FB Lang Anh
7-2-2017
Gần đây trên trang facebook của tôi sau loạt
bài phân tích về chế độ hiện tại, có nhiều comment vào hô hào cách thức lật đổ
chính quyền bằng bạo lực. Đại loại những ý kiến này tập trung vào ý tưởng chờ
đợi hoặc thúc đẩy khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam, trông đợi nền kinh tế rơi vào
đáy khủng hoảng và đói nghèo, trên cơ sở đó thúc đẩy sự bức xúc và tiến tới lật
đỏ chính quyền hoặc bằng áp lực hoặc bằng bạo lực. Tôi muốn nói rõ rằng, đó là
sự ảo tưởng và ngu đần. Đó là một dạng khác của cực đoan và nó cũng xấu xa
không kém sự độc tài cộng sản.
Hầu hết những người họ hào lật đổi chính
quyền một cách cực đoan có lẽ chưa bao giờ tự hỏi: Trong 50 năm qua, các cuộc
cách mạng đã diễn ra ở nhiều nước độc tài, vậy còn tại các nước tư bản có nền
chính trị tự do thì sao?
Thực tế mà ít người nhận ra, số cuộc cách
mạng tại các nước tư bản nhiều gấp đôi nếu không muốn nói là nhiều gấp ba các
nước độc tài. Có điều tất cả các cuộc cách mạng này đều diễn ra trong hoà bình
và dựa trên một nền tảng căn bản: “Sự tiến bộ về dân trí và nhận thức”. Lấy ví
dụ từ chính nước Mỹ, dù lập quốc với một bản người hiến phaps về căn bản là bất
biến cho đến tận ngày nay, và có một nền chính trị tự do ngay từ ngày đầu lập
quốc, nhưng phải mất gần 200 năm, phụ nữ Mỹ mới có quyền bầu cử (năm 1920).
Thời điểm kết thúc thế chiến thứ hai năm 1945, Mỹ vẫn là một quốc gia phân biệt
chủng tộc nặng nề dù Abraham Lincon đã tuyên bố xoá bỏ chế độ nô lệ trước đó 81
năm (1861). Và phải đến khi Martin LutherKing phát động cuộc đấu tranh bất bạo
động trong nhiều năm trời, xã hội Mỹ mới bắt đầu biến chuyển. Sau khi
LutherKing ám sát năm 1968, nước nãy vẫn còn phải đi một chặng đường dài trong
cuộc cách mạng đòi quyền bình đẳng, thậm chí chính Michael Jackson, một tượng
đài âm nhạc có ảnh hưởng lớn đến văn hoá Mỹ và thế giới, cũng từng là một nạn
nhân của tệ phân biệt chủng tộc. Cho đến tận năm 2008 khi Obama thắng cử, nước
Mỹ đã mất 63 năm để đạt được những tiến bộ về căn bản trong cuộc cách mạng cho
sự bình đẳng của nó. Cũng trong cùng thời kỳ, có 3 cuộc cách mạng công nghệ nối
tiếp nhau diễn ra trong lòng nước Mỹ. Tất cả đều dựa trên nền tảng của tiến bộ
nhận thức và hoà bình. Nó mang lại những thành quả văn minh bền vững.
Nhìn vào lịch sử thế kỷ 20, có thể thấy tất
cả các cuộc cách mạng về chính trị dựa trên bạo lực đều để lại hậu quả vô cùng
nặng nề, phần lớn trường hợp đều không đạt được mục đích cho sự thịnh vượng,
vốn là mục đích tối hậu của mọi sự tiến bộ xã hội. Có lẽ ít ai còn nhớ rằng Iraq , Syria , Lybia đều từng là những quốc
gia thịnh vượng, với mức thu nhập bình quan đầu người xếp trên mức bình quân
thế giới. Vậy mà hiện nay, sau hàng thập kỷ tính từ cái chết của Saddam Husein , iraq vẫn đang trong tình trạng
chiến tranh và chỉ còn là một đống gạch vụn so với quá khứ. Điều tương tự cũng
đang diễn ra tại Syria , Lebanon . Những
cuộc cách mạng dựa trên bạo lực và hoang tàn, nó dễ dàng thúc đẩy và bị chi
phối bởi những xu hướng cực đoan. Kể cả trong tình huống may mắn nhất nếu có
một nền chính trị dân chủ được thành lập thì nền văn minh vốn đã từng có cũng
đã bị tàn phá và kéo lùi nhiều thập kỷ bởi chiến tranh. Đây là một con đường
sai lầm, vì đấu tranh cho tiến bộ xã hội trước hết và bao giờ cũng phải dựa
trên sự thịnh vượng và thúc đẩy thịnh vượng, bởi nếu không thì đó là một cuộc
đấu tranh vô nghĩa.
Có lẽ cũng rất nhiều người từng quên rằng
Hàn Quốc cũng từng bị cai trị bởi những chế độ độc tài liên tiếp nhau. Trước
khi có nền chính trị dân chủ như hiện nay, người Hàn Quốc cũng từng phải đấu
tranh bất bạo động trong nhiều thập niên. Dù rằng nền chính trị tự do ở Hàn
Quốc đã được thúc đẩy sau cái chết của tổng thống Park Chung Hê khi ông ta bị
ám sát vào năm 1979, tuy nhiên về cơ bản đất nước ấy đã lật đổ được chế độ độc
tài trong hoà bình. Tất cả đều dựa trên nền tảng tiến bộ kinh tế và nhận thức.
Cũng là một sự chuyển hoá hoàn toàn hoà
bình, người Đài Loan sau nhiều thập kỷ nằm dưới quyền cái trị độc tài của gia
tộc Tưởng Giới Thạch, cuối cùng cũng đạt được một nền chính trị tự do. Cũng
chẳng hề có cuộc đấu tranh bạo lực nào diễn ra ở Đài Loan. Người dân đất nước
ấy cần mẫn xây dựng nền kinh tế và đấu tranh đòi tự do chính trị trong ôn hoà.
Khi thấy không thể kìm kẹp một cộng đồng đã có trình độ rất cao về tư duy,
Tưởng Kinh Quốc chịu nhượng bộ và chấm dứt nền cai trị độc tài.
Những cuộc cách mạng ấy có nhiều điểm không
hoàn toàn giống nhau, diễn ra trong những bối cảnh lịch sử và văn hoá khác
nhau, nhưng đều có điểm chung: Dựa trên nền tảng tiến bộ về nhận thức của con
người.
Đây cũng chính là điều tôi muốn nhìn thấy ở
Việt Nam .
Với một đất nước có nền văn hoá tiểu nông như ở Việt Nam, đồng thời có sự chia
rẽ hết sức nặng nề về văn hoá, mọi cuộc đấu tranh dựa trên nền tảng đoi nghèo
và bạo lực đều sẽ chỉ dẫn đến hai hậu quả cơ bản. Trước hết là tất cả những
thành quả người Việt Nam
đã đạt được trong ba thập niên chuyển hướng sang kinh tế thị trường đều có nguy
cơ bị xoá bỏ. Thứ hai là trong tình huống bạo lực lan tràn, đất nước rất dễ rơi
vào vòng xoáy của những thế lực cực đoan, nhất là khi các quốc gia đang có
tranh chấp lãnh thổ với Việt Nam Cần thiệp phá hoại bằng cách này hay cách
khác. Đó sẽ là một tình huống không thấy ngày mai, nó chỉ thay thế một ác mộng
bằng một cơn ác mộng kế tiếp.
Mọi cuộc cách mạng hướng tới văn minh ở Việt
Nam ,
nhất định phải được xây dựng trên nền tảng của sự tiến bộ về tư duy và bằng
phương thức hoà bình. Để thúc đẩy sự tiến bộ về nhận thức, nền tảng bền vững
của nó chính là sự phát triển về kinh tế, văn hoá và đặc biệt là sự giao lưu
hội nhập với thế giới văn minh. Cùng với nó là sự kiên trì nhưng bền bỉ của
những công dân tiến bộ trong việc phổ biến những tư tưởng tiến bộ một cách hoà
bình, thổi luồng khao khát tự do vào xã hội. Cùng với đó là việc thúc đẩy các
phong trào xã hội dân sự, đòi hỏi về nhân quyền, đòi chống tham nhũng, chống
bất công, đòi tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và cuối cùng tiến tới đòi quyền
bầu cử tự do, quyền lập chính đảng và quyền tự do chính trị. Đó chắc chắn là
con đường đấu tranh đạt được thành quả bền vững nhất và cũng chỉ có nó mới là
cách giúp đất nước này hướng tới sự thịnh vượng và văn minh, tránh được vũng
lầy chiến tranh luôn gắn liền tàn phá và là mảnh đất hứa nuôi dưỡng sự cực đoan.
Trong nhiều năm, tôi có sự chiêm nghiệm rất
rõ về tiến trình thức tỉnh tư duy ở Việt Nam . Cùng với sự hội nhập với quốc
tế và đặc biệt là cùng với sự xuất hiện của ngày càng nhiều các nhà đấu tranh
ôn hoà, số người Việt Nam
giác ngộ về nhận thức ngày một tăng theo thời gian. Chiều hướng mà người Việt Nam từ bỏ việc
công nhận tính chính danh của nền cai tri độc tài và hướng về các khao khát tự
do là một chiều hướng không có sự đảo ngược. Đó là những tiến bộ xã hội bền
vững. Tôi tin rằng khi số người Việt thức tỉnh đủ lớn và sẵn sàng xuống đường
tuần hành đòi quyền tự do bầu cử, đó sẽ là lúc bình minh lên ở đất nước này.
Con đường đấu tranh cho Việt Nam , do đó luôn
luôn phải dựa trên nền tảng thúc đẩy sự thức tỉnh về tư duy, bảo tồn và thúc
đẩy sự thịnh vượng vì chẳng thể có trình độ nhận thức cao trên một nền tảng vô
giáo dục và đói nghèo. Đó cũng chính là tư tưởng cốt lõi nhất của nhà tư tưởng
Phan Chu Chinh, một trí tuệ vượt thời gian của người Việt. Đó cũng là con đường
mà tôi đã và sẽ luôn theo đuổi.
P/S: Dù luôn khuyến khích sự tự do trao đổi,
nhưng trang nhà tôi nhất định và luôn luôn từ chối mọi quan điểm khuyến khích
bạo lực và cực đoan. Mọi ý tưởng cơ hội và đê tiện về việc kéo lùi hoặc cô lập
nền kinh tế Việt Nam
cũng không phải là thứ được hoan nghênh ở đây. Tất cả những ai có quan điểm này
đều sẽ bị block không thương tiếc. Tất nhiên facebook là một xã hội tự do,
những người đó cũng hoàn toàn có quyền bình đẳng giống như tôi để chia sẻ bất
cứ gì họ muốn trên trang nhà của họ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét