuất mới thông qua đỉnh
cao của nó là những cuộc cách mạng xã hội).
Mác nhìn lịch sử Tiến hóa của nhân
loại như một chuỗi những đoạn đứt khúc do các cuộc Cách mạng, dùng bạo lực lật
đổ nhau để tạo ra thể chế mới và mỗi lần như thế làm cho xã hội tiến hóa lên một
bước mới. Đó là quan điểm Chính trị Mác-xít xuất phát từ Chủ nghĩa Kinh tế (khi
hạ tầng Kinh tế thay đổi thì thượng tầng Chính trị cũng thay đổi theo).
Nhưng trên quan điểm khoa học thì
phải hiểu sự Tiến hóa như thế nào?
Trước hết, trong thế giới động vật,
Tiến hóa là sự chọn lọc tự nhiên trong đấu tranh sinh tồn, đấu tranh giữa sống
và chết, do đó cơ thể phải biến đổi để thích nghi. Động vật thích nghi với điều
kiện sống chỉ bằng chính cơ thể của nó, loại cơ thể nào không biến đổi được để
thích nghi thì bị tiêu diệt. Tiến hóa để lại dấu ấn trên cấu tạo cơ thể và do
đó cũng thay đổi các tập tính.
Nhưng sự Tiến hóa của con người, sống
thành xã hội, thì khác hẳn:
Do có TRÍ TUỆ, là sự phát triển cao
nhất của Sinh giới, nên hình thành tiếng nói và chữ viết để ghi lại những thành
quả của thế hệ trước để thế hệ sau tiếp tục “ngồi lên vai” mà tiến cao hơn. Sự
tích lũy và gia tăng của Trí tuệ để lại dấu ấn trong sách vở, trong công cụ lao
động và cả trong phương thức quản lý-điều hành xã hội. Con người thích nghi với
môi trường bằng những công cụ và những phương tiện do Trí tuệ và lao động của
mình tạo ra, nên cấu tạo cơ thể không cần thay đổi mà cả xã hội vẫn tiến hóa
ngày một cao hơn.
Như vậy, sự tích lũy và gia tăng
Trí tuệ, tức động lực của Tiến hóa, xảy ra có tính liên tục, và có sự cộng tác,
hiệp lực với nhau trong xã hội, cho dù vẫn còn mâu thuẫn với nhau về quyền lợi.
Còn sự Đấu tranh giai cấp cũng chỉ là một mặt trong sinh hoạt xã hội, đấu tranh
giai cấp bằng các cuộc Cách mạng như thế là những bước gián đoạn, có thể thúc đẩy
sự Tiến hóa nhưng cũng có khi làm hại cho Tiến hóa (cuộc đấu tranh giai cấp, một
mất một còn trong Cải cách ruộng đất và trong Cải tạo Tư bản tư doanh của xã hội
Việt Nam do Đảng Cộng sản chỉ huy là một ví dụ làm hại cho Tiến hóa, biến Việt
Nam từ một xã hội có đoàn kết nhân ái và có tiềm năng phát triển biến thành một
xã hội đầy thù hận và “không chịu phát triển” như bấy lâu nay).
3/ MÁC-LÊNIN TƯỞNG NHẦM VAI TRÒ LỊCH
SỬ CỦA MÌNH, NÊN ĐOẠN TUYỆT VỚI CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG, KHÔNG ĐI TIẾP CON ĐƯỜNG
VĂN MINH CỦA NHÂN LOẠI.
Do tiếp nhận được tinh thần “vạch
đường cho nhân loại, cải tạo cả nhân loại” của chủ nghĩa Mác-Lê cực đoan và ngạo
mạn, nhà thơ mê tín Cộng sản Tố Hữu đã có những câu thơ để đời ca ngợi Cách mạng
vô sản Tháng Mười Nga như sau:
Thuở Anh [Cách mạng tháng Mười]
chưa ra đời,
Trái đất còn nức nở,
Nhân loại chửa thành người.
Người Cộng sản coi cả nhân loại này
không đáng là người khi chưa được Mác-Lê dẫn lối. Họ muốn xóa sạch loài người
cũ không đáng là người, để nhận trách nhiệm lịch sử dựng một loài người mới cho
xứng đáng là người ư? Ngông cuồng đáng khôi hài đến thế là cùng!
Về quản lý xã hội thì Mác-Lê coi mọi
Nhà nước xưa nay chẳng qua là công cụ để bóc lột người lao động, nên phải tiến
tới làm cho nhà nước tiêu vong đi để cho giới lao động trực tiếp làm lấy việc
quản lý. Thế là không thèm hiểu về sự phân công xã hội. Cũng do không thèm hiểu
về sự phân công xã hội nên mới coi giai cấp công nhân, giai cấp lao động, chính
là “giai cấp tiền phong, giai cấp lãnh đạo, giai cấp tiêu biểu cho phương thức
sản xuất tiên tiến nhất”!
Mặc dù có nhà lý luận cố bênh vực
Mác rằng “Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản không phải là “ý muốn nhân tạo”,
hoặc “lựa đặt ngông cuồng” của C. Mác mà do địa vị kinh tế – xã hội khách quan
quy định”, nhưng thực tế thì một giới lao động nào đó cũng chỉ là sản phẩm của
một nền văn minh tương ứng sinh ra, chứ tiêu biểu và dẫn dắt cho nền văn minh
đó phải ở giới chuyên viên và trí thức tinh hoa, có đủ Trí tuệ, đủ trình độ điều
hành, vì đó là sự phân công tự nhiên trong xã hội.
Thực ra đến thời các ông Mác và Lê
ra đời, tức thời kỳ Văn minh Công nghiệp Nhân loại đã tiến được những bước khá
xa, đã có ý thức nâng đỡ sự phát triển cá nhân để tạo ra mọi giá trị, đồng thời
biết quản lý xã hội theo nguyên tắc Dân chủ và Pháp trị: DÂN CHỦ để cá nhân có
điều kiện phát triển nhưng đồng thời cần PHÁP TRỊ để khống chế sự phát triển Tự
do cá nhân sao cho không thể ảnh hưởng xấu đến người khác và đến cả cộng đồng.
Trong xã hội Pháp trị, Đạo đức “phải
trở thành thừa”, không cần anh đạo đức, anh cứ làm đúng Pháp luật là đúng đạo đức
rồi. Giáo dục đạo đức chỉ là biện pháp hỗ trợ, rất cần cho tuổi thanh thiếu
niên. Khi trưởng thành, sống trong xã hội thì “Trường đời” mới là trường học tự
nhiên hun đúc con người. Xã hội có Pháp trị lành mạnh thì hun đúc ra những con
người tử tế, xã hội vô pháp thì hun đúc ra những con người lưu manh. Khi bộ máy
cầm quyền còn hư hỏng thì làm sao các công dân lại có thể sống cho tử tế được,
dù có giáo dục đạo đức bao nhiêu cũng bằng thừa, vì “Trường đời” đã giáo dục tất
cả.
Khi Mác (1818-1883) và Lê
(1870-1924) ra đời thì đã có những nhà tư tưởng về Dân chủ và Pháp trị như John
Locke (1632-1704), Montesquieu (1689-1775), Jean-Jacques Rousseau (1712-1778),
Voltaire (1694-1778)…, họ đã tạo ra cả một thời đại Khai sáng, với lý thuyết về
Khế ước xã hội, chống chủ nghĩa chuyên chế và xây dựng Chủ nghĩa tự do, đặc biệt
là hình thành lý thuyết về Tam quyền phân lập để điều hành xã hội. Lịch sử loài
người hàng nghìn năm mới đạt đến trình độ như vậy, nền văn minh ấy đã đạt được
rất nhiều thành quả nhưng lại tạo ra những mâu thuẫn mới mà xã hội cần tìm cách
khắc phục, chứ không thể nói nhân loại lúc ấy “chưa thành người”!
Chính Mác-Lê “đoạn tuyệt một cách
triệt để nhất với các giá trị truyền thống” mới là người mắc bệnh “phủ nhận quá
khứ”, mà “phủ định sạch trơn” một cách vô lý nhất, chứ những người dân chủ ngày
nay có phủ định con đường Mác-Lê cũng chỉ là “phủ định sự phủ định” đúng phép
biện chứng để trả lại cân bằng cho thế gian, đem lại bình yên cho cuộc sống mà
thôi!
Nếu trào lưu Cộng sản chỉ như một
làn sóng phản biện, chỉ vạch trần, phê phán những yếu kém, những bất công do xã
hội Công nghiệp lúc ấy tạo ra thì quá tốt, để giúp xã hội buộc phải thanh toán
những khuyết tật của mình. Cộng sản muốn tranh giành quyền bính cũng tốt thôi,
nhưng phải giành bằng cách cạnh tranh công khai-dân chủ, chứ không thể “cướp”
chính quyền, và giành được chính quyền rồi thì đi tiếp con đường tiến bộ của
nhân loại tức con đường Dân chủ đa nguyên Pháp trị như các nước Bắc Âu bây giờ
(đó là nền Dân chủ Xã hội bắt nguồn từ Quốc tế 2), rồi cũng thực hiện đường lối
Lao-Tư lưỡng lợi như cụ Phan Châu Trinh đã nghĩ đến (tạo điều kiện để các nhà
Tư bản kinh doanh chân chính và thu lãi nhiều để có tiền góp cho các quỹ phúc lợi
xã hội, trợ cấp người lao động, người nghèo, người già yếu tàn tật…).
Con đường Dân chủ Xã hội (đừng dịch
nhầm là Xã hội chủ nghĩa) của Bắc Âu tuy có tiếp nhận Mục đích tốt đẹp mà
Mác-Lê gợi ý, nhưng Phương tiện tiến hành hành thì hoàn toàn khác nên thành
công rực rỡ, dù bị các nhà lý luận Mác-xít ghét bỏ như kẻ thù, nhất là lý luận
gia Nguyễn Đức Bình, bởi đó là đối chứng hùng hồn nhất, chứng minh Mác-Lê muốn
làm điều tốt song cách làm hoàn toàn sai lầm nên gây hiệu quả ngược với mục
đích.
Lối thoát danh dự cho Cộng sản Việt
Nam hiện nay là từ bỏ con đường cực đoan ảo tưởng Mác-Lê của Quốc tế 3, để theo
con đường Bắc Âu (tức con đường từ Quốc tế 2 mà Thụy Điển là tiêu biểu), cũng
là con đường Phan Châu Trinh chủ trương (con đường bị Hồ Chí Minh phê phán là hữu
khuynh thân Pháp). Thực chất cái gọi là “chủ nghĩa Tư bản” chẳng qua là một
giai đoạn khá cao trong tiến trình Tiến hóa tự nhiên của xã hội loài người,
giai đoạn văn minh Công nghiệp và Đại Công nghiệp, gọi là “chủ nghĩa” nhưng
không ai nghĩ ra trước, không có tác giả như trường hợp “chủ nghĩa Cộng sản”.
Nhưng sai lầm chết người ở chỗ
phong trào Cộng sản tưởng nhầm là lịch sử giao cho mình nhiệm vụ phải làm lại
thế giới, cướp lấy chính quyền để xây dựng một chế độ Mác-xít, theo một chủ
nghĩa do một vài tác giả cụ thể bốc đồng nghĩ ra trong một thời gian ngắn, một
Thiên đường hết sức chủ quan, thiếu hiểu biết, rất phản khoa học, phản quy luật.
Cái chủ nghĩa Cộng sản mới toanh ấy tuyên bố “đoạn tuyệt một cách triệt để nhất
với các giá trị truyền thống đã có”, nên gạt bỏ hết mọi giá trị mà nhân loại phải
hàng nghìn năm mới đạt được là nền Dân chủ đa nguyên Pháp trị với thiết chế Tam
quyền phân lập.
Mục đích Cộng sản thì cao siêu
nhưng phương cách thực hiện là bạo lực cách mạng, là độc đảng toàn trị nên thực
tế đã đạp đổ tất cả nền Dân chủ Pháp trị vừa mới manh nha. Người Cộng sản coi
các giá trị đó là sản phẩm của chủ nghĩa Tư bản nên quyết tâm đào mồ chôn nó
đi. Chính từ sự kiêu ngạo vô lối này, chủ nghĩa Cộng sản Mác-Lê đã tự đào mồ
chôn chính mình trước lịch sử tiến hóa Nhân loại.
4/ MÁC-LÊNIN ẢO TƯỞNG VÌ KHÔNG HIỂU
BẢN TÍNH CON NGƯỜI.
- Mác-Lê dám tưởng tượng sẽ có ngày
“làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” vì tin rằng khi được chế độ Cộng sản
giáo dục thì “con người mới” sẽ rất thánh thiện chứ không ai tham lam, muốn làm
ít mà đòi hưởng nhiều!
- Tuy Mác vẫn nhắc một danh ngôn cổ
điển “Không có gì thuộc về con người mà xa lạ đối với tôi” nhưng có lẽ Mác vẫn
không hiểu, không chấp nhận bản tính tự nhiên của con người. Nếu Mác-Lê biết bản
tính con người vốn tham lam và lợi dụng khi không bị luật pháp kiềm chế thì
Mác-Lê đã không cho phép Đảng Cộng sản được độc quyền lãnh đạo. Không có đa
nguyên kiềm chế, khiến cho các Đảng Cộng sản cầm quyền đều mặc sức lạm quyền, mặc
sức tham nhũng quyền lực như ở các nước Cộng sản ngày nay (ví dụ: đã làm Tổng
Bí thư lại muốn kiêm luôn Chủ tịch nước để nắm gọn toàn bộ quyền lực trong tay
như Tập Cận Bình và những người tương tự)!
Nếu hiểu bản tính tham lam của con
người, sao lại trao toàn bộ khối Công hữu khổng lồ của đất nước cho cơ quan nhà
nước “thống nhất quản lý” để nó biến hết của công thành của tư? Chính luật pháp
Tư bản hiểu rõ con người nên mới không cho tập trung quyền lực mà phải “Tam quyền
phân lập” hẳn hoi, chứ không lừa dối bằng kiểu “tam quyền phân công” từ một đầu
mối là sự chỉ huy thâu tóm của một đảng duy nhất.
5/ MÁC-LÊNIN HIỂU MHẦM VỀ NGUYÊN
NHÂN KHỔ ẢI VÀ BẤT CÔNG, VÀ DO ĐÓ SAI LẦM VỀ CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT.
Đi vào những việc cụ thể Mác-Lê
cũng mắc những nhầm lẫn. Mác-Lê quy nguyên nhân mọi tai họa là do tính Tự do cá
nhân và tính Tư hữu nên tìm mọi cách để “chống chủ nghĩa cá nhân” và diệt Tư hữu
để công hữu hóa hết thảy, và để nhà nước Cộng sản duy nhất quản lý. Kết quả là
không có gì phát triển được và chính cái nhà nước Vô sản độc quyền quản lý tài
sản Công hữu thì nó biến mọi Công hữu thành Tư hữu của họ. Để tránh tệ nạn tham
nhũng và cậy quyền thì Đảng Cộng sản lại dùng biện pháp “phê và tự phê, tu dưỡng
đạo đức, theo đạo đức Bác Hồ”, kết quả là những kẻ càng ca tụng đạo đức bao
nhiêu thì sự tham lam lại ngày càng phát triển bấy nhiêu. Nền Kinh tế chỉ huy
(với các kế hoạch 5 năm) và Kinh tế quốc doanh làm cho nhà nước và nhân dân đều
kiệt quệ nhưng cái túi riêng của những “học trò xuất sắc của đạo đức Bác Hồ”
thì căng đầy tiền tỷ đô la để gửi ngân hàng Thụy Sĩ! Về sau, tuy biết sai lầm
nên đã chuyển sang Kinh tế thị trường và ca ngợi Kinh tế tư nhân, nhưng tất cả
vẫn nằm trong tay một đảng độc quyền và một “nền Pháp trị xã hội chủ nghĩa” thì
tất cả vẫn chỉ là sự “đánh bùn sang ao”, kể cả việc “đốt lò” rùm beng cũng vậy.
Công hữu hay Tư hữu, đó là một mấu
chốt của tình hình diễn biến. Thuở ban đầu thì những người Cộng sản thật sự
chân thành tin vào con đường Công hữu như lời Mác dạy. Nhưng khi bước vào thực
hiện thì chút liêm khiết lúc đầu bị cái máu tham trong lòng tấn công. Máu tham
tự nhiên cứ như một kẻ gian truyền kiếp ẩn nấp sẵn trong lòng những tín đồ Cộng
sản, cứ đêm ngày xui họ biến những của Công trong tay thảnh của Tư, một sự “cướp
ngày” có giấy tờ rất đúng quy trình! Và cứ thế tình hình mỗi ngày một xấu. Cái
máu tham phục sẵn trong mỗi con người hỏi Mác có biết không, có “xa lạ” với Mác
không?
Đã từ lâu, miệng nói Công hữu nhưng
tay làm Tư hữu, nhưng không phải thứ Tư hữu lành mạnh công minh mà là Tư hữu
gian manh. Cờ thì giương cao Búa và Liềm nhưng hành động thì cướp đất của Nông
dân và không cho Công nhân tự lập hội để bảo vệ quyền lợi. Công và Nông là những
người khổ nhất hiện nay, trong khi trên truyền hình toàn thấy những ông bà Nông
dân (phần đông có gốc Bộ đội) có hàng chục héc-ta đất, thu lợi hàng chục tỷ mỗi
năm, quá đẹp!
Trước tình trạng Cộng sản nói một đằng
làm một nẻo như vậy thì tôi biết tranh luận những điều lý thuyết là hoàn toàn
vô ích, vì người ta nói như vậy nhưng có làm như vậy đâu nên tranh luận về lời
nói làm gì? Song, tôi vẫn muốn chốt lại một vài điều về lý thuyết chỉ để thấy
cái gọi là học thuyết Mác-Lê và Chủ nghĩa Xã hội khoa học ngay từ đầu đã chỉ là
một tà thuyết, phản khoa học, một ảo tưởng xuất phát từ khát khao đẹp đẽ muốn
giải phóng con người.
Tà thuyết đã phản lại Thiện tâm, nó
sẽ bị cuộc đời vứt bỏ, Nghị quyết 1481 của Quốc hội 46 nước châu Âu đã khẳng định
Chủ nghĩa Cộng sản là một chủ nghĩa chống Nhân loại.
Nhưng trong xã hội Việt Nam hiện
nay, đừng vội tưởng Ý thức hệ Cộng sản đã hết tầm quan trọng để không cần quan
tâm đến nữa. Trái lại Đảng Cộng sản vẫn còn giữ chặt và đẩy mạnh giáo điều
Mác-Lê và xiết chặt bộ máy Chuyên chính hơn bao giờ hết, bởi đó là chất xi măng
gắn kết của hệ thống và là cái áo giáp sắt giữ an ninh chế độ. Đảng Cộng sản mỗi
khi mở cửa một chút thông ra thế giới thường khiến cho nhiều người vui mừng, vì
nghĩ cứ mỗi ngày một chút, một tí chút thôi thì lâu dần, tích tiểu thành đại,
cũng sẽ ngày một khá lên. Xin thưa, đấy là kiểu tư duy đơn giản thuận chiều của
con nít. Mỗi lần mở ra cũng kèm theo một kế hoạch xiết lại, chặt hơn. Phía trước
chờ ta luôn có một dấu hỏi, ngay bên cạnh một niềm hy vọng.
(Trích từ bài viết nhân dịp kỷ niệm
trang Bauxite Việt Nam 10 năm-2019-
https://boxitvn.online/?p=86051
)
.
D 4-PHẢN BIỆN QUAN ĐIỂM CỦA LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC
Một thời Lênin được ca
ngợi là nhà cách mạng lỗi lạc, là lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản. Một
số người cho rằng ông vận
dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác và tạo thành Chủ nghĩa Mác-Lê nin. Nhưng cũng có không ít
người khẳng định rằng ông chỉ dựa hờ vào Mác và thực hành những điều sắt máu,
khủng bố mà Mác chưa bàn đến, đặc biệt là ông đã thiết lập nên nhà nước chuyên
chính vô sản, một hình thức độc tài toàn trị của Cộng sản.
Lê nin, dựa váo sách
“Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước” của Engels mà cho rằng một thời khá dài xã hội
loài người không có nhà nước, nó chỉ xuất hiện khi xã hội phân chia thành giai
cấp. Theo Lênin thì nhà nước là bộ máy của giai cấp này dùng để thống trị giai
cấp khác. Bộ máy đó mang nhiều hình thức chính quyền rất khác nhau, nhưng nội
dung không thay đổi. Nhà nước tư bản, bề ngoài là tự do, dân chủ, nhưng chỉ cho
bọn nhà giàu còn giai cấp vô sản bị đẩy vào vòng nghèo khổ, lệ thuộc.
Lênin kêu gọi vứt bỏ
thành kiến cũ kỹ xem nhà nước bình đẳng cho tất cả mọi người. Cho rằng nhà nước
là chính quyền của toàn dân là luận điệu hoang đường, dối trá.
Theo Lênin thì mục đích
của các đảng cộng sản là xóa bỏ giai cấp và đến lúc đó sẽ không còn nhà nước.
Nhưng khi chưa xóa bỏ được giai cấp thì phải thiết lập nhà nước vô sản chuyên
chính để thống trị, để trấn áp giai cấp đối kháng, để tiêu diệt kẻ thù giai cấp.
Hãy thử xem cách suy lý
và kết luận của Lê nin sai ở chỗ nào.
Những người tự nhận là
học trò của Lê nin cho rằng kết luận ông đưa ra là dựa trên khoa học chính xác.
Họ đã nhầm. Lê nin đã suy lý với luận cứ, luận chứng và luận đề, trong đó luận
đề (hoặc luận điểm) là kết luận về vai trò của nhà nước. Phương
pháp đúng, biện chứng, nhưng Lê nin đã phạm sai lầm khi thực hiện.
Có hai cách tiến hành
suy lý. Cách thứ nhất bắt đầu bằng việc thu thập mọi luận cứ, dùng luận chứng để
suy diễn và rút ra luận đề. Có luận cứ lý thuyết và luận cứ thực tiễn. Ở đây luận
cứ thực tiễn là quá trình lịch sử và chính trị của nhân loại. Phải thu thập một
cách khách quan và đầy đủ. Tìm ra kết luận rồi còn phải kiểm chứng bằng cách
xem có luận cứ nào mà kết luận ngược lại với nó hay không. Cách thứ hai là dự
đoán trước luận đề (đưa ra giả thuyết) rồi đi tìm luận cứ để chứng minh.
Cách này đòi hỏi người nghiên cứu phải thật sự khách quan, trung thực vì rất dễ bị thiên kiến mà chỉ tìm những luận
cứ thích hợp, bỏ qua luận cứ trái chiều. Lê nin đã theo cách thứ hai và
đã chủ động bỏ qua nhiều thứ.
Kết luận cần được kiểm
chứng bởi những người phản biện. Cách thứ hai càng cần sự phản biện nhiều hơn.
Thế nhưng những người học trò của Lê nin đã chỉ nghe theo ông một chiều, đem kết
luận ra tuyên truyền rộng rãi và tìm cách áp dụng vào thực tế. Đó là việc thiết
lập nhà nước chuyên chính vô sản với sự độc quyền toàn trị của đảng cộng sản. Đảng
này được Milovan Djilas gọi là “Giai cấp mới”.
Cũng đã có những phản
biện chống lại luận điểm do Lê nin đưa ra, đó là những nhà xã hội dân chủ mà đại
biểu là Bernstein (1858-1932- người Đức).
Lê nin đã vì mù quáng và kiêu ngạo mà không nghe họ, lại cho rằng
đó là bọn phản động, chống
lại cách mạng vô sản.
Lê nin đã dựa vào luận
cứ là một phần sự thật của lịch sử. Đó là nhà nước nô lệ, quân chủ và một phần
nào đó của nhà nước tư sản để chứng minh luận đề. Mà một phần của sự thật nhiều
khi là dối trá.
Trong một quốc gia phải
chăng chỉ có hai giai cấp. Còn rất nhiều các tầng lớp khác nữa chứ. Nhà nước có
nhiệm vụ gì với các tầng lớp này. Cừ tạm cho rằng có hai giai cấp chính là tư bản
và vô sản, quyền lợi mâu thuẫn nhau thì họ cần vừa đấu tranh, vừa hợp tác để
cùng tồn tại chứ sao vô sản lại đòi tiêu diệt tư bản trong lúc tư bản không bao
giờ xem vô sản là kẻ thù. Ngoài cộng sản ra thì chưa có nhà nước
nào đòi tiêu diệt cả một giai cấp.
Có hai loại nhà nước: độc
quyền và dân chủ. Bản chất của nhà nước độc quyền đã được Lê nin khai thác. Còn
nhà nước dân chủ thì sao. Lê nin cho rằng nó chỉ là hình thức. Hoàn toàn không
phải như vậy. Nền dân chủ của Hy Lạp cổ đại là không thể bác bỏ. Chính quyền
dân chủ ở nhiều nước Cộng hòa và quân chủ
lập hiến ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các nước Bắc Âu là sự thật hiển
nhiên, không thể xuyên tạc. Vậy bản chất của nhà nước nói chung và nhà nước dân
chủ là như thế nào, có phải là của giai cấp này để thống trị giai cấp khác hay
không. Không, không phải. Điều Lê nin cho rằng nhà nước là của giai cấp không
thể áp dụng cho mọi nhà nước nói chung mà chỉ là trường hợp riêng cho một vài
nhà nước độc tài nào đó mà thôi.
Còn luận cứ lý thuyết?.
Hình như Lê nin chỉ dựa vào quyển sách của Ăngghel mà phần viết về nhà nước
cũng chỉ là ý kiến cá nhân chứ chưa khẳng định được là chân lý phổ biến.
Thế thì không thể xem là luận cứ đáng tin.
Trong lịch sử nhân loại
nhà nước đã trải qua nhiều hình thái. Trong thời đại hiện nay nhà nước nói
chung (dù là độc quyền hoặc dân chủ) có hai chức năng chính là quản trị quốc
gia và bảo vệ lãnh thổ. Tạm để riêng việc bảo vệ lãnh thổ, không hoặc rất ít
liên quan đến giai cấp. Quản trị để quốc gia được ổn định và phát triển. Việc
này gồm nhiều lĩnh vực như làm Hiến pháp và các đạo luật, thi hành luật, thu
thuế, thực hiện các công trình công cộng vì lợi ích toàn dân về phát triển kinh
tế, giao thông, giáo dục, văn hóa, y tế, an sinh xã hội, bảo vệ quyền lợi và cuộc
sống của người dân, điều chỉnh những bất hợp lý trong đời sống dân sự,
bảo đảm cho mọi công dân bình đẳng trước luật pháp, bình đẳng về cơ hội. Những điều này là cho toàn dân chứ
không phải là của giai cấp. Quản trị xã hội có một phần nhỏ là trừng phạt những
kẻ vi phạm pháp luật, là giam giữ những kẻ nguy hiểm cho xã hội. Việc này
cũng không phải thuộc lĩnh vực giai cấp
này thống trị, đàn áp, tiêu diệt giai cấp khác.
Nhà nước dân chủ còn phải
tổ chức, tạo điều kiện thuận lợi để người dân thực thi quyền công dân, chủ yếu
bằng những cuộc bầu cử thật sự tự do, dân chủ. Qua bầu cử người dân chọn ra người
đại diện xứng đáng, truất bỏ những kẻ
kém tài đức, làm mất lòng tin.
Khi đồng ý với những điều
vừa nêu thì thấy
rõ ràng luận điểm của Lê nin về nhà nước là rất phiến diện, không thể xem đó là
chân lý khách quan.
Lênin chết sớm, vào năm
1924, lúc mới 54 tuổi, chưa kịp hoàn thành những ý tưởng vể nhà nước. Lê nin
bàn giao sự nghiệp lại cho Stalin và rồi ông này đã dựa vào lý thuyết do Lê nin
vạch ra để tạo nên nhà nước độc tài toàn trị của cộng sản.
Stalin đã xây dựng được
một nhà nước hùng cường một thời, đã công nghiệp hóa được nước Nga nông nghiệp
lạc hâu, đã phát triển được một số ngành khoa học, đặc biệt là về vũ khí và vũ
trụ, đã có được lực lượng quân sự và công an mạnh mẽ và hiện đại. Thế nhưng
Stalin cùng với đảng Cộng sản Liên xô đã tạo ra một nhà nước độc tài sắt máu, đẩy
nhiều chục triệu người vào thảm cảnh bị đày đọa, bị giết, đẩy hàng trăm triệu người vào cảnh bị
hạn chế tự do, làm cho nền kinh tế,văn hóa và đời sồng của đại đa số người dân
bị tụt hậu so với nhiều nước. Xã hội
Liên xô trong nhiều năm trở thành nhà tù của ý thức hệ, sự tự do tư tưởng, tự
do ngôn luận bị hủy hoại. Hễ có ai đó, kể cả cán bộ cấp cao của Đảng bị tố cáo,
bị nghi ngờ có câu nói hoặc ư nghĩ không
phù hợp với vô sản chuyên chính hoặc trái ý lãnh tụ là bị theo dõi, bị kết tội, bị thủ
tiêu. Không ai dám đụng đền một cái lông chân của lãnh đạo đảng.
Với họ chỉ được ca ngợi,
ca ngợi và ca ngợi.
Thế rồi Liên xô bị thất bại ở Apganistan, bị
suy yếu về kinh tế do chạy đua vũ trang, bị các nước XHCN ở Đông Âu xa lánh, bị
Trung cộng phê phán và chống đối, đảng CS và đặc biệt là nhiều lãnh đạo của đảng
bị mất niềm tin của dân. Liên xô bị tan rã, sụp đổ vào năm 1991. Người ta thi
nhau phân tích, tìm nguyên nhân của sụp đổ. Một trong những nguyên nhân cơ bản
là quan điểm sai lầm về nhà nước của Lê nin.
Sự sụp đổ của nhà nước
Liên xô được một số người đón nhận bình thường, xem là việc sớm muộn gì cũng xảy
ra, nhiều người ngạc nhiên, được Trung cộng vui mừng. Trước tình hình đó Cộng sản
Việt Nam, thời kỳ TBT Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười, ban đầu hoang mang, lo lắng,
sau đó ôm được chân của Trung cộng mà củng cố quyền lực thống trị.
Dân Việt có câu :”Một sự
bất tín vạn lần chẳng tin”. Quan điểm về nhà nước của Lê nin không phải là chuyện
bình thường mà là rất lớn. Một việc lớn như thế đã bị sai rõ ràng, đã bị “bất
tín”, thế mà nhiều lãnh dạo cao cấp của cộng sản Việt nam vẫn kiên trì theo Lê
nin. Vì sao vậy?. Điều này xin để mọi người luận giải theo sự hiểu biết và đạo
lý của bản thân.
Nhân đây xin có vài lời
về bộ Lê nin toàn tập. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia- Sự Thật đã dịch và in
Lê Nin toàn tập nhiều đợt. Đợt gần đây vào năm 2005, in trọn bộ gồm 55 tập nội
dung chính và 2 tập hướng dẫn tra cứu. Nội dung chính gồm khoảng dưới 10% là những
tác phẩm đã in thành sách (Làm gì, Bút ký triết học, Bút ký về chủ nghĩa đế quốc,
Nhà nước và cách mạng, Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán ) còn phần lớn là những bài thuyết trình ở các
lớp tập huấn, diễn thuyết tại các mit tin, báo cáo và phát biểu tại các đại hội
hoặc hội nghị, lời kêu gọi, hiệu triệu, các trả lời phỏng vấn. Riêng các loại
thư từ chiếm 10 tập (từ tập 46 đến 55).
Cộng sản cho rằng Lê
nin toàn tập là kho tàng vô cùng quý giá của kiến thức nhân loại. Đó là lời
tuyên truyền láo khoét, giả dối. Về hình thức đúng là đồ sộ, những 55 tập,mà tập
nào cũng dày dặn. Nhưng phần lớn nội dung là những thứ tầm phào.
Khi theo phương châm đãi cát tìm vàng thì cũng có thể tìm thấy trong đống ngôn
từ đồ sộ ấy một vài ý tưởng có giá trị trong lịch sử. Còn phần lớn nội dung chỉ
là những thứ có tác dụng nhất thời, nhiều thứ rơm rác, có thứ là sai lầm, độc hại,
thí dụ lý thuyết về nhà nước vô sản chuyên chính.
Xuất bản Lê nin toàn tập với số lượng hàng ngàn bản mỗi cuốn là một sự
lãng phí quá lớn vì phần lớn sách đó chẳng mấy ai đọc, chỉ để trang trí các giá
sách rồi được đem bán cho đồng nát tái chế thành bột giấy. Nhiều nơi cộng sản
đã tốn công tốn của dựng tượng Lê nin rồi nhân dân lại tốn công kéo đổ. Tượng
đã như thế thì sách giấy cũng sẽ không có được số phận tốt đẹp gì.
D6- PHẢN BIỆN TUYÊN NGÔN CỘNG SẢN
1- Tóm tắt nội dung của Tuyên ngôn
Tuyên
ngôn được công bố năm 1848, lúc Mác 30
tuổi và Ăng ghen 28 tuổi.
Mở đầu
Tuyên ngôn như sau : “Một bóng ma đang
ám ảnh Châu âu: Bóng ma chủ nghĩa cộng sản. Tất cả thế lực của Châu âu cũ: Giáo
Hoàng và Nga Hoàng , Mét-téc-ních và Ghi-dô, bọn cấp tiến Pháp và bọn cảnh sát
Đức, đều đã liên hợp lại thành một liên minh thần thánh để trừ khử bóng ma đó”.
Thực
tế Cộng sản đã được thừa nhận là một thế
lực, họ phải có một Tuyên ngôn của đảng mình để đập lại câu
chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản.
Tuyên
ngôn gồm 4 phần. Bản dich ra tiếng Việt dài khoảng 21 ngàn chữ.
Phần
I
- Tư sản và vô sản (chiếm khoảng 38% tổng số chữ)
Bắt đầu bằng khẳng định : “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước
đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp”. Tuyên ngôn cho rằng với phương thức
sản xuất tư bản có hai giai cấp(GC) cơ bản, thù địch nhau là GC tư sản và GC vô
sản. Các GC khác không đáng kể. Sự đấu tranh của vô sản chống lại tư sản ban đầu
chỉ nhỏ lẻ, ở các vùng miền. Dần dần các cuộc đấu tranh liên kết lại trong toàn
quốc và trở thành đấu tranh giai cấp.
Trong các xã hội trước, đấu tranh giai cấp vì quyền lợi của một vài nhóm thiểu
số. Đấu tranh của vô sản là vì quyền lợi của đa số. Tuyên ngôn đánh giá GC tư sản
đã có thời oanh liệt, cách mạng trong việc chống lại GC phong kiến và tạo lập
nên nền sản xuất công nghiệp phát triển. Nhưng rồi GC tư sản đã làm phát sinh
những cuộc khủng hoảng thừa, đã đẩy GC vô sản
vào cuộc sồng đói khổ.
Trong suốt cuộc đới Mác chưa hề chỉ đạo hoặc chứng kiến cuộc đâu tranh
GC nào có quy mô. Công xã Paris thực chất không phải là đấu tranh GC. Mác chi
suy tưởng ra cuộc đấu tranh GC ở quy mô toàn quốc mà thôi. Tuyên ngôn viết: “Trong khi phác
ra những nét lớn của các giai đoạn phát triển của giai cấp vô sản, chúng tôi đã
nghiên cứu cuộc nội chiến ít nhiều mạng tính chất ngấm ngầm trong xã hội hiện
nay”. Mác phác ra, suy
tưởng ra chứ thực tế chưa xảy ra như thế.
Tuyên ngôn viết: “Xã hội ngày càng chia thành hai phe lớn thù địch với
nhau, hai giai cấp lớn hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản”. Cho rằng hai
phe thù địch với nhau là không đúng với thực tế xã hội. Chỉ có một số người
trong GC vô sản, nghe Mác mà cho rằng GC tư sản là thù địch, là “không có khả
năng tiếp tục làm tròn vai trò giai cấp thống trị của mình trong toàn xã hội”.nên phải bị tiêu diệt và “giai cấp tư sản đã sản sinh ra những người đào huyệt chôn
chính nó”. Nhưng ngược lại GC tư sản chưa bao giờ, không có ai
xem GC vô sản là thù địch của họ. Rõ ràng cách nhìn của Mác về GC là cực đoan,
không phù hợp với tinh thần hợp tác. Tầm gương của các nước Xã hội Dân chủ ở Bắc
Âu là một minh chứng.
Phần II- Những người vô sản và cộng sản
(chiếm
khoảng 27%)
Phần
này nhằm nêu bật những tính chất cơ bản và quan trọng của người cộng sản.
Vào
thời của Mác có một số Đảng Cộng sản được
thành lập. Đã có những đảng viên cộng sản bằng xương thịt, nhưng người cộng sản
như mô tả của Mác chỉ mới có chủ yếu ở trong tưởng tượng và trên giấy.
Tuyên ngôn viết rằng:
“ Người cộng sản có một luận điểm
duy nhất là xoá bỏ chế độ tư hữu. …,
Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi
ích của toàn thể giai cấp vô sản”.
Thế rồi Tuyên ngôn
dựng lên “các ông” thuộc GC tư sản để đối thoại lan man về mọi thứ của cuộc sống,
Tuyên ngôn viết “Các ông hoảng lên, vì
chúng tôi muốn xoá bỏ chế độ tư hữuNhưng trong xã hội hiện nay của các ông, chế
độ tư hữu đã bị xoá bỏ đối với chín phần mười số thành viên của xã hội đó rồi”. Tuyên ngôn giải thích rằng vô
sản không có tư hữu, rằng tư bản không phải là một lực lượng cá nhân,
nó là một lực lượng xã hội. Cho nên, nếu tư bản
biến thành sở hữu tập thể thuộc tất cả mọi thành viên trong xã hội thì đó không
phải là một sở hữu cá nhân chuyển thành sở hữu xã hội. Chỉ có tính chất xã hội
của sở hữu là thay đổi thôi. Sở hữu mất tính chất giai cấp của nó.
“Nói tóm loại, các ông buộc tội chúng tôi là muốn xoá bỏ sở hữu riêng của
các ông. Quả thật, đó chính là điều chúng tôi muốn…..Các ông thú nhận rằng khi các ông nói đến cá nhân, là
các ông chỉ muốn nói đến người tư sản, người tư hữu tư sản mà thôi. Mà cái cá
nhân ấy thì chắc chắn cần phải thủ tiêu đi…..Nếu các ông lấy những quan điểm tư sản của các ông về
tự do, về văn hoá, về luật pháp,... làm tiêu chuẩn để xét việc xoá bỏ sở hữu tư
sản thì chẳng cần phải tranh cãi với chúng tôi làm gì.
Sauk hi Tuyên ngôn
ra đời, rộ lên rắng cộng sản chủ trương tam vô; vô gia đình, vô tổ quốc, vô
tông giáo.
Về gia đình,Tuyên
ngôn viết : “Gia đình tư sản hiện
nay dựa trên cơ sở nào? Dựa trên tư bản, trên lợi nhuận cá nhân. Gia đình dưới
hình thái hoàn toàn phát triển của nó, chỉ tồn tại đối với giai cấp tư sản
thôi, nhưng nó lại kèm theo sự bắt buộc phải thủ tiêu mọi gia đình đối với người
vô sản và kèm theo nạn mãi dâm công khai. Gia đình tư sản dĩ nhiên là sẽ tiêu
tan cùng với cái vật bổ sung đó của nó, và cả hai cái đó đều mất đi cùng với sự
tan biến của tư bản . …. Đối với
người tư sản, vợ hắn chẳng qua chỉ là một công cụ sản xuất….”.
Về Tổ quốc : Tuyên
ngôn viết “Công nhân không có tổ quốc. Người ta không thể cướp của
họ cái mà họ không có. Vì giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy
chính quyền, …Sự thống trị của giai cấp vô sản
sẽ càng làm cho những sự cách biệt và những sự đối lập mất đi nhanh hơn. ….Hãy xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng
dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa
các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc
cũng đồng thời mất theo…”.
Về tôn giáo. Tuyên
ngôn viết : “.Còn những lời buộc tội chủ
nghĩa cộng sản, xuất phát từ những quan điểm tôn giáo, triết học và nói chung
là xuất phát từ những quan điểm tư tưởng thì không đáng phải xét kỹ. … Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để
nhất với những quan hệ sở hữu kế thừa của quá khứ; không có gì đáng ngạc nhiên
khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt
để nhất với những tư tưởng kế thừa của quá khứ.
Tuyên ngôn tiếp tục
giải thích: “Giai cấp vô sản sẽ dùng sự
thống trị chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay
giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà
nước, tức là trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị,
và để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất.
Chính quyền vô sản
sẽ dùng những thủ đoạn, những biện pháp không thể thiếu để đảo lộn toàn bộ phương thức sản xuất.
Trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều.
Tuyên
ngôn kể ra 10 biện pháp phổ biến, như là
Tước đoạt sở hữu ruộng đất;Áp dụng thuế luỹ
tiến cao; Xoá bỏ quyền thừa kế; Tịch thu tài sản những kẻ lưu vong; Tập trung tín dụng và mọi phương tiện vận tảivào tay nhà nước; Tăng thêm số công xưởng nhà nước; Thực hành nghĩa vụ lao động đối với tất cả mọi người; Tổ chức các đạo quân công nghiệp; Kết hợp nông nghiệp,làm mất dần sự khác biệt thành thị
và nông thôn; Giáo dục công cộng và không mất
tiền cho tất cả các trẻ em.
Quyền lực chính
trị, theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp
một giai cấp khác. Giai cấp vô sản dùng bạo lực tiêu
diệt những quan hệ sản xuất cũ, thì đồng nó cũng tiêu diệt luôn cả những điều
kiện tồn tại của sự đối kháng giai cấp, nó tiêu diệt những giai cấp nói chung
và cũng do đấy, tiêu diệt cả sự thống trị của chính nó với tư cách là một giai
cấp.
Câu kết của phàn II
là “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Phần III-Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa (chiếm khoảng 30%)
Tuyên ngôn
viết: Do địa vị lịch sử của họ, quý tộc Pháp và Anh đã có sứ mệnh viết những
bài văn châm biếm đả kích xã hội tư sản hiện đại…. Các ngài quý tộc đã giương
cái bị ăn mày của kẻ vô sản lên làm cờ để lôi kéo nhân dân theo họ, nhưng nhân
dân vừa chạy lại thì trông thấy ngay những phù hiệu phong kiến cũ đeo sau lưng
họ, thế là nhân dân liền tản đi và phá lên cười một cách khinh bỉ. Một bộ phận
của phái chính thống Pháp và phái " Nước Anh trẻ " đã diễn tấn hài
kịch ấy…. Họ buộc tội giai cấp tư sản đã hy sinh ra một giai cấp vô sản cách
mạng, nhiều hơn là buộc tội giai cấp đó đã sinh ra giai cấp vô sản nói chung
Về vai trò
của các nhà văn từ nhân dân, tuyên ngôn nhận định: Trong những nước như nước
Pháp, ở đó nông dân chiếm quá nửa dân số thì tự nhiên đã xuất hiện những nhà
văn đứng về giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, nhưng đã dùng cái thước
đo tiểu tư sản và tiểu nông trong việc phê phán chế độ tư sản, và đã xuất phát
từ những quan điểm tiểu tư sản mà bênh vực sự nghiệp của công nhân. Chủ nghĩa
xã hội tiểu tư sản đã được hình thành như thế đó. Xi-xmôn-đi là lãnh tụ của thứ
văn học đó, không những ở Pháp mà cả ở Anh nữa.
Văn học xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa của nước Pháp, sinh ra dưới áp lực của một
giai cấp tư sản thống trị, biểu hiện văn học của sự phản kháng chống lại nền
thống trị ấy, thì được đưa vào nước Đức giữa lúc giai cấp tư sản bắt đầu đấu
tranh chống chế độ chuyên chế phong kiến. Công việc độc nhất của các nhà văn
Đức là điều hoà những tư tưởng mới của Pháp với ý thức triết học của mình, hay
nói cho đúng hơn, là lĩnh hội những tư tưởng của Pháp bằng cách xuất phát từ
quan điểm triết học của mình.
Như thế là
văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa Pháp đã bị hoàn toàn cắt xén. Và
vì trong tay người Đức, văn học ấy không còn là biểu hiện của cuộc đấu tranh
của một giai cấp này chống một giai cấp khác nữa
Một bộ
phận giai cấp tư sản tìm cách chữa các căn bệnh xã hội, cốt để củng cố xã hội
tư sản. … Và thậm chí người ta đã xây dựng chủ nghĩa xã hội tư sản này thành
một hệ thống hoàn bị.
Tiếp đên
Tuyên ngôn trình bày một vài nhận định về hoạt động văn học cùng với sự phát
triển của cách mạng.
Phần IV - Thái độ của những người cộng sản đối với các
đảng đối lập
(phần này khá ngắn, chiếm chưa đến 5% tổng số chữ, được để nguyên văn)
Căn cứ theo những điều mà chúng tôi đã nói ở phần II
thì thái độ của những người cộng sản đối với những đảng công nhân đã được thành
lập và do đấy, thái độ của họ đối với phái Hiến chương ở Anh và phái cải cách
ruộng đất ở Bắc Mỹ, tự nó cũng đã rõ rồi.
Những người cộng sản chiến đấu cho những mục đích và
những lợi ích trước mắt của giai cấp công nhân, nhưng đồng thời trong phong
trào hiện tại, họ cũng bảo vệ và đại biểu cho tương lai của phong trào. Ở Pháp,
những người cộng sản liên hợp với Đảng dân chủ - xã hội chủ nghĩa chống giai cấp
tư sản bảo thủ và cấp tiến, đồng thời vẫn dành cho mình cái quyền phê phán những
lời nói suông và những ảo tưởng do truyền thống cách mạng để lại.
Ở Thuỵ sĩ, họ ủng hộ phái cấp tiến, nhưng không phải
không biết rằng đảng này gồm những phần tử mâu thuẫn nhau, một nửa là những người
dân chủ xã hội chủ nghĩa theo kiểu Pháp, và một nửa là những người tư sản cấp
tiến.
Ở Ba Lan, những người cộng sản ủng hộ chính đảng đã
coi cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc, nghĩa là chính đảng
đã làm cuộc khởi nghĩa Cra-cốp năm 1846.
Ở Đức, Đảng cộng sản đấu tranh chung với giai cấp tư sản
mỗi khi giai cấp này hành động cách mạng chống chế độ quân chủ chuyên chế, chống
chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến và giai cấp tiểu tư sản phản động.
Nhưng không một phút nào Đảng cộng sản lại quên giáo dục
cho công nhân một ý thức hết sức sáng rõ về sự đối kháng kịch liệt giữa giai cấp
tư sản và giai cấp vô sản, để khi có thời cơ thì công nhân Đức biết sử dụng những
điều kiện chính trị và xã hội do sự thống trị của giai cấp tư sản tạo ra, như
là vũ khí chống lại giai cấp tư sản, để ngay sau khi đánh đổ xong những giai cấp
phản động ở Đức, là có thể tiến hành đấu tranh chống lại chính ngay giai cấp tư
sản.
Những người cộng sản chú ý nhiều nhất đến nước Đức, vì
nước Đức hiện đương ở vào đêm trước của một cuộc cách mạng tư sản, vì nước Đức
sẽ thực hiện cuộc cách mạng ấy trong những điều kiện tiến bộ hơn của nền văn
minh châu âu nói chung và với một giai cấp vô sản phát triển mạnh mẽ hơn nhiều
so với nước Anh trong thế kỷ XVII và nước Pháp trong thế kỷ XVIII. Và do đấy,
cách mạng tư sản Đức chỉ có thể là màn đầu trực tiếp cho một cuộc cách mạng vô
sản.
Tóm lại, ở tất cả mọi nơi, những người cộng sản đều ủng
hộ mọi phong trào cách mạng chống lại trật tự xã hội và chính trị hiện hành.
Trong tất cả phong trào ấy, họ đều đưa vấn đề chế độ sở
hữu lên hàng đầu, coi đó là vấn đề cơ bản của phong trào, không kể là nó đã có
thể phát triển đến trình độ nào.
Sau hết, những người cộng sản ở mọi nơi đều phấn đấu
cho sự đoàn kết và sự liên hợp của các đảng dân chủ ở tất cả các nước.
Những người cộng sản coi là điều đáng khinh bỉ nếu giấu
giếm những quan điểm và ý định của mình. Họ công khai tuyên bố rằng mục đích của
họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện
hành. Mặc cho các giai cấp thống trị run sợ trước một cuộc Cách mạng cộng sản
chủ nghĩa! Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài
những xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới.
Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!
.2 - Bình luận, phản biện
Tuyên ngôn được
UNESCO đưa vào “Di sản tư liệu thế giới” (2019), được tuyên truyền cộng sản ca
ngợi hết lời, bốc lên tận may xanh. Nào là kết tinh trí tuệ của loài người, là
ánh sáng soi đường cho cách mạng vô sảni, là cương lĩnh tràn đầy sức sống, có ý
nghĩa thời đại sâu sắc và bất hủ, sẽ sống mãi với thời gian. Đối với Việt Nam
nó là ánh sáng rực rỡ soi đường cho cách mạng.
Về Di sản tư liệu
thế giới. Đến năm 2021 Việt Nam có 5 công trình được đưa vào Di sản tư liệu thế
giới là Bia Tiến sĩ thời Lê-Mạc, Mộc bản
Triều Nguyễn, Châu bản Chùa Vĩnh nghiêm, Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế,
Mộc bản trường Phúc Giang ( Hà Tĩnh). Như vậy việc Tuyên ngôn được đưa vào Di sản
tư liệu chỉ là một sự ghi nhận chứ không có ý nghĩa gì lớn đối với nhân loại.
Ngoài việc này ra thì mọi sự ca ngợi đối với Tuyên ngôn đều mang tính phóng đại,
tô vẽ, bốc phét quá xa sự thật.
Phần I về đấu tranh
giai cấp (ĐTGC) là sai về cơ bản. Từ năm 1922 Tôn Trung Sơn đã vạch ra và phê
phán sai lầm này.
Trong thế kỷ 20 ĐTGC thực
chất là cuộc đấu tranh do các thế lực cộng sản đề xướng và lãnh đạo quần chúng
cần lao, chống lại những người giàu có, nhằm tranh đoạt lợi ích kinh tế và quyền
lực chính trị. Cuộc đấu tranh này chủ yếu dùng bạo lực với phương châm một còn
một mất nên rất quyết liệt và thảm khốc.
Tạm thời ĐTGC có đem đến một chút quyền lợi
và tinh thần cho cần lao, nhưng
tác hại nó mang lại cho nhân loại là to lớn và toàn diện : về đạo đức,
văn hóa, kinh tế, nhân mạng.
ĐTGC luôn đặt câu hỏi và tìm kiếm kẻ thù giai
cấp trong thực tế và trong tư tưởng. Tìm cho ra để tiêu diệt cho hết. Mà phải
dùng bạo lực để tiêu diệt theo phương châm “ thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”. Ở
Việt Nam, trong những năm mà ĐTGC được đề cao, tầng lớp tiểu tư sản, trí thức,
văn nghệ sĩ rất hoảng sợ khi được cật vấn về lập trường giai cấp, ý thức giai cấp.
Trong các nước do cộng sản thống trị hàng chục triệu người đã bị giết một cách
oan ức vì ĐTGC. Ở VN hiện nay, sự xuống
cấp rất trầm trọng của đạo đức, sự hủy diệt tầng lớp tinh hoa, sự chia rẽ dân tộc
chính là do ĐTGC mang lại.Trong cải cách ruộng đất và cải tạo tư sản không hiếm
trường hợp con cháu chống lại ông bà cha mẹ chỉ vì để thế hiện tinh thần ĐTGC,
thể hiện sự trung thành với ĐCS.
Những người lãnh đạo
ĐCS nói rằng ĐTGC nhằm mang chính quyền về cho giai cấp vô sản, nhưng thực tế
không phải vậy. ĐCS nhờ giỏi tuyên truyền mà thu nhận được một số người có
trình độ hiểu biết. Những người này có 2 loại : trung thực và cơ hội. Sau khi
ĐCS giành được chính quyền, những độc hại của chủ nghĩa Mác
Lê dần dần lộ ra. Mọi
người đều thấy, nhưng bọn cơ hội lợi dụng để mưu đồ lợi ích cho bản thân và phe
nhóm, còn người trung thực tìm cách chống lại. Vì trung thực nên ít biết dùng
thủ đoạn, vì thế chính quyền dần dần rơi vào tay bọn cơ hội. Bọn này thiếu trí
tuệ nhưng có nhiều mưu mẹo, có nhiều thủ đoạn gian dối trong đấu tranh. Chúng
tìm cách triệt hạ hoặc hạn chế những người không cùng quan điểm mà chủ yếu là
những trí thức tinh hoa và trung thực, chúng
tìm cách loại bỏ những người không cùng phe cánh, có xung đột quyền lợi.
Chính quyền như vậy mà bảo rằng là của vô sản thì quá hài hước.
Như vậy ĐTGC ở VN cuối
cùng mang lại lợi ích cho một nhóm nhỏ bọn cơ hội còn giai cấp công nhân vẫn tiếp
tục bị áp bức và bóc lột, nông dân vẫn là những người bị thiệt thòi. Đất nước,
nhân dân oằn mình gánh chịu thiên tai và nhân tai. Phần lơn nhân tai là kết quả
trực tiếp hoặc gián tiếp của ĐTGC.
Phần II, về vô sản và cộng sản. Phần này chủ yếu trình bày về con người.
Những nhầm lẫn của Mác về con người đã được trình bày ở mục 3 (Sai ở nhận định
về con người). Ngoài ra phần này còn đụng chạm đến một vấn đề nhạy cảm là “Tam
vô” (Vô gia đình, vô Tổ quốc, vô tôn giáo). Vấn đề này được bàn luận nhiều vào
cuối thế kỷ 19, đấu thế kỷ 20. Nhưng rồi ngày nay hầu như không nghe có người
Marxit nào nhắc đến nó nữa.
Phần III
được trình bày một cách rối rắm với định hướng không rõ ràng và rất phiến diện.
Phải chăng Mác và Engels định bàn đến đời sống tinh thần của giai cấp. Nếu thế
thì không đạt vì ở đây chỉ viết một số nhận xét về vài tác phẩm văn học có dính
dáng đến quan hệ giai cấp. Những người Marxit khi tuyên truyền và ca ngợi tuyên
ngôn thường bỏ qua phần này vì họ không tìm thấy gì có giá trị trong đó, chỉ là
một mớ ngôn từ lộn xộn.
Phần IV,
Tuyên ngôn điểm qua tình hình các đảng Cộng sản ở Anh, Bắc Mỹ, Pháp, Thụy sĩ,
Ba Lan, và đặc biệt là ở Đức. Cộng sản thời Mác và Engels còn tôn trọng và hợp
tác với các đảng đối lập chứ không như một vài đảng CS đã giành được chính
quyền và thực hành sự toàn trị, họ không chấp nhận đối lập và quyết tiêu diệt
cho hết. Ở phần này Mác và Engels tỏ ra dám nói thật khi viết : “Điều đáng
khinh bỉ nếu giấu giếm những quan điểm và ý định của mình. Họ công khai tuyên
bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn
bộ trật tự xã hội hiện hành…. Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng
mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ”. Nhưng Mác và Engels đã không
thấy được sự mất mát rất lớn không những của những người vô sản mà của nhân
loại, đó là trong cuộc cách mạng ấy rất nhiều nhân mạng bị giết, là nền đạo đức
của xã hội bị hủy hoại, là việc đưa một số người kém trí tuệ lên cương vị thống
trị làm cho phần lớn đạo lý bị đảo lộn.
3 - Cộng
sản đã vận dụng Tuyên ngôn như thế nào
Cộng sản
trên toàn thế giới và đặc biệt là CSVN ra sức tuyên truyền, hết lời ca ngợi Bản
Tuyên ngôn, tưởng rằng họ sẽ nghiên cứu để thực hành theo nó. Nhưng không phải,
họ chỉ lợi dụng nó để thực hiện những ý đồ thâm hiểm của mình. Nơi trang trọng
họ treo ảnh Marx và Engels nhưng trong lòng họ hình ảnh các ông đã xuống đến
ruột già.
Trong Tuyên ngôn có vài điều đúng và nhiều điều sai. Có những điều
như: “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả mọi người,Người cộng sản tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi
ích của toàn thể giai cấp vô sản, Những người cộng sản ở mọi nơi đều phấn đấu cho sự đoàn
kết và sự liên hợp của các đảng dân chủ ở tất cả các nước, Những người cộng sản coi là điều đáng khinh bỉ nếu giấu
giếm những quan điểm và ý định của mình.”. Đólà những điều
đúng, hợp đạo nghĩa. Những điều này đã bị các thế hệ lãnh dạo cộng sản không những
vứt bỏ mà còn tích cực làm ngược lại.
Những điều sai, phản
đạo lý về ĐTGC, về chuyên chính vô sản với sự thống trị độc tài, về đán áp tư
tưởng, khinh miệt tôn giáo thì lãnh đạo cộng sản ra sức đề cao và thi hành. Họ
làm như vậy với mục đích củng cố quyền lợi cá nhân và phe nhóm. Một vài lãnh tụ
cộng sản còn muốn làm Hoàng đế suốt đời, họ tạo nên một giai cấp mới với những
ông vua tập thể. Về hình thức họ có làm một số việc quan tâm đến giai cấp vô sản
và nhân dân lao động, nhưng thực chất đó chỉ là như ông chủ quan tâm nuôi dưỠng
đàn cừu, đàn vịt trong tay. Họ vỗ cho chúng béo để thu được lợi nhiều hơn chứ
chẳng vì tự do và hạnh phúc của chúng.
Một vài lãnh đạo cộng sản không đến nỗi quá
kém trí tuệ cũng đã phát hiện ra những điều trái quy luật trong Tuyên ngôn, đã
làm ngược lại, có nghĩa là chống lại, phản lại, nhưng phạm vào dối trá khi cho
rằng làm như thế là vận dụng sáng tạo. Đó là việc phát triển kinh tế tư nhân
với mèo trắng mèo đen, với cơ chế thị trường v.v…
4 - Kết
luận
Để viết
một văn kiện quan trọng như Tuyên Ngôn người ta cần đạt đến trình độ “Tri Thiên
Mệnh”. Nhưng Mác và Engels còn quá trẻ để hiểu kỹ sự đời. Phải chăng ở tuổi
chưa quá 30 họ là những chú ngựa non háu đá, cứ tưởng mình là thiên tài, kiêu
ngạo, huênh hoang, thách thức cả thế giới. Hình như khi về già Mác đã nhìn lại
thời trai trẻ và nhận ra đã quá hung hăng. Thế nhưng những người làm tuyên truyền của
cộng sản đã vô liêm sĩ, không chịu đọc kỹ Tuyên ngôn, cứ ca ngợi bừa bằng những
lời rỗng tuếch, chẳng khác gì thổi bong bóng xà phòng. Thực ra Tuyên ngôn chỉ
là một tảng đá nằm trên con đường phát triển của nhân loại.
------------------------------------------------------------------------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét