Thứ Hai, 17 tháng 6, 2024

( HỌC LÀM PHẢN BIỆN ( Nguyễn Đình Cống ) -8-

 ( Tiếp theo và hết )



D3- PHẢN BIỆN HỌC THUYẾT CỦA MÁC

1-Giới thiệu

Xin không bàn đến câu chuyện có hay không có Chủ nghĩa Mác mà chỉ đề cập đến học thuyết của Mác.

Những người tôn sùng Mác được gọi là Macxit. Họ đánh giá rất cao học thuyết của ông. Họ tôn ông là lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản và các đảng Cộng sản, người lỗi lạc nhất trong những người lỗi lạc, nhà triết học, kinh tế học, sử học, xã hội học, chính trị học, người trọn đời đấu tranh chống áp bức bóc lột, vì hạnh phúc của giai cấp vô sản và nhân loại.

Số người Macxit tuy đông, nhưng chỉ chiếm một phần nhỏ của thế giới. Số đông hơn nhiều đánh giá Mác là kẻ hồ đồ, xảo trá, là tội phạm lớn của nhân loại, đánh già học thuyết của Mác là phản khoa học.

Mác sinh năm 1818, mất năm 1883, là một người rất giỏi ngụy biện, đã dùng hình ảnh vô cùng tốt đẹp của một xã hội tương lai do ông tưởng tượng ra để đánh lừa nhiều triệu người. Những người đó phần lớn là tầng lớp vô sản, ít học hoặc những người tuy có học, có bằng cấp cao nhưng dễ tin nên bị mắc lừa, đặc biệt là bị nhồi sọ từ lúc còn bé, trở thành cuồng tín. Ngoài ra có một số người trong các Đảng CS cầm quyền cũng đề cao Mác, tuy biết những cái sai của ông, nhưng vẫn cố bám víu vào ông, nhằm bảo vệ quyền và lợi họ đã chiếm được nhờ vào cách mạng vô sản và những thủ đoạn của họ.

Riêng một số người biết suy nghĩ, ban đầu bị nhầm mà tôn sùng và tìm cách vận dụng học thuyết của Mác, nhưng rồi họ tỉnh ngộ ra và chống lại khi phát hiện thấy rằng những điều tốt đẹp về Chủ nghĩa cộng sản ở thế giới đại đồng chỉ là bánh vẽ, rằng đấu tranh giai cấp và cách mạng vô sản là những sự phá hoại, rằng xóa bỏ tư hữu về sản xuất là sai lầm. Nói chung, cứ đem áp dụng học thuyết của Mác vào thực tế thì chủ yếu gặp thất bại. Đại diện cho những nhà trí thức lớn trước thì theo, sau thì bỏ Mác có Bertrand Russell (1872-1970 người Anh), ở VN có GS Trần Đức Thảo (1917-1993).

Theo sách “Trần Đức Thảo-Những lời trăng trối” của Phan Ngọc Khuê thì lúc trẻ ông Thảo say mê Mác, nhưng dần dần ông phát hiện nhiều sai lầm của Mác. Trần Đức Thảo đang viết một quyển sách vạch ra những sai lầm đó thì bị đột tử. Trong sách của ông Khuê  có chương 14, nhan đề “Nêu đích danh thủ phạm”, viết một số nhận định của ông Thảo, rằng chính Mác là thủ phạm, đã lừa dối nhân loại, đẩy một số người vào việc phạm tội ác.

Người chống lại học thuyết của Mác rõ ràng và có hiệu quả là Bernstein (1850-1932-người Đức). Ông đã có ảnh hưởng lớn trong Đệ nhị quốc tế, người chủ trương xây dựng chế độ Xã hội dân chủ bằng con đường đấu tranh nghị trường, phản đối cách mạng vô sản. Mô hình này đã thành công ở các nước Bắc Âu.

Có một nghịch lý là số người theo Mác là rất ít so với số người phản đối Mác nhưng số bài viết ca ngợi Mác lại khá nhiều so với những bài phản biện. Vì sao vậy?. Vì rằng số người theo Mác tuy ít nhưng có tổ chức, đó là các đảng cộng sản, đặc biệt là các ĐCS cầm quyền, họ có những cơ quan tuyên truyền hùng hậu, họ ra sức truyền bá và đề cao Mác để lôi kéo quần chúng, để tự thỏa mãn ảo tưởng của bản thân.

Những ĐCS cầm quyền tuyên truyền rằng họ kiên trì theo Mác, nhưng thực ra không hoàn toàn đúng như vậy. Họ chỉ giữ sự độc tài toàn trị về chính quyền để áp đặt nền thống trị, còn về kinh tế thì họ đã làm ngược với quan điểm của Mác trong nhiều vấn đề. Làm ngược nghĩa là phản lại, nhưng họ ngụy biện là vận dụng sáng tạo và phát triển ý tưởng của Mác. Đây là lập luận dối trá vô cùng lộ liễu, thế mà vẫn có người nghe theo. Họ là những kẻ cuồng tín, ngu tín, những kẻ đã bị nhồi sọ quá nặng đến nỗi không còn biết suy nghĩ.

Tại sao Mác có thể dùng ngụy biện để đánh lừa và có một số người bị mắc lừa như vậy. Vấn đề này xin để lại sau. Dưới đây tôi chỉ phân tích một số sai lầm và ngụy biện trong học thuyết của Mác.

2-Sai về triết học

Mác chủ trương triết học duy vật. Cuộc đấu giữa duy vật và duy tâm đã diễn ra hàng ngàn năm chưa phân thắng bại. Triết học Mác cho rằng vật chất có trước và toàn bộ vũ trụ là vật chất. Ý thức có sau và là sản phẩm bậc cao do hoạt động vật chất của bộ não con người. Mác đã kết hợp duy vật và phép biện chứng thành Duy vật biện chứng. Điều này đã hấp dẫn một số người thích lối suy luận dựa vào logic, họ cho rằng duy vật của Mác đã thắng một cách áp đảo, đã chôn vùi triết học duy tâm. Những người theo duy tâm cho rằng ý thức có trước.

Vật chất và ý thức là hai phạm trù tồn tại song song, chúng có quan hệ qua lại và không thể nói cái nào có trước. Duy vật và duy tâm đều cực đoan. Hiểu sai, nghiêng về duy tâm tuy có lệch lạc về nhận thức nhưng không gây nên những tai họa lớn cho xã hội. Hiểu sai nghiêng về duy vật tạo ra nhiều tai họa hơn.

Những người tôn sùng duy vật thường coi trọng các nhu cầu vật chất của con người. Trong đấu tranh giai cấp và cách mạng vô sản Mác cũng nhằm vào mục đích chính là đem lại quyền lợi vật chất cho giai cấp vô sản. Trong ảo tưởng về một xã hội cộng sản Mác đưa ra những hưởng thụ về vật chất để làm mồi nhử.

Tâm linh là một trong hai phần cơ bản tạo nên Vũ trụ và Con người, là đối tượng của Tôn giáo. Nó là phần quan trọng trong đời sống tinh thần của nhiều người. Tôn giáo duy trì, cổ vũ đức tin và đời sống đạo đức. Thế mà duy vật bài bác tâm linh, ngăn cản hoặc phá hoại tôn giáo. Duy vật làm gia tăng máu lạnh trong con người, xô đẩy người ta vào cuộc tranh giành quyền bính và lợi ích vật chất. Nền đạo đức của xã hội Việt Nam gần đây bị xuống cấp trầm trọng, phần lớn là do nguyên nhân này.

3-Sai ở nhận định về con người

Mác cho rằng “Bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Đó là một phán đoán chỉ phản ảnh một phần nhỏ mà đã bỏ qua phần lớn thuộc tính bản chất. Vì vậy có thể nói rằng Mác đã phán đoán sai. Cái sai này đã dẫn ông đi lạc đường trong nhiều vấn đề.

Hoạt động của con người, ngoài một số ít theo bản năng thì đều xuất phát từ nhận thức. Theo phép biện chứng của Mác thì nhận thức là do:“Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Trực quan sinh động diễn ra dưới 3 hình thức: cảm giác, tri giác, biểu tượng. Tư duy trừu tượng là giai đoạn tiếp theo, cao hơn về chất của quá trình nhận thức, diễn ra dưới 3 hình thức: Khái niệm, phán đoán, suy lý”.

Những nghiên cứu sâu hơn về con người chỉ ra rằng quan niệm về nhận thức như trên của Mác chỉ đúng một phần. Thực ra nhận thức (hoặc Tâm thức) gồm từ hai nguồn là tiềm thức và ý thức. Tiềm thức là những thông tin được chứa trong Tàng thức, trong các tầng hào quang của con người  mà khoa học thực nghiệm hiện nay chưa biết rõ  (1). Tiềm thức được hình thành từ trong bào thai do di truyền, do tiếp thu tinh hoa sông núi. Ý thức thuộc hoạt động của não mà phần lớn được hình thành từ lúc còn rất bé, một phần nữa do các quan hệ xã hội tạo nên. Mác  thấy khá rõ phần quan hệ  này, quan trọng hóa nó lên, rồi vội cho rằng đó là bản chất.

Mác quy kết sai về bản chất con người như vậy do bị ảnh hưởng bởi thuyết tiến hóa Đac Uyn. Thuyết này đề cao ảnh hưởng của môi trường và hiện nay đang bị đánh đổ dần dần.

Từ chỗ đề cao các mối quan hệ xã hội do vị trí của con người trong nền sản xuất và sự thụ hưởng quyền lợi vật chất mà Mác phân chia loài người thành các giai cấp mà coi nhẹ yếu tố quốc gia và dân tộc. Trong các giai cấp thì Mác tỏ ra yêu thương giai cấp vô sản vì thấy họ bị bóc lột, bị áp bức, chịu nhiều sự bất công. Đó là lòng tốt. Nhưng rồi lòng tốt này đã làm Mác mờ mắt và loạn trí, đã nhìn thấy ở giai cấp vô sản những đức tính tốt đẹp để có thể làm chủ thế giới trong lúc họ không có đủ phẩm chất để làm công việc đầy khó khăn đó. Cuối Bản Tuyên ngôn Cộng sản Mác đã kêu gọi “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại”. Để làm gì?. Phải chăng để: Quyết phen này sống chết mà thôi, để mau phá sạch tan tành chế độ xưa, để giành lấy toàn bộ lợi quyền về tay mình (lời của Quốc tế ca).

Mác cũng có thấy một vài thói xấu của vô sản và vì không thể bỏ qua nên có nhắc đến ‘tầng lớp vô sản lưu manh’ và cảnh báo rằng khi nắm được chính quyền một số cá nhân nguyên là vô sản có thể sẽ thay đổi tính nết mà đi theo vết xe đổ.

Bản chất của con người được tạo nên từ giống và điều kiện môi trường. Giống hoặc hạt giống có từ trong bào thai, chứa trong Tiềm thức. Nó sẽ nảy nở, phát triển hay bị tàn lụi như thế nào là do môi trường. Như vậy môi trường là rất quan trọng, nhưng chính hạt giống mới là nhân tố quyết định. Trong môi trường có các quan hệ xã hội. Vì đầu óc bị vật chất ám ảnh mà Mác không thấy hoặc cố tình bỏ qua vai trò hạt giống, còn trong môi trường thì Mác thấy rất rõ quan hệ xã hội, không thấy được những thứ khác như sự giáo dục gia đình từ lúc trẻ còn rất bé và sự tu dưỡng của bản thân.

Với số đông người hạt giống về tư hữu là mạnh nhất, nó chi phối nhiều hoạt động. Người vô sản, trong hoàn cảnh phải bán sức lao động để sinh sống thì hạt giống ấy bị kìm hãm, chưa phát triển được. Nhưng khi đã nắm được quyền lực thì hầu như toàn bộ mọi người sẽ để cho hạt giống tư hữu phát triển chứ không phải chỉ vài trường hợp riêng. Nếu có đặc biệt thì đó là một số rất ít người có sẵn hạt giống tốt về đạo đức nhân bản mà sức mạnh của nó có thể chiến thắng hạt giống tư hữu vốn có nhưng yếu.

Một nhận định khá sai lầm của Mác, cho rằng giai cấp công nhân đại diện cho nền sản xuất công nghiệp tiên tiến và từ đó gán cho họ những đức tính do Mác suy luận ra. Điều này đã được nhiều học giả vạch ra (2), được thực tế chứng tỏ, tưởng không cần chứng minh thêm nữa.

Chú thích: (1)- Xem sách Bàn tay ánh sáng (Hand of light), tác giả Barbara Ann Brennan. Lê Trọng Bổng dịch. NXB Văn hóa thông tin- 1996.

(2)- Xem sách Mao Trạch Đông ngàn năm công tội, tác giả Tân Tử Lăng. NXB Thư Tác Phương- Hồng Công- 2007.

4- Sai ở phương pháp nghiên cứu

Mang danh làm khoa học, nhưng Mác đã sai phạm trong phương pháp. Những sai phạm này khá tinh vi, không dễ thấy mà có thể Mác cũng không biết hết được.

Trước tiên là việc rút ra các kết luận có tính quy luật. Đành rằng các quy luật về xã hội không yêu cầu chặt chẽ như quy luật tự nhiên, nhưng không thể chỉ căn cứ vào vài suy luận sơ sài rồi rút ra kết luận chắc nịch. Mác cho rằng xã hội loài người tất yếu xảy ra 5 phương thức sản xuất và sau phương thức tư bản sẽ là phương thức cộng sản mà quá độ là xã hội chủ nghĩa, rằng phải có sự thống nhất giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, rằng đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp, rằng giai cấp vô sản sẽ làm chủ xã hội tương lai, rằng nguyên nhân nghèo khổ của vô sản là vì họ không có tư liệu sản xuất. Những kết luận đó đều chỉ mới dựa vào một vài hiện tượng đơn lẻ rồi suy diễn ra. Thế mà chúng được tô vẽ, được ngụy biện để đến nỗi rất nhiều người tin là chân lý. Xin hãy đừng tuyệt đối tin vào Mác, đừng nhắc lại như vẹt mà hảy lật lại, thử phản biện xem sao.

Trước hết tạm phân tích về các phương thức sản xuất. Mác đưa ra 5 : nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản, cộng sản và cho rằng đó là tất yếu. Về phương thức sản xuất nguyên thủy, người ta cho rằng đó là việc hái lượm, săn bắt và trồng trọt ở thời kỳ đầu. Trồng trọt được xem là sản xuất, nhưng nó xuất hiện sau, ghép nó vào thời nguyên thủy là khiên cưỡng. Còn hái lượm và săn bắt thì sản xuất ở chỗ nào?. Về phương thức nô lệ. Nếu nó thuộc quy luật chung thì ở Việt nam và Trung quốc là thuộc thời kỳ lịch sử nào. Người ta tìm không thấy nên bịa thêm phương thức sản xuất châu Á. Sự bịa này gây tranh cãi. Trong lịch sử, nô lệ là một hình thái xã hội thể hiện quan hệ giữa những con người chứ không phải là một chế độ chính trị, càng không phải là phương thức sản xuất phổ biến.

Năm phương thức có phải là quy luật?. Không, hoàn toàn không phải. Quy luật là sự thật khách quan, trước khi được phát hiện ra thì nó ở dạng ẩn giấu, nhưng vẫn là sự thật tồn tại. Sau khi được phát hiện nó phải được kiểm chứng chặt chẽ. Có thể dùng quy luật để rút ra những kết luận theo cách nội suy. Theo đúng phương pháp khoa học không thể dùng phép ngoại suy để rút ra quy luật. Sau phương thức phong kiến là phương thức tư bản, đó là sự thật. Sau tư bản là gì thì chưa có, chưa xảy ra, chưa biết. Chỉ có thể đoán. Cho rằng sau tư bản là cộng sản, đó chỉ là một phỏng đoán, một sự ngoại suy. Thế mà người ta khẳng định rằng đó là quy luật do Mác phát hiện ra. Nghĩ như thế, nói như thế là quá láo khoét.

Mác đưa ra kết luận rằng “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp. Câu này là mở đầu của Tuyên ngôn các đảng Cộng sản, công bố năm 1848. Đó là một kết luận quá vội vàng, chỉ mới dựa trên một vài hiện tượng riêng lẻ. Tôn Trung Sơn đã kịch liệt phản bác luận điểm này (3).

 Đúng là trong lịch sử có xảy ra những cuộc đấu tranh của nô lệ chống lại chủ nô, của nông dân chống tập đoàn phong kiến, đặc biệt trong thời đại của Mác là các cuộc đấu tranh đòi quyền lợi của công nhân. Không thể nào xem các cuộc đấu tranh như thế là động lực phát triển lịch sử. Công xã Paris (1889…) Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930) là những cuộc đấu tranh chống cường quyền và áp bức chứ chứ không hẳn là đấu tranh giai cấp và sự thất bại của các cuộc đấu tranh đó chẳng tạo nên động lực phát triển.

Mác còn phạm một số sai lầm trong “Tư duy trừu tượng, là giai đoạn tiếp theo, cao hơn về chất của quá trình nhận thức, diễn ra dưới 3 hình thức: Khái niệm, phán đoán, suy lý”.

Về khái niệm. Mác đưa ra một số khái niệm mới (so với trước đó) như giai cấp, đấu tranh giai cấp, cách mạng vô sản, phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất, giá trị thặng dư v.v…Những khái niệm này đã được phổ biến, một số người theo Mác đã công nhận và dùng quen. Tuy vậy không phải mọi khái niệm đó đều phản ánh đúng thực tế.

Phán đoán là mệnh đề liến kết giữa các khái niệm. Phán đoán do người nghiên cứu đưa ra, mỗi phán đoán có thể đúng hoặc sai. Mác đã đưa ra một số phán đoán như là: + Công nhân đại diện cho nền sản xuất tiên tiến; +Cách mạng vô sản là tất yếu; + Vô sản là giai cấp cách mạng nhất; +Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội v.v…Phần lớn các phán đoán của Mác chỉ là những phán đoán bộ phận nhưng đã được đưa thành khẳng định.

Suy lý (hay suy luận) dựa vào logic, từ luận cứ, dùng luận chứng để rút ra luận đề, (là kết luận)  Một kết luận chỉ được công nhận khi các luận cứ phải đúng và đầy đủ, luận chứng phải tuân thủ chặt chẽ các quy tắc của lôgic. Phân tích một số suy luận của Mác tôi thấy rằng ông đã dùng luận chứng đúng, chặt chẽ, vì thế mà hấp dẫn được nhiều người. Nhưng phần lớn suy luận là ngụy biện vì dựa vào một số luận cứ chưa đủ tin cậy.

Luận cứ có hai loại: thực tế và lý thuyết. Khi đọc hoặc học Mác, nếu với lòng tin tuyệt đối vào ông, xem ông là thánh thì sẽ thấy các luận cứ ông đưa ra là đúng và đủ. Đó là do cuồng tín. Nhưng chỉ cần có một chút tư duy phản biện thì không khó để phát hiện ra những thiếu sót trong luận cứ. Tôi sẽ lần lượt trình bày một số phát hiện trong các mục sau.

Ghi chú: (3)- Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn- Sách lưu hành nội bộ trong Đảng.

5-Xã hội thiên đường cộng sản

Xã hội cộng sản do Mác vạch ra: “ Mọi tư liệu sản xuất là công hữu, của cải vật chất dồi dào, mọi người tự giác làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu …”. Đó chỉ mới là sản phẩm của trí tưởng tượng hoang đường nhưng Mác đã vội khẳng định tính tất yếu của nó. Việc làm này ngược với phương pháp khoa học. Mác chỉ rõ con đường đi đến xã hội cộng sản phải trải qua thời kỳ quá độ là xây dựng chế độ Xã hội chủ nghĩa. Thế rồi các học trò của Lê nin còn thêm vào một thời kỳ quá độ thứ hai là  “Quá độ từ xã hội phong kiến lạc hậu lên thẳng CNXH”.

Thông thường thầy chỉ dạy cho học trò công việc mà mình đã từng làm, có kiến thức, có kinh nghiệm. Thế mà Mác dám dạy cho đệ tử việc mà ông chẳng biết đầu cua tai nheo ở đâu. Mác chỉ mới tưởng tượng ra một cái bóng rồi xúi dục người khác làm theo nó. Trong việc này có ba sai lầm rất lớn.

Một là mô hình xã hội Mác đưa ra hoàn toàn là hoang đường. Việc công hữu toàn bộ tư liệu sản xuất, xóa bỏ mọi tư hữu về nó là trái với bản chất con người. Sự tự giác của con người là có, nhưng quá tin vào sự tự giác của tất cả mọi người là ảo tưởng.

Hai là việc tạo lập nên xã hội tốt đẹp phải được giai cấp vô sản thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là đội tiên phong của họ. Thực ra ban đầu, khi thành lập các ĐCS đều tự cho mình là đội tiên phong của giai cấp vô sản, nhưng khi đã nắm được chính quyền thì họ đã trở thành một ‘giai cấp mới’. Và quan trọng là giai cấp vô sản chưa bao giờ và không thể là động lực chính cho một xã hội tiến bộ. Chế độ vô sản chuyên chính do các ĐCS lập nên trong quá trình xây dựng CNXH là độc tài toàn trị.

Ba là, chẳng biết rồi xã hội cộng sản sẽ tốt đẹp như thế nào, nhưng con đường để thiết lập vô sản chuyên chính và sự thống trị cúa nó là đầy đau thương và tàn bạo.

Nhiều người say mê Mác vì ông cổ vũ cho việc chống áp bức bóc lột, chống bất công, mong muốn nhân loại được sống trong no ấm, hạnh phúc. Đây là một sự say mê thiên lệch và mù quáng. Những điều vừa kể và một số điều tốt đẹp khác không phải do Mác đề xuất đầu tiên hoặc duy nhất. Trước, ngang và sau Mác có hàng ngàn hàng vạn những thủ lĩnh chính tri, dù đang cầm quyền hoặc tranh đấu để có quyền đều tuyên bố như thế. Mác chỉ nói theo và nói thì hay mà làm thì dở. Đó là chống áp bức này nhưng lại tạo ra áp bức khác trong đấu tranh nhằm tiêu diệt giai cấp bóc lột, đó là Mác hầu như không quan tâm đến nhân quyền mà chỉ quan tâm đến giai cấp vô sản. Cái riêng của Mác là xã hội làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu thì làm gì có.

 

6- Nghèo khổ và bị bóc lột

Quan sát xã hội nước Anh dưới chế độ tư bản ở thế ký 19 Mác nhận ra sự nghèo khổ của tầng lớp người phải bán sức lao động để kiếm sống, họ bị bóc lột vì không có tư liệu sản xuất. Mác gọi họ là vô sản. Mác không thể, không muốn hay không dám thâm nhập sâu vào cuộc sống của vô sản để biết được bản chất, nguyên nhân sâu xa của sự nghèo khổ.  Mác chỉ quan sát từ xa, quan sát lớt phớt, thấy được điều rõ ràng nhất, dễ thấy nhất là họ không có tư liệu sản xuất. Đó là cái nhìn phiến diện. Từ đâu sinh ra lớp người không có tư liệu sản xuất khi mà từ đầu loài người vốn không ai có của riêng.

Nguyên nhân tạo ra những người vô sản có ba. Một là nguồn gốc từ ông cha, hai là bị tai nạn, ba là tự phá sản.

Từ ông cha, đó là truyền đời, nhưng ông tổ đầu tiên tại sao lại trở thành vô sản trong khi những người khác trở thành hữu sản. Phải chăng họ bị khiếm khuyết gì đó về thể chất hoặc tinh thần, mà một số không ít là do lười nhác hoặc kém trí tuệ. Ông cha là vô sản nhưng con cháu không phải tất cả sẽ nối nghiệp vô sản mà chỉ những người kém năng lực  mới trở thành vô sản, còn những người trẻ có năng lực đã sớm thoát khỏi và có người trở thành tư sản. Vậy nguồn gốc chỉ là một phần, nó còn kết hợp với sự yếu kém phẩm chất tinh thần.

Có những người hữu sản vì gặp phải tai nạn gì đó mà mất hết, trở thành vô sản. Số này ít thôi, nhưng không phải tất cả họ đều suốt đời chịu làm vô sản. Một số họ chỉ  là vô sản tạm thời rồi họ sẽ tìm cách đổi đời.

Có một số người mà cha mẹ là hữu sản nhưng họ trở thành vô sản vì đã rượu chè, cờ bạc, ăn chơi, lười nhác mà phá nát cơ nghiệp tổ tiên, tự mình làm phá sản.

Mác trông cậy vào vô sản mà quên rằng đặc trưng nổi bật của phần đông vô sản là kém trí tuệ.

Vì đánh giá không đúng về bản chất của vô sản nên Mác đã tưởng tượng ra những bản chất tốt đẹp mà họ không có hoặc có rất ít, gán cho họ những khả năng quản lý và lãnh đạo. Vì điều này mà ở Việt Nam một thời đã đề lên rất cao thành phần bần cố nông, cho rằng những người nghèo khổ nhất là đáng tin tưởng nhất, giao cho họ những chức vụ lãnh đạo và họ đã phá nát nhiều thứ.

Mác chưa hề tham gia vào sản xuất, chưa làm kinh doanh bao giờ, chỉ biết một số kiến thức qua sách vở, báo chí và những quan sát từ xa. Từ đó Mác nghĩ ra thuyết giá trị thặng dư, chỉ ra việc tư bản bóc lột công nhân như thế nào rồi công bố, không hề kiểm nghiệm, không nghe phản biện. Thuyết giá trị thặng dư ấy đã được nhiều người tung hô, giảng dạy, tuyên truyền, nhưng chỉ trên giấy và trên cửa miệng, không thấy có ai vận dụng được gì vào thực tế. Vì sao vậy?. Vì nó sai. Thực ra thì không sai hoàn toàn mà đã bỏ sót một vài yếu tố quan trọng. Điều này đã có nhiều chứng minh, để tránh dài dòng tôi không nhắc lại.

7-Quy luật thống nhất giữa lực lượng và quan hệ sản xuất

Theo Mác thì lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật, có nội dung: “Quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất”. Những người Mác xít cho rằng đó là quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội. Họ giải thích rằng lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và phát triển nhanh hơn. Đến một lúc quan hệ sản xuất trở nên lạc hậu so với lực lượng. Lúc này, để bảo đảm sự phù hợp thì phải làm cách mạng để đổi mới quan hệ sản xuất nhằm tái lập sự phù hợp.

Đây là một sự bịa đặt rất phản khoa học. Đã gọi là quy luật thì phải luôn luôn đúng, nếu có cái gì làm cho lệch lạc thì hệ thống tự động điều chỉnh. Ở đây con người phải can thiệp nhằm sửa đổi quan hệ sản xuất, uốn nắn cho nó phù hợp. Phải có sự can thiệp của con người thì còn gi là quy luật. Mà lại can thiệp bằng cách mạng vô sản.

Cho rằng quan hệ và lực lương phải phù hợp nhưng khái niệm phù hợp ở đây rất tù mù. Quan hệ và lực lượng là hai đối tượng khác nhau hoàn toàn về bản chất, thành phần và cấu tạo. Vậy sự phù hợp này được quyết định bới cái gì, đánh giá như thế nào. Tôi chưa nghe ai nói, chưa thấy tài liệu nào giải thích rõ về sự phù hợp này.

Cho rằng lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Quyết định như thế nào cũng lại là một sự tù mù khác. Đây là một phán đoán hay kết luận của một suy lý, của một chứng minh. Nếu đây là phán đoán thì nó nhận giá trị giả dối. Nếu là kết luận thì đây là bịa đặt vì chẳng thấy quá trình suy lý như thế nào.

Khi Mác đưa ra quy luật này phải chăng có thâm ý là chuẩn bị tiền đề cho cách mạng vô sản.

8- Bộ sách Tư Bản Luận

Bộ sách gồm ba tập, là công trình Mác viết chung với Engels.

Tập 1:  Quá trình sản xuất của Tư bản (xuất bản năm 1867)

Tập 2:  Quá trình lưu thông của Tư bản (xuất bản sau 1883)

Tập3 : Toàn bộ quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa .

Top of Form

 

Tập 1 xuất bản khi Mác còn sống. Tập 2 và 3 do Mác khởi thảo, Engels hoàn thiện và xuất bản sau khi Mác chết.

Theo sự tuyên truyền của những người Marxit thì bộ sách là tác phẩm lớn của nhân loại, là kinh điển của các đảng Cộng sản, là một công trình kinh tế vĩ đại, đồng thời có giá trị to lớn về mặt triết học. Để biên soạn  Mác đã dành 40 năm lao động không mệt mỏi, từ những năm 40 của thế kỷ XIX đến khi ông qua đời. Trong bộ sách Mác đã phân tích một cách toàn diện và sâu sắc về chủ nghĩa tư bản với tính cách là một hình thái kinh tế – xã hội, vạch ra các quy luật ra đời, phát triển và suy vong của nó, đồng thời luận chứng các luận điểm và khái niệm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Không chỉ đề cập đến những vấn đề như: tư bản, hàng hóa, tiền tệ, gái trị thặng dư, tích lũy tư bản, tiền lương…, tác phẩm còn chứa đựng những quan điểm triết học của Mác và những kiến thức về lịch sử các nước Tây Âu đương thời.

 Thế nhưng đại đa số cán bộ cao cấp của các ĐCS chỉ mới nhìn thấy bìa các cuốn sách mà chưa đọc được vài trang, còn phần lớn đảng viên chỉ mới nghe tên sách chứ cái bìa cũng chưa được thấy. Riêng OSHO, một nhà triết học lớn của Ấn Độ nhận xét : “ Đó là cuốn sách tệ hại nhất đã từng được viết… Hàng nghìn trang và tất cả chỉ là rác rưởi, được viết một cách phi logic hoặc phi lý, giống như ai đó đã hóa điên”. (OSHO nói về cuốn Tư bản luận- Nguyễn Đình Hách dịch).

Về hình thức bộ sách quả thực đồ sộ, cần rất nhiều công sức để hoàn thành, nhưng nội dung chỉ có giá trị khoa học thấp chứ không như những người Marxit tuyên truyền.

Công trình khoa học có nhiều mức. Thấp nhất là mô tả. Đó là việc trình bày những hiện tượng quan sát được, sắp xếp, phân loại để giúp cho việc nhận biết, phân biệt. Việc quan sát do người nghiên cứu thực hiện theo đúng phương pháp khoa học là quan sát trực tiếp, tạo ra thông tin cơ bản, còn nếu dùng tài liệu của những người khác thì đó là thông tin thứ cấp, có giá trị thấp hơn thông tin cơ bản.

Trong Bộ Tư bản thì trên 90% là mô tả và phần lớn là dựa vào thông tin thứ cấp thu thập được từ các thư viện chứ không phải từ hoạt động thực tế của Mác. Ông chưa bao giờ trực tiếp chỉ đạo sản xuất hoặc lưu thông hàng hóa. Một phần nhỏ là những phân tích, những luận chứng của Mác để rút ra vài luận đề về giá trị thặng dư, về quy luật của phương thức sản xuất, về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản v.v…. Tiếc rằng để làm những việc này Mác đã phạm sai lầm về triết học và phương pháp nghiên cứu như đã phân tích ở trên, và phần lớn kết luận của Mác là sai. Câu nhận xét của OSHO đã dẫn ở trên đáng được cho  những người Marxit tỉnh ngộ

 

9-Trao đổi với những người bao che cho  Mác

 

Trong kỳ nghỉ tết vừa qua tôi về quê, được một người cháu gọi bằng bác tới thăm. Anh là TS Nguyễn Đình Cả, nguyên là cán bộ giảng dạy môn chủ nghĩa Mác Lê nin ở một trường đại học tại thành phố HCM, đã nghỉ hưu. Anh biết tôi thường viết bài phản biện, vạch ra những sai lầm, độc hại của Mác Lê nên đến gặp tôi, ngoài chuyện thăm hỏi còn cung cấp thông tin mà chắc anh nghĩ rằng đối với tôi là quan trọng.

Sau khi nghe tôi nói vài lời thông cảm với các thầy dạy môn Mác Lê, rằng họ quả đang gặp khó khăn lớn trong giảng dạy vì chưa tìm ra cách nào có hiệu quả để dạy môn đó khi thực tế và lý thuyết gần như ngược nhau. Họ rất dễ phạm vào một trong hai điều rất kiêng kỵ trong nghề dạy học. Một là nghĩ một đàng, nói một nẽo, phạm vào lỗi dối trá. Hai là không nhiệt tình với công việc, giảng dạy như con vẹt, chỉ máy móc nhắc lại giáo trình do người khác soạn mà không làm được việc quan trọng của người thầy là tạo cảm hứng cho người học. Lại nữa, vừa dạy vừa lo sợ, lỡ ra có khi nào đó, không giữ được mồm mà nói ra cái gì đó không có trong bài mẫu.

Anh nghe mà không có ý kiến gì, chỉ hỏi, rằng trong lúc viết phản biện CNML, tôi có tìm hiểu xem vài nhà học giả của tư bản có ý khen Mác hay không. Khen rằng nhờ Mác vạch ra các bất cập của nền kinh tế tư bản mà nhiều nước Âu Mỹ đã sửa chữa được những khuyết điểm nguy hiểm và có được những phát triển ngoạn mục. Anh kể ra vài tên người mà tôi biết chưa được rõ.

Tôi trả lời, tôi không lạ gì ý của anh vừa nói vì đã nghe nhiều lần từ vài người. Tôi cho rằng họ là những người bao che , bảo vệ cho Mác. Về các học giả tư bản mà anh kể tên tôi cũng đã có lần nghe qua, nhưng không nghiên cứu về họ. Tôi có đọc kỹ sách của Brezezinski, cố vấn của vài đời tổng thống Mỹ viết về Mác và phong trào cộng sản. Tôi định nói cho anh biết những suy nghĩ của mình về điều anh định bao che cho Mác, nhưng anh nói vội đí chúc tết vài nơi, hẹn tôi vào dịp khác. Sau đó vài hôm tôi gọi điện thoại định gặp anh chuyện trò, nhưng anh đã quay về TP HCM.

Tôi viết bài này, vạch ra chất ngụy biện trong việc bao che cho Mác khi dẫn ra việc nhờ Mác mà các nước Âu Mỹ có được sự phát triển. Tôi viết cho anh và những người quan tâm đến Mác tham khảo và đặc biệt, may ra có thức tĩnh được chút nào những người bao che cho Mác.

Những người được tuyên truyền một chiều về Mác đã ngộ nhận rằng ông ta là thiên tài, là bậc thầy của cách mạng vô sản nên khi nghe người khác vạch ra các sai lầm không thể chối cãi của Mác, thì họ xót xa cho một thần tượng ảo, họ thương ông và tìm cách bao che. Họ như đang chới với giữa dòng nước sâu và chảy xiết, bỗng vớ được một vật, tưởng là phao cứu sinh nên bám chặt lấy, không ngờ đó chỉ là một cọng rơm.

Thế không phải nhờ Mác thì nhờ ai đã vạch ra những bất cập, những xấu xa của chế độ tư bản để họ biết mà sửa chữa, mà cải cách, mà phát triển.

Đúng là Mác đã vạch ra những xấu xa, độc ác của tư bản trong giai đoạn đầu của việc tích lũy của cải (tư bản hoang dã). Nhưng vạch ra để lên án, để đánh đổ, để đưa công nhân đào huyệt chôn vùi nó và lập ra chính quyền chuyên chính vô sản và công hữu hóa mọi tư liệu sản xuất chứ không phải để cho tư bản biết được mà sửa chữa, mà làm cải cách.

Người phản biện vạch ra cho anh thấy sai lầm. Đó là một việc. Còn tiếp thu như thế nào, sửa chữa như thế nào lại là việc của anh, phụ thuộc vào phẩm chất của anh. Nếu đánh giá đủ những điều giúp anh tiến bộ là 100% thì sự đóng góp của người phản biện thiện chí (muốn giúp cho sự tiến bộ) cũng chỉ chiếm một phần rất ít (khoảng vài phần trăm). Còn với sự thù địch như Mác, đấu tranh để tiêu diệt thì càng ít hơn. Cứ xem chế độ phát xit và chế độ cộng sản thì rõ. Đã có biết bao người vạch ra những bất cập của vô sản chuyên chính ở Việt Nam mà chính quyền có chịu nghe, chịu sửa đâu, lại còn bắt bớ tù đày, trục xuất những người bất đồng chính kiến và cộng sản càng ngày càng lún sâu vào vũng bùn chuyên chế.

Khi Mác phê phán tư bản, ông chỉ nhìn thấy mặt tối của nó mà vì một lý do nào đó đã bỏ qua mặt sáng. Ông đã phạm sai lầm. Chính cái mặt sáng của tư bản là đọng lực rất lớn đã giúp họ tiếp thu sự chỉ trích của Mác, giúp họ tìm ra phương hướng phát triển.

Những người bao che cho Mác đã dùng lối ngụy biện đánh tráo, đưa phụ thành chính. Họ làm thế để tự lừa dối mình, để bao che cho Mác trước sự tấn công trực diện của những người phản biện.

Trong những bài viết trước đây (Chất dất sét trong các đá tảng của Mác), tôi chứng tỏ rằng Mác đã phạm sai lầm về triết học, về sự hiểu biết con người, về phương pháp nghiên cứu, về việc sử dụng luận cứ trong chứng minh, về việc Mác không phải phát hiện ra quy luật mà bịa ra nó, đặc biệt là nhận đinh “đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của lịch sử”. Mơ ước của Mác “Vô sản toàn thế giói liên hiệp lại để đào huyệt chôn tư bản” đã trở thành lố bịch, hy vong xây dựng một chế độ mà mọi người làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu là quá hão huyền.

Viết bài này tôi còn phát hiện ra sai lầm của Mác khi đánh giá không đúng về “Giai cấp và chính quyền tư bản”. Báo chí VN xếp Mác vào một trong những vĩ nhân của thế giới. Nếu có như vậy thì nên tìm cách loại bỏ để sửa sai.

10-CHỦ NGHĨA MÁC LÊ HỎNG TỪ GỐC RỄ !

( Bài này của Hà Sĩ Phu, đăng báo Bô Xit)

 

(LÝ THUYẾT MÁC-LÊ XUẤT PHÁT TỪ NHỮNG NHẦM LẪN, PHẢN TIẾN HÓA). Ước gì TBT NGUYỄN PHÚ TRỌNG giành 15 phút đọc bài này !

Xin không bàn về những lý thuyết thuần túy Triết học của Marx, mặc dù Duy vật biện chứng và Duy vật lịch sử Mác-xít cũng có những điều rất cần phải tranh luận về mặt Triết học. Điều có ý nghĩa thực tế cần thiết cho xã hội ở đây là chỉ xét những “lý sự” gọi là chủ nghĩa Mác-Lênin được dùng làm kim chỉ nam chỉ đạo mọi chủ trương của Đảng Cộng sản, những điều đã thành nhận thức phổ thông, tuyên truyền phổ cập ai cũng biết. Hiện nay về lý thuyết cũng như thực tiễn Cộng sản tuy có những biến đổi để hòng thích nghi nhưng bản chất chủ thuyết căn bản vẫn không có gì thay đổi.

Trong bài Từ Nguyễn Phú Trọng đến Lê Hiền Đức (2012, đăng trên trang mạng của nhà văn Phạm Thị Hoài) tôi đã kể qua 9 điều “nhầm lẫn nhỏ” (mà các Cụ nhà ta thường dùng chữ rất hay là “bé cái nhầm”) của Mác-Lênin khi dựng một học thuyết cao siêu và vĩ đại. Ở đây chỉ xin nhắc lại năm điều nhầm lẫn quan trọng nhất.

1/ MÁC-LÊNIN HIỂU NHẦM VỀ THỜI ĐẠI MÀ CÁC ÔNG ĐANG SỐNG.

Tại sao có thể nói các nhà Mác-xít kinh điển đã “đọc nhầm” thông điệp của Thời đại?

Thế kỷ 18-19 và đầu thế kỷ 20 là thời kỳ phôi thai bột phát của nền văn minh Công nghiệp, vừa đem lại những thành quả nhảy vọt nhưng đồng thời cũng tạo ra những tai họa nhất thời mà lúc đầu chưa có phương án chế ngự, đó là sự áp chế của một số chủ Tư bản đối với Công nhân và sự áp chế của các nước đại công nghiệp đối với các nước còn lạc hậu cổ hủ, sự áp chế được gọi là Chủ nghĩa Đế quốc và Chủ nghĩa Thực dân.

Chủ nghĩa Đế quốc-Thực dân ấy thực ra chỉ là bước chập chững, loạng choạng, hăm hở chào đời của một “đứa hài nhi” sẽ thành khổng lồ, nhưng Mác-Lê tưởng “Chủ nghĩa Đế quốc là giai đoạn tột cùng của Chủ nghĩa Tư bản”! Đã là “giai đoạn tột cùng” rồi thì tất nhiên là già nua sắp chết, nên phải nghĩ ngay ra một Chủ nghĩa mới để thay thế, trước mắt là huy động “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại” để đào mồ chôn nó đi! Nhưng rồi theo thời gian đứa hài nhi có gien khổng lồ ấy “cứ giãy mãi mà không chết”, ngày càng trưởng thành và sửa chữa những điều ấu trĩ của mình, còn cái chủ nghĩa với đội quân đi “đào mồ chôn” nó thì cứ huênh hoang vô địch nhưng bỗng lăn ra chết ngay tại quê hương của mình, mà chẳng thấy giãy giụa gì.

2/ MÁC-LÊNIN HIỂU NHẦM LỊCH SỬ, TƯỞNG LỊCH SỬ CHỈ LÀ MỘT CHUỖI ĐẤU TRANH GIAI CẤP, VÀ COI ĐẤU TRANH GIAI CẤP LÀ ĐỘNG LỰC CỦA TIẾN HÓA.

Theo Mác, Lịch sử là một chuỗi những cuộc đấu tranh giai cấp, với tư cách là động lực của Tiến hóa (trích: Giai cấp bị trị và giai cấp thống trị luôn đối kháng nhau về quyền lợi nên sinh ra đấu tranh giai cấp. Nô lệ chống chủ nô làm chế độ chiếm hữu nô lệ tan rã. Nông dân chống địa chủ phong kiến làm chế độ phong kiến tan rã. Giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản làm chủ nghĩa tư bản sụp đổ…… Kết quả cuối cùng của những cuộc đấu tranh đó đều dẫn tới sự ra đời của phương thức sản xuất mới thông qua đỉnh cao của nó là những cuộc cách mạng xã hội).

Mác nhìn lịch sử Tiến hóa của nhân loại như một chuỗi những đoạn đứt khúc do các cuộc Cách mạng, dùng bạo lực lật đổ nhau để tạo ra thể chế mới và mỗi lần như thế làm cho xã hội tiến hóa lên một bước mới. Đó là quan điểm Chính trị Mác-xít xuất phát từ Chủ nghĩa Kinh tế (khi hạ tầng Kinh tế thay đổi thì thượng tầng Chính trị cũng thay đổi theo).

Nhưng trên quan điểm khoa học thì phải hiểu sự Tiến hóa như thế nào?

Trước hết, trong thế giới động vật, Tiến hóa là sự chọn lọc tự nhiên trong đấu tranh sinh tồn, đấu tranh giữa sống và chết, do đó cơ thể phải biến đổi để thích nghi. Động vật thích nghi với điều kiện sống chỉ bằng chính cơ thể của nó, loại cơ thể nào không biến đổi được để thích nghi thì bị tiêu diệt. Tiến hóa để lại dấu ấn trên cấu tạo cơ thể và do đó cũng thay đổi các tập tính.

Nhưng sự Tiến hóa của con người, sống thành xã hội, thì khác hẳn:

Do có TRÍ TUỆ, là sự phát triển cao nhất của Sinh giới, nên hình thành tiếng nói và chữ viết để ghi lại những thành quả của thế hệ trước để thế hệ sau tiếp tục “ngồi lên vai” mà tiến cao hơn. Sự tích lũy và gia tăng của Trí tuệ để lại dấu ấn trong sách vở, trong công cụ lao động và cả trong phương thức quản lý-điều hành xã hội. Con người thích nghi với môi trường bằng những công cụ và những phương tiện do Trí tuệ và lao động của mình tạo ra, nên cấu tạo cơ thể không cần thay đổi mà cả xã hội vẫn tiến hóa ngày một cao hơn.

Như vậy, sự tích lũy và gia tăng Trí tuệ, tức động lực của Tiến hóa, xảy ra có tính liên tục, và có sự cộng tác, hiệp lực với nhau trong xã hội, cho dù vẫn còn mâu thuẫn với nhau về quyền lợi. Còn sự Đấu tranh giai cấp cũng chỉ là một mặt trong sinh hoạt xã hội, đấu tranh giai cấp bằng các cuộc Cách mạng như thế là những bước gián đoạn, có thể thúc đẩy sự Tiến hóa nhưng cũng có khi làm hại cho Tiến hóa (cuộc đấu tranh giai cấp, một mất một còn trong Cải cách ruộng đất và trong Cải tạo Tư bản tư doanh của xã hội Việt Nam do Đảng Cộng sản chỉ huy là một ví dụ làm hại cho Tiến hóa, biến Việt Nam từ một xã hội có đoàn kết nhân ái và có tiềm năng phát triển biến thành một xã hội đầy thù hận và “không chịu phát triển” như bấy lâu nay).

3/ MÁC-LÊNIN TƯỞNG NHẦM VAI TRÒ LỊCH SỬ CỦA MÌNH, NÊN ĐOẠN TUYỆT VỚI CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG, KHÔNG ĐI TIẾP CON ĐƯỜNG VĂN MINH CỦA NHÂN LOẠI.

Do tiếp nhận được tinh thần “vạch đường cho nhân loại, cải tạo cả nhân loại” của chủ nghĩa Mác-Lê cực đoan và ngạo mạn, nhà thơ mê tín Cộng sản Tố Hữu đã có những câu thơ để đời ca ngợi Cách mạng vô sản Tháng Mười Nga như sau:

Thuở Anh [Cách mạng tháng Mười] chưa ra đời,

Trái đất còn nức nở,

Nhân loại chửa thành người.

Người Cộng sản coi cả nhân loại này không đáng là người khi chưa được Mác-Lê dẫn lối. Họ muốn xóa sạch loài người cũ không đáng là người, để nhận trách nhiệm lịch sử dựng một loài người mới cho xứng đáng là người ư? Ngông cuồng đáng khôi hài đến thế là cùng!

Về quản lý xã hội thì Mác-Lê coi mọi Nhà nước xưa nay chẳng qua là công cụ để bóc lột người lao động, nên phải tiến tới làm cho nhà nước tiêu vong đi để cho giới lao động trực tiếp làm lấy việc quản lý. Thế là không thèm hiểu về sự phân công xã hội. Cũng do không thèm hiểu về sự phân công xã hội nên mới coi giai cấp công nhân, giai cấp lao động, chính là “giai cấp tiền phong, giai cấp lãnh đạo, giai cấp tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất”!

Mặc dù có nhà lý luận cố bênh vực Mác rằng “Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản không phải là “ý muốn nhân tạo”, hoặc “lựa đặt ngông cuồng” của C. Mác mà do địa vị kinh tế – xã hội khách quan quy định”, nhưng thực tế thì một giới lao động nào đó cũng chỉ là sản phẩm của một nền văn minh tương ứng sinh ra, chứ tiêu biểu và dẫn dắt cho nền văn minh đó phải ở giới chuyên viên và trí thức tinh hoa, có đủ Trí tuệ, đủ trình độ điều hành, vì đó là sự phân công tự nhiên trong xã hội.

Thực ra đến thời các ông Mác và Lê ra đời, tức thời kỳ Văn minh Công nghiệp Nhân loại đã tiến được những bước khá xa, đã có ý thức nâng đỡ sự phát triển cá nhân để tạo ra mọi giá trị, đồng thời biết quản lý xã hội theo nguyên tắc Dân chủ và Pháp trị: DÂN CHỦ để cá nhân có điều kiện phát triển nhưng đồng thời cần PHÁP TRỊ để khống chế sự phát triển Tự do cá nhân sao cho không thể ảnh hưởng xấu đến người khác và đến cả cộng đồng.

Trong xã hội Pháp trị, Đạo đức “phải trở thành thừa”, không cần anh đạo đức, anh cứ làm đúng Pháp luật là đúng đạo đức rồi. Giáo dục đạo đức chỉ là biện pháp hỗ trợ, rất cần cho tuổi thanh thiếu niên. Khi trưởng thành, sống trong xã hội thì “Trường đời” mới là trường học tự nhiên hun đúc con người. Xã hội có Pháp trị lành mạnh thì hun đúc ra những con người tử tế, xã hội vô pháp thì hun đúc ra những con người lưu manh. Khi bộ máy cầm quyền còn hư hỏng thì làm sao các công dân lại có thể sống cho tử tế được, dù có giáo dục đạo đức bao nhiêu cũng bằng thừa, vì “Trường đời” đã giáo dục tất cả.

Khi Mác (1818-1883) và Lê (1870-1924) ra đời thì đã có những nhà tư tưởng về Dân chủ và Pháp trị như John Locke (1632-1704), Montesquieu (1689-1775), Jean-Jacques Rousseau (1712-1778), Voltaire (1694-1778)…, họ đã tạo ra cả một thời đại Khai sáng, với lý thuyết về Khế ước xã hội, chống chủ nghĩa chuyên chế và xây dựng Chủ nghĩa tự do, đặc biệt là hình thành lý thuyết về Tam quyền phân lập để điều hành xã hội. Lịch sử loài người hàng nghìn năm mới đạt đến trình độ như vậy, nền văn minh ấy đã đạt được rất nhiều thành quả nhưng lại tạo ra những mâu thuẫn mới mà xã hội cần tìm cách khắc phục, chứ không thể nói nhân loại lúc ấy “chưa thành người”!

Chính Mác-Lê “đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với các giá trị truyền thống” mới là người mắc bệnh “phủ nhận quá khứ”, mà “phủ định sạch trơn” một cách vô lý nhất, chứ những người dân chủ ngày nay có phủ định con đường Mác-Lê cũng chỉ là “phủ định sự phủ định” đúng phép biện chứng để trả lại cân bằng cho thế gian, đem lại bình yên cho cuộc sống mà thôi!

Nếu trào lưu Cộng sản chỉ như một làn sóng phản biện, chỉ vạch trần, phê phán những yếu kém, những bất công do xã hội Công nghiệp lúc ấy tạo ra thì quá tốt, để giúp xã hội buộc phải thanh toán những khuyết tật của mình. Cộng sản muốn tranh giành quyền bính cũng tốt thôi, nhưng phải giành bằng cách cạnh tranh công khai-dân chủ, chứ không thể “cướp” chính quyền, và giành được chính quyền rồi thì đi tiếp con đường tiến bộ của nhân loại tức con đường Dân chủ đa nguyên Pháp trị như các nước Bắc Âu bây giờ (đó là nền Dân chủ Xã hội bắt nguồn từ Quốc tế 2), rồi cũng thực hiện đường lối Lao-Tư lưỡng lợi như cụ Phan Châu Trinh đã nghĩ đến (tạo điều kiện để các nhà Tư bản kinh doanh chân chính và thu lãi nhiều để có tiền góp cho các quỹ phúc lợi xã hội, trợ cấp người lao động, người nghèo, người già yếu tàn tật…).

Con đường Dân chủ Xã hội (đừng dịch nhầm là Xã hội chủ nghĩa) của Bắc Âu tuy có tiếp nhận Mục đích tốt đẹp mà Mác-Lê gợi ý, nhưng Phương tiện tiến hành hành thì hoàn toàn khác nên thành công rực rỡ, dù bị các nhà lý luận Mác-xít ghét bỏ như kẻ thù, nhất là lý luận gia Nguyễn Đức Bình, bởi đó là đối chứng hùng hồn nhất, chứng minh Mác-Lê muốn làm điều tốt song cách làm hoàn toàn sai lầm nên gây hiệu quả ngược với mục đích.

Lối thoát danh dự cho Cộng sản Việt Nam hiện nay là từ bỏ con đường cực đoan ảo tưởng Mác-Lê của Quốc tế 3, để theo con đường Bắc Âu (tức con đường từ Quốc tế 2 mà Thụy Điển là tiêu biểu), cũng là con đường Phan Châu Trinh chủ trương (con đường bị Hồ Chí Minh phê phán là hữu khuynh thân Pháp). Thực chất cái gọi là “chủ nghĩa Tư bản” chẳng qua là một giai đoạn khá cao trong tiến trình Tiến hóa tự nhiên của xã hội loài người, giai đoạn văn minh Công nghiệp và Đại Công nghiệp, gọi là “chủ nghĩa” nhưng không ai nghĩ ra trước, không có tác giả như trường hợp “chủ nghĩa Cộng sản”.

Nhưng sai lầm chết người ở chỗ phong trào Cộng sản tưởng nhầm là lịch sử giao cho mình nhiệm vụ phải làm lại thế giới, cướp lấy chính quyền để xây dựng một chế độ Mác-xít, theo một chủ nghĩa do một vài tác giả cụ thể bốc đồng nghĩ ra trong một thời gian ngắn, một Thiên đường hết sức chủ quan, thiếu hiểu biết, rất phản khoa học, phản quy luật. Cái chủ nghĩa Cộng sản mới toanh ấy tuyên bố “đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với các giá trị truyền thống đã có”, nên gạt bỏ hết mọi giá trị mà nhân loại phải hàng nghìn năm mới đạt được là nền Dân chủ đa nguyên Pháp trị với thiết chế Tam quyền phân lập.

Mục đích Cộng sản thì cao siêu nhưng phương cách thực hiện là bạo lực cách mạng, là độc đảng toàn trị nên thực tế đã đạp đổ tất cả nền Dân chủ Pháp trị vừa mới manh nha. Người Cộng sản coi các giá trị đó là sản phẩm của chủ nghĩa Tư bản nên quyết tâm đào mồ chôn nó đi. Chính từ sự kiêu ngạo vô lối này, chủ nghĩa Cộng sản Mác-Lê đã tự đào mồ chôn chính mình trước lịch sử tiến hóa Nhân loại.

4/ MÁC-LÊNIN ẢO TƯỞNG VÌ KHÔNG HIỂU BẢN TÍNH CON NGƯỜI.

- Mác-Lê dám tưởng tượng sẽ có ngày “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” vì tin rằng khi được chế độ Cộng sản giáo dục thì “con người mới” sẽ rất thánh thiện chứ không ai tham lam, muốn làm ít mà đòi hưởng nhiều!

- Tuy Mác vẫn nhắc một danh ngôn cổ điển “Không có gì thuộc về con người mà xa lạ đối với tôi” nhưng có lẽ Mác vẫn không hiểu, không chấp nhận bản tính tự nhiên của con người. Nếu Mác-Lê biết bản tính con người vốn tham lam và lợi dụng khi không bị luật pháp kiềm chế thì Mác-Lê đã không cho phép Đảng Cộng sản được độc quyền lãnh đạo. Không có đa nguyên kiềm chế, khiến cho các Đảng Cộng sản cầm quyền đều mặc sức lạm quyền, mặc sức tham nhũng quyền lực như ở các nước Cộng sản ngày nay (ví dụ: đã làm Tổng Bí thư lại muốn kiêm luôn Chủ tịch nước để nắm gọn toàn bộ quyền lực trong tay như Tập Cận Bình và những người tương tự)!

Nếu hiểu bản tính tham lam của con người, sao lại trao toàn bộ khối Công hữu khổng lồ của đất nước cho cơ quan nhà nước “thống nhất quản lý” để nó biến hết của công thành của tư? Chính luật pháp Tư bản hiểu rõ con người nên mới không cho tập trung quyền lực mà phải “Tam quyền phân lập” hẳn hoi, chứ không lừa dối bằng kiểu “tam quyền phân công” từ một đầu mối là sự chỉ huy thâu tóm của một đảng duy nhất.

5/ MÁC-LÊNIN HIỂU MHẦM VỀ NGUYÊN NHÂN KHỔ ẢI VÀ BẤT CÔNG, VÀ DO ĐÓ SAI LẦM VỀ CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT.

Đi vào những việc cụ thể Mác-Lê cũng mắc những nhầm lẫn. Mác-Lê quy nguyên nhân mọi tai họa là do tính Tự do cá nhân và tính Tư hữu nên tìm mọi cách để “chống chủ nghĩa cá nhân” và diệt Tư hữu để công hữu hóa hết thảy, và để nhà nước Cộng sản duy nhất quản lý. Kết quả là không có gì phát triển được và chính cái nhà nước Vô sản độc quyền quản lý tài sản Công hữu thì nó biến mọi Công hữu thành Tư hữu của họ. Để tránh tệ nạn tham nhũng và cậy quyền thì Đảng Cộng sản lại dùng biện pháp “phê và tự phê, tu dưỡng đạo đức, theo đạo đức Bác Hồ”, kết quả là những kẻ càng ca tụng đạo đức bao nhiêu thì sự tham lam lại ngày càng phát triển bấy nhiêu. Nền Kinh tế chỉ huy (với các kế hoạch 5 năm) và Kinh tế quốc doanh làm cho nhà nước và nhân dân đều kiệt quệ nhưng cái túi riêng của những “học trò xuất sắc của đạo đức Bác Hồ” thì căng đầy tiền tỷ đô la để gửi ngân hàng Thụy Sĩ! Về sau, tuy biết sai lầm nên đã chuyển sang Kinh tế thị trường và ca ngợi Kinh tế tư nhân, nhưng tất cả vẫn nằm trong tay một đảng độc quyền và một “nền Pháp trị xã hội chủ nghĩa” thì tất cả vẫn chỉ là sự “đánh bùn sang ao”, kể cả việc “đốt lò” rùm beng cũng vậy.

Công hữu hay Tư hữu, đó là một mấu chốt của tình hình diễn biến. Thuở ban đầu thì những người Cộng sản thật sự chân thành tin vào con đường Công hữu như lời Mác dạy. Nhưng khi bước vào thực hiện thì chút liêm khiết lúc đầu bị cái máu tham trong lòng tấn công. Máu tham tự nhiên cứ như một kẻ gian truyền kiếp ẩn nấp sẵn trong lòng những tín đồ Cộng sản, cứ đêm ngày xui họ biến những của Công trong tay thảnh của Tư, một sự “cướp ngày” có giấy tờ rất đúng quy trình! Và cứ thế tình hình mỗi ngày một xấu. Cái máu tham phục sẵn trong mỗi con người hỏi Mác có biết không, có “xa lạ” với Mác không?

Đã từ lâu, miệng nói Công hữu nhưng tay làm Tư hữu, nhưng không phải thứ Tư hữu lành mạnh công minh mà là Tư hữu gian manh. Cờ thì giương cao Búa và Liềm nhưng hành động thì cướp đất của Nông dân và không cho Công nhân tự lập hội để bảo vệ quyền lợi. Công và Nông là những người khổ nhất hiện nay, trong khi trên truyền hình toàn thấy những ông bà Nông dân (phần đông có gốc Bộ đội) có hàng chục héc-ta đất, thu lợi hàng chục tỷ mỗi năm, quá đẹp!

Trước tình trạng Cộng sản nói một đằng làm một nẻo như vậy thì tôi biết tranh luận những điều lý thuyết là hoàn toàn vô ích, vì người ta nói như vậy nhưng có làm như vậy đâu nên tranh luận về lời nói làm gì? Song, tôi vẫn muốn chốt lại một vài điều về lý thuyết chỉ để thấy cái gọi là học thuyết Mác-Lê và Chủ nghĩa Xã hội khoa học ngay từ đầu đã chỉ là một tà thuyết, phản khoa học, một ảo tưởng xuất phát từ khát khao đẹp đẽ muốn giải phóng con người.

Tà thuyết đã phản lại Thiện tâm, nó sẽ bị cuộc đời vứt bỏ, Nghị quyết 1481 của Quốc hội 46 nước châu Âu đã khẳng định Chủ nghĩa Cộng sản là một chủ nghĩa chống Nhân loại.

Nhưng trong xã hội Việt Nam hiện nay, đừng vội tưởng Ý thức hệ Cộng sản đã hết tầm quan trọng để không cần quan tâm đến nữa. Trái lại Đảng Cộng sản vẫn còn giữ chặt và đẩy mạnh giáo điều Mác-Lê và xiết chặt bộ máy Chuyên chính hơn bao giờ hết, bởi đó là chất xi măng gắn kết của hệ thống và là cái áo giáp sắt giữ an ninh chế độ. Đảng Cộng sản mỗi khi mở cửa một chút thông ra thế giới thường khiến cho nhiều người vui mừng, vì nghĩ cứ mỗi ngày một chút, một tí chút thôi thì lâu dần, tích tiểu thành đại, cũng sẽ ngày một khá lên. Xin thưa, đấy là kiểu tư duy đơn giản thuận chiều của con nít. Mỗi lần mở ra cũng kèm theo một kế hoạch xiết lại, chặt hơn. Phía trước chờ ta luôn có một dấu hỏi, ngay bên cạnh một niềm hy vọng.

(Trích từ bài viết nhân dịp kỷ niệm trang Bauxite Việt Nam 10 năm-2019-

https://boxitvn.online/?p=86051 )

 

 

 


.


 D 4-PHẢN BIỆN QUAN ĐIỂM CỦA LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC


Một thời Lênin được ca ngợi là nhà cách mạng lỗi lạc, là lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản. Một số người cho rằng ông vận dụng sáng to Chủ nghĩa Mác và tạo thành Chủ nghĩa Mác-Lê nin. Nhưng cũng có không ít người khẳng định rằng ông chỉ dựa hờ vào Mác và thực hành những điều sắt máu, khủng bố mà Mác chưa bàn đến, đặc biệt là ông đã thiết lập nên nhà nước chuyên chính vô sản, một hình thức độc tài toàn trị của Cộng sản.

Lê nin, dựa váo sách “Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước” của Engels mà cho rằng một thời khá dài xã hội loài người không có nhà nước, nó chỉ xuất hiện khi xã hội phân chia thành giai cấp. Theo Lênin thì nhà nước là bộ máy của giai cấp này dùng để thống trị giai cấp khác. Bộ máy đó mang nhiều hình thức chính quyền rất khác nhau, nhưng nội dung không thay đổi. Nhà nước tư bản, bề ngoài là tự do, dân chủ, nhưng chỉ cho bọn nhà giàu còn giai cấp vô sản bị đẩy vào vòng nghèo khổ, lệ thuộc.

Lênin kêu gọi vứt bỏ thành kiến cũ kỹ xem nhà nước bình đẳng cho tất cả mọi người. Cho rằng nhà nước là chính quyền của toàn dân là luận điệu hoang đường, dối trá.

Theo Lênin thì  mục đích  của các đảng cộng sản là xóa bỏ giai cấp và đến lúc đó sẽ không còn nhà nước. Nhưng khi chưa xóa bỏ được giai cấp thì phải thiết lập nhà nước vô sản chuyên chính để thống trị, để trấn áp giai cấp đối kháng, để tiêu diệt kẻ thù giai cấp.

Hãy thử xem cách suy lý và kết luận của Lê nin sai ở chỗ nào.

Những người tự nhận là học trò của Lê nin cho rằng kết luận ông đưa ra là dựa trên khoa học chính xác. Họ đã nhầm. Lê nin đã suy lý với luận cứ, luận chứng và luận đề, trong đó luận đề (hoặc luận điểm) là kết luận về vai trò của nhà nước. Phương pháp đúng, biện chứng, nhưng Lê nin đã phạm sai lầm khi thực hiện.

Có hai cách tiến hành suy lý. Cách thứ nhất bắt đầu bằng việc thu thập mọi luận cứ, dùng luận chứng để suy diễn và rút ra luận đề. Có luận cứ lý thuyết và luận cứ thực tiễn. Ở đây luận cứ thực tiễn là quá trình lịch sử và chính trị của nhân loại. Phải thu thập một cách khách quan và đầy đủ. Tìm ra kết luận rồi còn phải kiểm chứng bằng cách xem có luận cứ nào mà kết luận ngược lại với nó hay không. Cách thứ hai là dự đoán trước luận đề (đưa ra giả thuyết) rồi đi tìm luận cứ để chứng minh. Cách này đòi hỏi người nghiên cứu phải thật sự khách quan, trung thực  vì rất dễ bị thiên kiến mà chỉ tìm những luận cứ thích hợp, bỏ qua luận cứ trái chiều. Lê nin đã theo cách thứ hai và đã chủ động bỏ qua nhiều thứ.

Kết luận cần được kiểm chứng bởi những người phản biện. Cách thứ hai càng cần sự phản biện nhiều hơn. Thế nhưng những người học trò của Lê nin đã chỉ nghe theo ông một chiều, đem kết luận ra tuyên truyền rộng rãi và tìm cách áp dụng vào thực tế. Đó là việc thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản với sự độc quyền toàn trị của đảng cộng sản. Đảng này được Milovan Djilas gọi là “Giai cấp mới”.

Cũng đã có những phản biện chống lại luận điểm do Lê nin đưa ra, đó là những nhà xã hội dân chủ mà đại biểu là  Bernstein (1858-1932- người Đức). Lê nin đã vì mù quáng và kiêu ngạo mà không nghe họ, lại cho rằng đó là bọn phản động, chống lại cách mạng vô sản. 

Lê nin đã dựa vào luận cứ là một phần sự thật của lịch sử. Đó là nhà nước nô lệ, quân chủ và một phần nào đó của nhà nước tư sản để chứng minh luận đề. Mà một phần của sự thật nhiều khi là dối trá.

Trong một quốc gia phải chăng chỉ có hai giai cấp. Còn rất nhiều các tầng lớp khác nữa chứ. Nhà nước có nhiệm vụ gì với các tầng lớp này. Cừ tạm cho rằng có hai giai cấp chính là tư bản và vô sản, quyền lợi mâu thuẫn nhau thì họ cần vừa đấu tranh, vừa hợp tác để cùng tồn tại chứ sao vô sản lại đòi tiêu diệt tư bản trong lúc tư bản không bao giờ xem vô sản là kẻ thù. Ngoài cộng sản ra thì chưa có nhà nước nào đòi tiêu diệt cả một giai cấp.

Có hai loại nhà nước: độc quyền và dân chủ. Bản chất của nhà nước độc quyền đã được Lê nin khai thác. Còn nhà nước dân chủ thì sao. Lê nin cho rằng nó chỉ là hình thức. Hoàn toàn không phải như vậy. Nền dân chủ của Hy Lạp cổ đại là không thể bác bỏ. Chính quyền dân chủ ở nhiều nước Cộng hòa  và quân chủ lập hiến ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các nước Bắc Âu là sự thật hiển nhiên, không thể xuyên tạc. Vậy bản chất của nhà nước nói chung và nhà nước dân chủ là như thế nào, có phải là của giai cấp này để thống trị giai cấp khác hay không. Không, không phải. Điều Lê nin cho rằng nhà nước là của giai cấp không thể áp dụng cho mọi nhà nước nói chung mà chỉ là trường hợp riêng cho một vài nhà nước độc tài  nào đó mà thôi.

Còn luận cứ lý thuyết?. Hình như Lê nin chỉ dựa vào quyển sách của Ăngghel mà phần viết về nhà nước cũng chỉ là ý kiến cá nhân chứ chưa khẳng định được là chân lý phổ biến. Thế thì không thể xem là luận cứ đáng tin.

Trong lịch sử nhân loại nhà nước đã trải qua nhiều hình thái. Trong thời đại hiện nay nhà nước nói chung (dù là độc quyền hoặc dân chủ) có hai chức năng chính là quản trị quốc gia và bảo vệ lãnh thổ. Tạm để riêng việc bảo vệ lãnh thổ, không hoặc rất ít liên quan đến giai cấp. Quản trị để quốc gia được ổn định và phát triển. Việc này gồm nhiều lĩnh vực như làm Hiến pháp và các đạo luật, thi hành luật, thu thuế, thực hiện các công trình công cộng vì lợi ích toàn dân về phát triển kinh tế, giao thông, giáo dục, văn hóa, y tế, an sinh xã hội, bảo vệ quyền lợi và cuộc sống của người dân, điều chỉnh những bất hợp lý trong đời sống dân sự, bảo đảm cho mọi công dân bình đẳng trước luật pháp, bình đẳng về cơ hội. Những điều này là cho toàn dân chứ không phải là của giai cấp. Quản trị xã hội có một phần nhỏ là trừng phạt những kẻ vi phạm pháp luật, là giam giữ những kẻ nguy hiểm cho xã hội. Việc này cũng  không phải thuộc lĩnh vực giai cấp này thống trị, đàn áp, tiêu diệt giai cấp khác.

Nhà nước dân chủ còn phải tổ chức, tạo điều kiện thuận lợi để người dân thực thi quyền công dân, chủ yếu bằng những cuộc bầu cử thật sự tự do, dân chủ. Qua bầu cử người dân chọn ra người đại diện xứng đáng, truất bỏ những kẻ  kém tài đức, làm mất lòng tin.

Khi đồng ý với những điều va nêu thì thấy rõ ràng luận điểm của Lê nin về nhà nước là rất phiến diện, không thể xem đó là chân lý khách quan.

Lênin chết sớm, vào năm 1924, lúc mới 54 tuổi, chưa kịp hoàn thành những ý tưởng vể nhà nước. Lê nin bàn giao sự nghiệp lại cho Stalin và rồi ông này đã dựa vào lý thuyết do Lê nin vạch ra để tạo nên nhà nước độc tài toàn trị của cộng sản.

Stalin đã xây dựng được một nhà nước hùng cường một thời, đã công nghiệp hóa được nước Nga nông nghiệp lạc hâu, đã phát triển được một số ngành khoa học, đặc biệt là về vũ khí và vũ trụ, đã có được lực lượng quân sự và công an mạnh mẽ và hiện đại. Thế nhưng Stalin cùng với đảng Cộng sản Liên xô đã tạo ra một nhà nước độc tài sắt máu, đẩy nhiều chục triệu người vào thảm cảnh bị đày đọa, bị giết, đẩy hàng trăm triệu người vào cảnh bị hạn chế tự do, làm cho nền kinh tế,văn hóa và đời sồng của đại đa số người dân bị  tụt hậu so với nhiều nước. Xã hội Liên xô trong nhiều năm trở thành nhà tù của ý thức hệ, sự tự do tư tưởng, tự do ngôn luận bị hủy hoại. Hễ có ai đó, kể cả cán bộ cấp cao của Đảng bị tố cáo, bị nghi ngờ có  câu nói hoặc ư nghĩ không phù hợp với vô sản chuyên chính hoặc trái ý lãnh tụ là bị theo dõi, bị kết tội, bị thủ tiêu. Không ai dám đụng đền một cái lông chân của lãnh đạo đảng. Với họ chỉ được ca ngợi, ca ngợi và ca ngợi.

 Thế rồi Liên xô bị thất bại ở Apganistan, bị suy yếu về kinh tế do chạy đua vũ trang, bị các nước XHCN ở Đông Âu xa lánh, bị Trung cộng phê phán và chống đối, đảng CS và đặc biệt là nhiều lãnh đạo của đảng bị mất niềm tin của dân. Liên xô bị tan rã, sụp đổ vào năm 1991. Người ta thi nhau phân tích, tìm nguyên nhân của sụp đổ. Một trong những nguyên nhân cơ bản là quan điểm sai lầm về nhà nước của Lê nin.

Sự sụp đổ của nhà nước Liên xô được một số người đón nhận bình thường, xem là việc sớm muộn gì cũng xảy ra, nhiều người ngạc nhiên, được Trung cộng vui mừng. Trước tình hình đó Cộng sản Việt Nam, thời kỳ TBT Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười, ban đầu hoang mang, lo lắng, sau đó ôm được chân của Trung cộng mà củng cố quyền lực thống trị.

Dân Việt có câu :”Một sự bất tín vạn lần chẳng tin”. Quan điểm về nhà nước của Lê nin không phải là chuyện bình thường mà là rất lớn. Một việc lớn như thế đã bị sai rõ ràng, đã bị “bất tín”, thế mà nhiều lãnh dạo cao cấp của cộng sản Việt nam vẫn kiên trì theo Lê nin. Vì sao vậy?. Điều này xin để mọi người luận giải theo sự hiểu biết và đạo lý của bản thân.

Nhân đây xin có vài lời về bộ Lê nin toàn tập. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia- Sự Thật đã dịch và in Lê Nin toàn tập nhiều đợt. Đợt gần đây vào năm 2005, in trọn bộ gồm 55 tập nội dung chính và 2 tập hướng dẫn tra cứu. Nội dung chính gồm khoảng dưới 10% là những tác phẩm đã in thành sách (Làm gì, Bút ký triết học, Bút ký về chủ nghĩa đế quốc, Nhà nước và cách mạng, Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán  ) còn phần lớn là những bài thuyết trình ở các lớp tập huấn, diễn thuyết tại các mit tin, báo cáo và phát biểu tại các đại hội hoặc hội nghị, lời kêu gọi, hiệu triệu, các trả lời phỏng vấn. Riêng các loại thư từ chiếm 10 tập (từ tập 46 đến 55).

Cộng sản cho rằng Lê nin toàn tập là kho tàng vô cùng quý giá của kiến thức nhân loại. Đó là lời tuyên truyền láo khoét, giả dối. Về hình thức đúng là đồ sộ, những 55 tập,mà tập nào cũng dày dặn. Nhưng phần lớn nội dung là những thứ tầm phào. Khi theo phương châm đãi cát tìm vàng thì cũng có thể tìm thấy trong đống ngôn từ đồ sộ ấy một vài ý tưởng có giá trị trong lịch sử. Còn phần lớn nội dung chỉ là những thứ có tác dụng nhất thời, nhiều thứ rơm rác, có thứ là sai lầm, độc hại, thí dụ lý thuyết về nhà nước vô sản chuyên chính.

Xuất bản Lê nin toàn tập với số lượng hàng ngàn bản mỗi cuốn là một sự lãng phí quá lớn vì phần lớn sách đó chẳng mấy ai đọc, chỉ để trang trí các giá sách rồi được đem bán cho đồng nát tái chế thành bột giấy. Nhiều nơi cộng sản đã tốn công tốn của dựng tượng Lê nin rồi nhân dân lại tốn công kéo đổ. Tượng đã như thế thì sách giấy cũng sẽ không có được số phận tốt đẹp gì.

 


D6- PHẢN BIỆN TUYÊN NGÔN CỘNG SẢN


1- Tóm tắt nội dung của Tuyên ngôn

Tuyên ngôn được công bố năm 1848, lúc Mác 30  tuổi và Ăng ghen 28 tuổi.

Mở đầu Tuyên ngôn như sau : “Một bóng ma đang ám ảnh Châu âu: Bóng ma chủ nghĩa cộng sản. Tất cả thế lực của Châu âu cũ: Giáo Hoàng và Nga Hoàng , Mét-téc-ních và Ghi-dô, bọn cấp tiến Pháp và bọn cảnh sát Đức, đều đã liên hợp lại thành một liên minh thần thánh để trừ khử bóng ma đó.

Thực tế Cộng sản đã được thừa nhận là một thế lực, họ phải có một Tuyên ngôn của đảng mình để đập lại câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản.

Tuyên ngôn gồm 4 phần. Bản dich ra tiếng Việt dài khoảng 21 ngàn chữ.

 

Phần I - Tư sản và vô sản (chiếm khoảng 38% tổng số chữ)

 Bắt đầu bằng khẳng định : “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp. Tuyên ngôn cho rằng với phương thức sản xuất tư bản có hai giai cấp(GC) cơ bản, thù địch nhau là GC tư sản và GC vô sản. Các GC khác không đáng kể. Sự đấu tranh của vô sản chống lại tư sản ban đầu chỉ nhỏ lẻ, ở các vùng miền. Dần dần các cuộc đấu tranh liên kết lại trong toàn quốc  và trở thành đấu tranh giai cấp. Trong các xã hội trước, đấu tranh giai cấp vì quyền lợi của một vài nhóm thiểu số. Đấu tranh của vô sản là vì quyền lợi của đa số. Tuyên ngôn đánh giá GC tư sản đã có thời oanh liệt, cách mạng trong việc chống lại GC phong kiến và tạo lập nên nền sản xuất công nghiệp phát triển. Nhưng rồi GC tư sản đã làm phát sinh những cuộc khủng hoảng thừa, đã đẩy GC vô sản  vào cuộc sồng đói khổ.

Trong suốt cuộc đới Mác chưa hề chỉ đạo hoặc chứng kiến cuộc đâu tranh GC nào có quy mô. Công xã Paris thực chất không phải là đấu tranh GC. Mác chi suy tưởng ra cuộc đấu tranh GC ở quy mô toàn quốc mà thôi. Tuyên ngôn viết: “Trong khi phác ra những nét lớn của các giai đoạn phát triển của giai cấp vô sản, chúng tôi đã nghiên cứu cuộc nội chiến ít nhiều mạng tính chất ngấm ngầm trong xã hội hiện nay”. Mác phác ra, suy tưởng ra chứ thực tế chưa xảy ra như thế.

Tuyên ngôn viết: “Xã hội ngày càng chia thành hai phe lớn thù địch với nhau, hai giai cấp lớn hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản”. Cho rằng hai phe thù địch với nhau là không đúng với thực tế xã hội. Chỉ có một số người trong GC vô sản, nghe Mác mà cho rằng GC tư sản là thù địch, là “không có khả năng tiếp tục làm tròn vai trò giai cấp thống trị của mình trong toàn xã hội.nên phải bị tiêu diệt và  giai cấp tư sản đã sản sinh ra những người đào huyệt chôn chính nó. Nhưng ngược lại GC tư sản chưa bao giờ, không có ai xem GC vô sản là thù địch của họ. Rõ ràng cách nhìn của Mác về GC là cực đoan, không phù hợp với tinh thần hợp tác. Tầm gương của các nước Xã hội Dân chủ ở Bắc Âu là một minh chứng.

 

Phần II- Những người vô sản và cộng sản (chiếm khoảng 27%)

Phần này nhằm nêu bật những tính chất cơ bản và quan trọng của người cộng sản.

Vào thời của Mác  có một số Đảng Cộng sản được thành lập. Đã có những đảng viên cộng sản bằng xương thịt, nhưng người cộng sản như mô tả của Mác chỉ mới có chủ yếu ở trong tưởng tượng và trên giấy.

Tuyên ngôn viết rằng: “ Người cộng sản có một luận điểm duy nhất là xoá bỏ chế độ tư hữu. …,

Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản.

Thế rồi Tuyên ngôn dựng lên “các ông” thuộc GC tư sản để đối thoại lan man về mọi thứ của cuộc sống, Tuyên ngôn viết “Các ông hoảng lên, vì chúng tôi muốn xoá bỏ chế độ tư hữuNhưng trong xã hội hiện nay của các ông, chế độ tư hữu đã bị xoá bỏ đối với chín phần mười số thành viên của xã hội đó rồi”. Tuyên ngôn giải thích rằng vô sản không có tư hữu, rằng  tư bản không phải là một lực lượng cá nhân, nó là một lực lượng xã hội. Cho nên, nếu tư bản biến thành sở hữu tập thể thuộc tất cả mọi thành viên trong xã hội thì đó không phải là một sở hữu cá nhân chuyển thành sở hữu xã hội. Chỉ có tính chất xã hội của sở hữu là thay đổi thôi. Sở hữu mất tính chất giai cấp của nó.

Nói tóm loại, các ông buộc tội chúng tôi là muốn xoá bỏ sở hữu riêng của các ông. Quả thật, đó chính là điều chúng tôi muốn…..Các ông thú nhận rằng khi các ông nói đến cá nhân, là các ông chỉ muốn nói đến người tư sản, người tư hữu tư sản mà thôi. Mà cái cá nhân ấy thì chắc chắn cần phải thủ tiêu đi…..Nếu các ông lấy những quan điểm tư sản của các ông về tự do, về văn hoá, về luật pháp,... làm tiêu chuẩn để xét việc xoá bỏ sở hữu tư sản thì chẳng cần phải tranh cãi với chúng tôi làm gì.

Sauk hi Tuyên ngôn ra đời, rộ lên rắng cộng sản chủ trương tam vô; vô gia đình, vô tổ quốc, vô tông giáo.

Về gia đình,Tuyên ngôn viết : Gia đình tư sản hiện nay dựa trên cơ sở nào? Dựa trên tư bản, trên lợi nhuận cá nhân. Gia đình dưới hình thái hoàn toàn phát triển của nó, chỉ tồn tại đối với giai cấp tư sản thôi, nhưng nó lại kèm theo sự bắt buộc phải thủ tiêu mọi gia đình đối với người vô sản và kèm theo nạn mãi dâm công khai. Gia đình tư sản dĩ nhiên là sẽ tiêu tan cùng với cái vật bổ sung đó của nó, và cả hai cái đó đều mất đi cùng với sự tan biến của tư bản . …. Đối với người tư sản, vợ hắn chẳng qua chỉ là một công cụ sản xuất….”.

Về Tổ quốc : Tuyên ngôn viết  Công nhân không có tổ quốc. Người ta không thể cướp của họ cái mà họ không có. Vì giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, Sự thống trị của giai cấp vô sản sẽ càng làm cho những sự cách biệt và những sự đối lập mất đi nhanh hơn. ….Hãy xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo…”.

Về tôn giáo. Tuyên ngôn viết : “.Còn những lời buộc tội chủ nghĩa cộng sản, xuất phát từ những quan điểm tôn giáo, triết học và nói chung là xuất phát từ những quan điểm tư tưởng thì không đáng phải xét kỹ. Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với những quan hệ sở hữu kế thừa của quá khứ; không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng kế thừa của quá khứ.

Tuyên ngôn tiếp tục giải thích: “Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị, và để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất.

Chính quyền vô sản sẽ dùng những thủ đoạn, những biện pháp không thể thiếu để đảo lộn toàn bộ phương thức sản xuất. Trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều. Tuyên ngôn kể ra 10 biện pháp phổ biến, như là Tước đoạt sở hữu ruộng đấtp dụng thuế luỹ tiến cao; Xoá bỏ quyền thừa kế; Tịch thu tài sản những kẻ lưu vong; Tập trung tín dụng  và mọi phương tiện vận tảivào tay nhà nước; Tăng thêm số công xưởng nhà nước; Thực hành nghĩa vụ lao động đối với tất cả mọi người; Tổ chức các đạo quân công nghiệp; Kết hợp nông nghiệp,làm mất dần sự khác biệt thành thị và nông thôn; Giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả các trẻ em.

 Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác. Giai cấp vô sản dùng bạo lực tiêu diệt những quan hệ sản xuất cũ, thì đồng nó cũng tiêu diệt luôn cả những điều kiện tồn tại của sự đối kháng giai cấp, nó tiêu diệt những giai cấp nói chung và cũng do đấy, tiêu diệt cả sự thống trị của chính nó với tư cách là một giai cấp.

Câu kết của phàn II là  Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.

Phần III-Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa (chiếm khoảng 30%)

Tuyên ngôn viết: Do địa vị lịch sử của họ, quý tộc Pháp và Anh đã có sứ mệnh viết những bài văn châm biếm đả kích xã hội tư sản hiện đại…. Các ngài quý tộc đã giương cái bị ăn mày của kẻ vô sản lên làm cờ để lôi kéo nhân dân theo họ, nhưng nhân dân vừa chạy lại thì trông thấy ngay những phù hiệu phong kiến cũ đeo sau lưng họ, thế là nhân dân liền tản đi và phá lên cười một cách khinh bỉ. Một bộ phận của phái chính thống Pháp và phái " Nước Anh trẻ " đã diễn tấn hài kịch ấy…. Họ buộc tội giai cấp tư sản đã hy sinh ra một giai cấp vô sản cách mạng, nhiều hơn là buộc tội giai cấp đó đã sinh ra giai cấp vô sản nói chung

Về vai trò của các nhà văn từ nhân dân, tuyên ngôn nhận định: Trong những nước như nước Pháp, ở đó nông dân chiếm quá nửa dân số thì tự nhiên đã xuất hiện những nhà văn đứng về giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, nhưng đã dùng cái thước đo tiểu tư sản và tiểu nông trong việc phê phán chế độ tư sản, và đã xuất phát từ những quan điểm tiểu tư sản mà bênh vực sự nghiệp của công nhân. Chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản đã được hình thành như thế đó. Xi-xmôn-đi là lãnh tụ của thứ văn học đó, không những ở Pháp mà cả ở Anh nữa.

Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa của nước Pháp, sinh ra dưới áp lực của một giai cấp tư sản thống trị, biểu hiện văn học của sự phản kháng chống lại nền thống trị ấy, thì được đưa vào nước Đức giữa lúc giai cấp tư sản bắt đầu đấu tranh chống chế độ chuyên chế phong kiến. Công việc độc nhất của các nhà văn Đức là điều hoà những tư tưởng mới của Pháp với ý thức triết học của mình, hay nói cho đúng hơn, là lĩnh hội những tư tưởng của Pháp bằng cách xuất phát từ quan điểm triết học của mình.

Như thế là văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa Pháp đã bị hoàn toàn cắt xén. Và vì trong tay người Đức, văn học ấy không còn là biểu hiện của cuộc đấu tranh của một giai cấp này chống một giai cấp khác nữa

Một bộ phận giai cấp tư sản tìm cách chữa các căn bệnh xã hội, cốt để củng cố xã hội tư sản. … Và thậm chí người ta đã xây dựng chủ nghĩa xã hội tư sản này thành một hệ thống hoàn bị.

Tiếp đên Tuyên ngôn trình bày một vài nhận định về hoạt động văn học cùng với sự phát triển của cách mạng.

Phần IV -  Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng đối lập

(phần này khá ngắn, chiếm chưa đến 5% tổng số chữ, được để nguyên văn)

Căn cứ theo những điều mà chúng tôi đã nói ở  phần II thì thái độ của những người cộng sản đối với những đảng công nhân đã được thành lập và do đấy, thái độ của họ đối với phái Hiến chương ở Anh và phái cải cách ruộng đất ở Bắc Mỹ, tự nó cũng đã rõ rồi.

Những người cộng sản chiến đấu cho những mục đích và những lợi ích trước mắt của giai cấp công nhân, nhưng đồng thời trong phong trào hiện tại, họ cũng bảo vệ và đại biểu cho tương lai của phong trào. Ở Pháp, những người cộng sản liên hợp với Đảng dân chủ - xã hội chủ nghĩa chống giai cấp tư sản bảo thủ và cấp tiến, đồng thời vẫn dành cho mình cái quyền phê phán những lời nói suông và những ảo tưởng do truyền thống cách mạng để lại.

Ở Thuỵ sĩ, họ ủng hộ phái cấp tiến, nhưng không phải không biết rằng đảng này gồm những phần tử mâu thuẫn nhau, một nửa là những người dân chủ xã hội chủ nghĩa theo kiểu Pháp, và một nửa là những người tư sản cấp tiến.

Ở Ba Lan, những người cộng sản ủng hộ chính đảng đã coi cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc, nghĩa là chính đảng đã làm cuộc khởi nghĩa Cra-cốp năm 1846.

Ở Đức, Đảng cộng sản đấu tranh chung với giai cấp tư sản mỗi khi giai cấp này hành động cách mạng chống chế độ quân chủ chuyên chế, chống chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến và giai cấp tiểu tư sản phản động.

Nhưng không một phút nào Đảng cộng sản lại quên giáo dục cho công nhân một ý thức hết sức sáng rõ về sự đối kháng kịch liệt giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, để khi có thời cơ thì công nhân Đức biết sử dụng những điều kiện chính trị và xã hội do sự thống trị của giai cấp tư sản tạo ra, như là vũ khí chống lại giai cấp tư sản, để ngay sau khi đánh đổ xong những giai cấp phản động ở Đức, là có thể tiến hành đấu tranh chống lại chính ngay giai cấp tư sản.

Những người cộng sản chú ý nhiều nhất đến nước Đức, vì nước Đức hiện đương ở vào đêm trước của một cuộc cách mạng tư sản, vì nước Đức sẽ thực hiện cuộc cách mạng ấy trong những điều kiện tiến bộ hơn của nền văn minh châu âu nói chung và với một giai cấp vô sản phát triển mạnh mẽ hơn nhiều so với nước Anh trong thế kỷ XVII và nước Pháp trong thế kỷ XVIII. Và do đấy, cách mạng tư sản Đức chỉ có thể là màn đầu trực tiếp cho một cuộc cách mạng vô sản.

Tóm lại, ở tất cả mọi nơi, những người cộng sản đều ủng hộ mọi phong trào cách mạng chống lại trật tự xã hội và chính trị hiện hành.

Trong tất cả phong trào ấy, họ đều đưa vấn đề chế độ sở hữu lên hàng đầu, coi đó là vấn đề cơ bản của phong trào, không kể là nó đã có thể phát triển đến trình độ nào.

Sau hết, những người cộng sản ở mọi nơi đều phấn đấu cho sự đoàn kết và sự liên hợp của các đảng dân chủ ở tất cả các nước.

Những người cộng sản coi là điều đáng khinh bỉ nếu giấu giếm những quan điểm và ý định của mình. Họ công khai tuyên bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện hành. Mặc cho các giai cấp thống trị run sợ trước một cuộc Cách mạng cộng sản chủ nghĩa! Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới.

Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!

.2 - Bình luận, phản biện

Tuyên ngôn được UNESCO đưa vào “Di sản tư liệu thế giới” (2019), được tuyên truyền cộng sản ca ngợi hết lời, bốc lên tận may xanh. Nào là kết tinh trí tuệ của loài người, là ánh sáng soi đường cho cách mạng vô sảni, là cương lĩnh tràn đầy sức sống, có ý nghĩa thời đại sâu sắc và bất hủ, sẽ sống mãi với thời gian. Đối với Việt Nam nó là ánh sáng rực rỡ soi đường cho cách mạng.

Về Di sản tư liệu thế giới. Đến năm 2021 Việt Nam có 5 công trình được đưa vào Di sản tư liệu thế giới là  Bia Tiến sĩ thời Lê-Mạc, Mộc bản Triều Nguyễn, Châu bản Chùa Vĩnh nghiêm, Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế, Mộc bản trường Phúc Giang ( Hà Tĩnh). Như vậy việc Tuyên ngôn được đưa vào Di sản tư liệu chỉ là một sự ghi nhận chứ không có ý nghĩa gì lớn đối với nhân loại. Ngoài việc này ra thì mọi sự ca ngợi đối với Tuyên ngôn đều mang tính phóng đại, tô vẽ, bốc phét quá xa sự thật.

Phần I về đấu tranh giai cấp (ĐTGC) là sai về cơ bản. Từ năm 1922 Tôn Trung Sơn đã vạch ra và phê phán sai lầm này.

Trong thế kỷ 20 ĐTGC thực chất là cuộc đấu tranh do các thế lực cộng sản đề xướng và lãnh đạo quần chúng cần lao, chống lại những người giàu có, nhằm tranh đoạt lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị. Cuộc đấu tranh này chủ yếu dùng bạo lực với phương châm một còn một mất  nên rất quyết liệt và thảm khốc. Tạm thời ĐTGC có đem đến một chút quyền lợi  và tinh thần cho cần lao, nhưng  tác hại nó mang lại cho nhân loại là to lớn và toàn diện : về đạo đức, văn hóa, kinh tế, nhân mạng.

 ĐTGC luôn đặt câu hỏi và tìm kiếm kẻ thù giai cấp trong thực tế và trong tư tưởng. Tìm cho ra để tiêu diệt cho hết. Mà phải dùng bạo lực để tiêu diệt theo phương châm “ thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”. Ở Việt Nam, trong những năm mà ĐTGC được đề cao, tầng lớp tiểu tư sản, trí thức, văn nghệ sĩ rất hoảng sợ khi được cật vấn về lập trường giai cấp, ý thức giai cấp. Trong các nước do cộng sản thống trị hàng chục triệu người đã bị giết một cách oan ức vì ĐTGC.  Ở VN hiện nay, sự xuống cấp rất trầm trọng của đạo đức, sự hủy diệt tầng lớp tinh hoa, sự chia rẽ dân tộc chính là do ĐTGC mang lại.Trong cải cách ruộng đất và cải tạo tư sản không hiếm trường hợp con cháu chống lại ông bà cha mẹ chỉ vì để thế hiện tinh thần ĐTGC, thể hiện sự trung thành với ĐCS.

Những người lãnh đạo ĐCS nói rằng ĐTGC nhằm mang chính quyền về cho giai cấp vô sản, nhưng thực tế không phải vậy. ĐCS nhờ giỏi tuyên truyền mà thu nhận được một số người có trình độ hiểu biết. Những người này có 2 loại : trung thực và cơ hội. Sau khi ĐCS giành được chính quyền, những độc hại của chủ nghĩa Mác Lê dần dần lộ ra. Mọi người đều thấy, nhưng bọn cơ hội lợi dụng để mưu đồ lợi ích cho bản thân và phe nhóm, còn người trung thực tìm cách chống lại. Vì trung thực nên ít biết dùng thủ đoạn, vì thế chính quyền dần dần rơi vào tay bọn cơ hội. Bọn này thiếu trí tuệ nhưng có nhiều mưu mẹo, có nhiều thủ đoạn gian dối trong đấu tranh. Chúng tìm cách triệt hạ hoặc hạn chế những người không cùng quan điểm mà chủ yếu là những trí thức tinh hoa và trung thực, chúng  tìm cách loại bỏ những người không cùng phe cánh, có xung đột quyền lợi. Chính quyền như vậy mà bảo rằng là của vô sản thì quá hài hước.

Như vậy ĐTGC ở VN cuối cùng mang lại lợi ích cho một nhóm nhỏ bọn cơ hội còn giai cấp công nhân vẫn tiếp tục bị áp bức và bóc lột, nông dân vẫn là những người bị thiệt thòi. Đất nước, nhân dân oằn mình gánh chịu thiên tai và nhân tai. Phần lơn nhân tai là kết quả trực tiếp hoặc gián tiếp của ĐTGC.

Phần II, về vô sản và cộng sản. Phần này chủ yếu trình bày về con người. Những nhầm lẫn của Mác về con người đã được trình bày ở mục 3 (Sai ở nhận định về con người). Ngoài ra phần này còn đụng chạm đến một vấn đề nhạy cảm là “Tam vô” (Vô gia đình, vô Tổ quốc, vô tôn giáo). Vấn đề này được bàn luận nhiều vào cuối thế kỷ 19, đấu thế kỷ 20. Nhưng rồi ngày nay hầu như không nghe có người Marxit nào nhắc đến nó nữa.

Phần III được trình bày một cách rối rắm với định hướng không rõ ràng và rất phiến diện. Phải chăng Mác và Engels định bàn đến đời sống tinh thần của giai cấp. Nếu thế thì không đạt vì ở đây chỉ viết một số nhận xét về vài tác phẩm văn học có dính dáng đến quan hệ giai cấp. Những người Marxit khi tuyên truyền và ca ngợi tuyên ngôn thường bỏ qua phần này vì họ không tìm thấy gì có giá trị trong đó, chỉ là một mớ ngôn từ lộn xộn.

Phần IV, Tuyên ngôn điểm qua tình hình các đảng Cộng sản ở Anh, Bắc Mỹ, Pháp, Thụy sĩ, Ba Lan, và đặc biệt là ở Đức. Cộng sản thời Mác và Engels còn tôn trọng và hợp tác với các đảng đối lập chứ không như một vài đảng CS đã giành được chính quyền và thực hành sự toàn trị, họ không chấp nhận đối lập và quyết tiêu diệt cho hết. Ở phần này Mác và Engels tỏ ra dám nói thật khi viết : “Điều đáng khinh bỉ nếu giấu giếm những quan điểm và ý định của mình. Họ công khai tuyên bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện hành…. Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ”. Nhưng Mác và Engels đã không thấy được sự mất mát rất lớn không những của những người vô sản mà của nhân loại, đó là trong cuộc cách mạng ấy rất nhiều nhân mạng bị giết, là nền đạo đức của xã hội bị hủy hoại, là việc đưa một số người kém trí tuệ lên cương vị thống trị làm cho phần lớn đạo lý bị đảo lộn.

 

3 - Cộng sản đã vận dụng Tuyên ngôn như thế nào

Cộng sản trên toàn thế giới và đặc biệt là CSVN ra sức tuyên truyền, hết lời ca ngợi Bản Tuyên ngôn, tưởng rằng họ sẽ nghiên cứu để thực hành theo nó. Nhưng không phải, họ chỉ lợi dụng nó để thực hiện những ý đồ thâm hiểm của mình. Nơi trang trọng họ treo ảnh Marx và Engels nhưng trong lòng họ hình ảnh các ông đã xuống đến ruột già.

Trong Tuyên ngôn có vài điều đúng và nhiều điều sai. Có những điều như: Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người,Người cộng sản tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản, Những người cộng sản ở mọi nơi đều phấn đấu cho sự đoàn kết và sự liên hợp của các đảng dân chủ ở tất cả các nước, Những người cộng sản coi là điều đáng khinh bỉ nếu giấu giếm những quan điểm và ý định của mình.”. Đólà những điều đúng, hợp đạo nghĩa. Những điều này đã bị các thế hệ lãnh dạo cộng sản không những vứt bỏ mà còn tích cực làm ngược lại.

Những điều sai, phản đạo lý về ĐTGC, về chuyên chính vô sản với sự thống trị độc tài, về đán áp tư tưởng, khinh miệt tôn giáo thì lãnh đạo cộng sản ra sức đề cao và thi hành. Họ làm như vậy với mục đích củng cố quyền lợi cá nhân và phe nhóm. Một vài lãnh tụ cộng sản còn muốn làm Hoàng đế suốt đời, họ tạo nên một giai cấp mới với những ông vua tập thể. Về hình thức họ có làm một số việc quan tâm đến giai cấp vô sản và nhân dân lao động, nhưng thực chất đó chỉ là như ông chủ quan tâm nuôi dưỠng đàn cừu, đàn vịt trong tay. Họ vỗ cho chúng béo để thu được lợi nhiều hơn chứ chẳng vì tự do và hạnh phúc của chúng.

Một vài lãnh đạo cộng sản không đến nỗi quá kém trí tuệ cũng đã phát hiện ra những điều trái quy luật trong Tuyên ngôn, đã làm ngược lại, có nghĩa là chống lại, phản lại, nhưng phạm vào dối trá khi cho rằng làm như thế là vận dụng sáng tạo. Đó là việc phát triển kinh tế tư nhân với mèo trắng mèo đen, với cơ chế thị trường v.v…

4 - Kết luận

Để viết một văn kiện quan trọng như Tuyên Ngôn người ta cần đạt đến trình độ “Tri Thiên Mệnh”. Nhưng Mác và Engels còn quá trẻ để hiểu kỹ sự đời. Phải chăng ở tuổi chưa quá 30 họ là những chú ngựa non háu đá, cứ tưởng mình là thiên tài, kiêu ngạo, huênh hoang, thách thức cả thế giới. Hình như khi về già Mác đã nhìn lại thời trai trẻ và nhận ra đã quá hung hăng. Thế nhưng những người làm tuyên truyền của cộng sản đã vô liêm sĩ, không chịu đọc kỹ Tuyên ngôn, cứ ca ngợi bừa bằng những lời rỗng tuếch, chẳng khác gì thổi bong bóng xà phòng. Thực ra Tuyên ngôn chỉ là một tảng đá nằm trên con đường phát triển của nhân loại.

------------------------------------------------------------------------------------

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét