Dương Danh Dy
Nhà
nghiên cứu Trung Quốc
Bước đầu, xin mạnh dạn công khai một số yếu kém của phía chúng
ta, cũng như xin thẳng thắn đề cập tới một vài tác hại của những “quyết đoán”
sai lầm khi đó đối với đất nước.
Nêu
ra một số việc, không phải là muốn truy cứu trách nhiệm chính trị, hoặc nhằm
bôi xấu, hạ thấp uy tín của một ai mà chỉ nhằm một mục đích: nếu không thấy hết
những dại khờ, non yếu của chúng ta, không vạch trần những mưu ma chước quỷ của
kẻ mà cho đến tận giờ phút này trong chúng ta vẫn còn có không ít ngưòi lầm
tưởng họ là những đồng chí cộng sản, những người đang cùng chúng ta xây dựng
chủ nghĩa xã hội thì sẽ là một nguy hại to lớn, lâu dài, tiềm ẩn đối với dân
tộc.
Ngoài
những nhân nhượng vô nguyên tắc về Campuchia như đã trình bày ở bài trước, phía Việt Nam đã không hề (hay không dám) đề cập tới nguyên
nhân tạo ra bất đồng trong quan hệ Việt Trung trong hơn 10 năm qua nhất là cuộc
Chiến tranh Biên giới tháng 2 năm 1979 do Ban lãnh đạo Bắc Kinh cố tình, chủ
động gây ra.
Phía
Việt Nam đã hoàn toàn cho qua vấn đề sau khi nghe Giang Trạch Dân nói trong
diễn văn: quan hệ hai nước từ nay “hãy gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”.
Đó
là những điều người viết bài này thu nhận được sau khi đã hỏi kỹ đồng chí phiên
dịch và nói chuyện nghiêm túc nhiều lần với đồng chí Hồng Hà khi đồng chí còn
sống tại một số cuộc họp và tại phòng làm việc của đồng chí tại số 2 Nguyễn
Cảnh Trân và tại nhà riêng của tôi do đồng chí chủ động tới gặp.
Không dám hé một lời
Chúng ta không đòi Trung Quốc phải bồi thường chiến tranh trong khi
đã nêu vấn đề Mỹ bồi thường chiến tranh
Chúng
ta không đòi Trung Quốc phải bồi thường chiến tranh trong khi đã nêu vấn đề Mỹ
bồi thường chiến tranh là điều kiện tiên quyết để bình thường hoá quan hệ hai
nước, nhưng tại sao trong đàm phán bí mật lại không dám nói dù chỉ là một lời
với Trung Quốc về cuộc chiến tranh tàn ác đó và buộc họ chí ít phải nói ra câu
'lấy làm tiếc' về hành động phi nghĩa của mình?
Nhượng
bộ vô nguyên tắc này của Việt Nam đã làm cho Trung Quốc dường như giành được
'vị thế chính nghĩa' trước dư luận quốc tế và nhất là trong đông đảo nhân dân
Trung Quốc dù họ mang hơn 60 vạn quân chính quy xâm lược, giết hại nhiều đồng
bào ta, tàn phá nhiều cơ sở vật chất của ta tại vùng sáu tỉnh biên giới Việt
Nam.
Làm
cho một bộ phận người trên thế giới cho rằng những vu cáo bịa đặt của Trung
Quốc: 'Việt Nam xua đuổi người Hoa', 'Việt Nam xâm lược Campuchia'… là đúng, việc
thế giới 'lên án, bao vây cấm vận Việt Nam' là cần thiết, việc Trung Quốc 'cho
Việt Nam một bài học' là phải đạo… trong khi chính chúng ta mới là ngườì có
công lớn trong việc đánh tan bọn Khơme Đỏ, cứu nhân dân Campuchia khỏi nạn diệt
chủng. Tóm lại là đã làm cho khá nhiều người trong thời gian khá dài hiểu lầm,
ác cảm với Việt Nam.
Cho
tới khi đặt bút viết những dòng này mặc dù đã mất nhiều công sức tìm hiểu,
người viết vẫn chưa biết ai là người đề xuất chủ trương cấm không được nói lại
chuyện cũ với Trung Quốc, khiến cho trong hơn 20 năm qua, trên các phương tiện
truyền thông của Việt Nam không hề có một tin tức nào động chạm tới Trung Quốc.
Ngay cả tên tuổi, nghĩa trang của các liệt sĩ hy sinh trong cuộc đấu tranh yêu
nước thần thánh trên cũng bị cố tình lảng tránh không dám công khai nói tới,
thậm chí bị lãng quên.
Cần
phải nói ra đây một sự thực là trong khi đó, báo, mạng chính thống của Trung
Quốc vẫn ra sức tung hoành, không hề bị một sự cấm đoán, hạn chế nào, ngày ngày
tìm hết cách để bôi xấu, xuyên tạc Việt Nam về mọi mặt, đến nỗi phần lớn người
dân Trung Quốc bình thường khi được hỏi về Việt nam cũng thốt lên, Việt Nam là
'vô ơn bội nghĩa, là kẻ ăn cháo đá bát'...
Theo
tài liệu chính thức của Trung Quốc trong một cuộc điều tra công khai, đã có tới
“80% dân mạng Trung Quốc - tức khoảng 300 triệu người-chủ yếu là thanh niên và
người có học - tán thành dùng biện pháp vũ lực với Việt Nam tại Biển Đông.
Cảm
tình, ấn tượng tốt đẹp của đa số nhân dân Trung Quốc về một nước Việt Nam anh
dũng trong chiến đấu, cần cù trong lao động, hữu nghị với Trung Quốc trước đây
dường như không còn nữa. Hậu quả tai hại này chưa biết bao giờ mới xoá bỏ được.
Chấp
nhận yêu sách trắng trợn của phía Trung Quốc gạt bỏ mọi chức vụ trong và ngoài
đảng đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, rồi lợi dụng mọi cơ hội đế đến Đại
hội 8 Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức làm được việc đó khi đồng chí là một
trong số rất ít người lãnh đạo có tư duy sáng tạo, am hiểu tình hình quốc tế,
có sức khoẻ dồi dào, có uy tín quốc tế, nhất là đối với các nước Phương Tây là
một việc làm thể hiện sự yếu kém về bản lĩnh và sự tha hoá về tình nghĩa cộng
sản, là một việc làm dại dột “vác đá tự ghè chân mình”...
Có
thể nói mà không sợ quá mức rằng, nếu Nguyễn Cơ Thạch còn trong ban lãnh đạo
cấp cao Đảng ta một nhiệm kỳ nữa thì việc bình thường hoá quan hệ Việt Mỹ và
việc Việt Nam gia nhập Asean chắc chắn không phải mãi đến năm 1995 mới thực
hiện, chậm hơn việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc tới gần 5 năm.
Ban
lãnh đạo Bắc Kinh các thế hệ, lo sợ ảnh hưởng của Nguyễn Cơ Thạch tới mức, mặc
dù ông buộc phải nghỉ hưu và mất đã khá lâu mà hơn hai mươi năm sau ngày bình
thưòng hoá quan hệ Việt Trung, tại Đại hội lần thứ XI ĐCSVN tháng 1 năm 2011 họ
còn không muốn để con trai ông làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam (lời nguời
lãnh đạo đảng ta lúc đó nói, tôi được nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc
Nguyễn Trọng Vĩnh trực tiếp cho biết).
Cần
nói thêm, việc ngoan ngoãn chấp hành yêu sách gạt bỏ đồng chí Nguyễn Cơ Thạch
đã tạo điều kiện để từ sau đó, Bắc Kinh can thiệp ngày càng sâu hơn vào công
tác cán bộ, nhân sự chủ chốt của đảng và nhà nước ta qua mấy kỳ đại hội Đảng (IX,
X, và XI) nhằm có người thân Trung Quốc trong cơ cấu lãnh đạo cấp cao.
Việc
tỏ ý không muốn thấy con trai đồng chí Nguyễn Cơ Thạch nêu trên chỉ là một ví
dụ gần đây nhất.
Đây
là việc chưa từng có trong Đảng ta. Chúng ta đều biết thời Bác Hồ, trong Đảng
ta tuy có người này kẻ kia thân Liên Xô, thân Trung Quốc nhưng người nào cũng
phải nghiêm chỉnh chấp hành đường lối của Đảng, thời đồng chí Lê Duẩn là người
lãnh đạo chủ yếu đã không duy trì được nếp chung sống đó, nhưng bất kể là ai hễ
thân Liên Xô, thân Trung Quốc trong đảng đều bị loại trừ.
Có
thể nhận định thế này thế nọ về hiện tượng trên nhưng có một điều có thể khẳng
định, thời đó nước ngoài và nhất là Trung Quốc, không thể trực tiếp thò tay can
thiệp vào nội bộ Đảng ta nhất là về công tác nhân sự tổ chức.
Nhưng
từ năm 1991 đến nay, việc Trung Quốc can thiệp vào nội bộ ta đã hầu như đã diễn
ra thường xuyên và chưa hề bị lên án. Phải chăng đã xuất hiện 'Nhóm lợi ích
thân Trung Quốc' trong Đảng ta? Không giải quyết được tình trạng này thì hậu
hoạn khôn lường.
Bài học bị dắt mũi nhớ
đời
Không
thể dùng các từ ngữ thông thường để đánh giá các hậu quả trên mà phải dùng từ
“cái giá phải trả bằng xương máu” mới phản ánh đúng bản chất của vấn đề.
Hội
nghị Thành Đô đã, đang và sẽ còn mang lại cho đất nước chúng những hậu quả to
lớn, cay đắng, nhục nhã...
Vì
vậy một vấn đề cũng quan trọng không kém mà người viết xin mạnh dạn khởi đầu
trước: từ những cái giá phải trả đó chúng ta cần rút ra những bài học gì? Cần
ghi nhớ những bài học nào?
1. Những ngưòi lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta lúc đó hầu như
không nắm được những thay đổi, những diễn biến lớn trên trường quốc tế, nhất là
về các nước XHCN Đông Âu, tình hình Liên Xô, tình hình Mỹ cũng như tình hình
đối thủ trực tiếp của mình lúc đó là Trung Quốc. Từ đó đã có những nhận định
rất sai lầm để rồi đưa ra những quyết định rất sai lầm.
Thắng
lợi của Công đoàn Đoàn kết tại Ba Lan, sự kiện Bức tường Berlin bị nhân dân Đức
xoá bỏ, việc Yeltsin giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tại Liên bang Nga,
Gorbachev từ bỏ chủ nghĩa xã hội và đảng cộng sản… đã không làm cho một số
người trong ban lãnh đạo chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã hội đã không còn được
nhân dân ở chính ngay những nước đó ưa thích, theo đuổi, sự sụp đổ của họ là lẽ
tất nhiên.
Trong
tình hình như thế mà lại chủ trương 'bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc để
bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc', 'Mỹ và Phương Tây muốn cơ hội này để
xoá cộng sản'.
"Nó
đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng là
nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là
Trung Quốc” (trích Hồi ký Trần Quang Cơ).
Cần
thấy rằng, trước đó Liên Xô là chỗ dựa về nhiều mặt của Việt Nam, tuy vậy phải
nói thẳng ra rằng, so với Cuba thì Việt Nam tương đối ít lệ thuộc hơn. Thế
nhưng trong khi Cuba phụ thuộc nặng nề vào Liên Xô, lại ở ngay sát nách Mỹ đã
không tỏ ra hoảng hốt khi Liên Xô tan rã, và các bạn ấy vẫn hiên ngang đứng
vững từ đó đến nay, Mỹ không dám can thiệp… thì Việt Nam đã phải vội vã quay
sang tìm đồng minh ngay với kẻ đang là đối thủ nguy hiểm trực tiếp của mình chỉ
vì cái đại cục chung chung, chỉ vì sợ mất chỗ dựa, sợ có thể mất chủ nghĩa xã
hội, mất Đảng.
Không
thấy hết những khó khăn trong ngoài nước của Trung Quốc lúc đó. Trong nước họ
vừa xảy ra sự kiện Thiên An Môn, Triệu Tử Dương bị cách chức Tổng Bí thư, nội
bộ lãnh đạo cấp cao bất đồng sâu sắc, một bộ phận nhân dân bất mãn với Đảng
Cộng sản Trung Quốc.
Do
đàn áp đẫm máu học sinh sinh viên, Trung Quốc bị các nước Phương Tây chủ yếu
cấm vận về chính trị, kinh tế, quân sự, có hạng mục như xuất khẩu kỹ thuật cao
trong quân sự đến nay vẫn chưa huỷ bỏ.
Họ
ở vào thế không có lợi nhiều mặt khi bình thường hoá quan hệ với ta, nhưng do
mấy nhà lãnh đạo chúng ta lúc đó đánh giá không đúng tình hình nên không những
không sử dụng được lợi thế của mình, mà còn bị Trung Quốc 'dắt mũi' kéo theo,
thiệt đơn thiệt kép trong xử lý quan hệ cũ và trong giai đoạn bình thường quan
hệ mới, cho tới tận bây giờ và cả trong tương lai nữa.
Không
thể không đề cập tới một vấn đề nữa là trong hơn 10 năm đối kháng, nhà nước Xã
hội chủ nghĩa Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã không từ thủ đoạn nào
trong đối xử với nước ta, không những thế thái độ của họ trong đối xử với Liên
Xô, trong đối xử với nước Ấn Độ láng giềng đồng tác giả với họ trong đề xướng 5
nguyên tăc chung sống hoà bình những năm trước đó.
Chẳng
lẽ Ban lãnh đạo Việt Nam lúc đó lại không thấy chút nào?
2. Bằng những thoả thuận tại Hội nghị Thành Đô, mấy nhà lãnh
đạo chủ yếu của Đảng ta lúc đó đã tự đánh mất bản lĩnh kiên cường, bất khuất,
không sợ địch mà nhiều thế hệ lãnh đạo đã nêu cao, để sẵn sàng nhận sai về phần
mình trước kẻ thù, tuỳ tiện đổ lỗi cho người tiền nhiệm.
Người
viết bài này không hiểu vì sao, người đại diện cho Đảng ta, một nhân vật có
tinh thần sáng tạo lớn với ý chí kiên cường đã tích cực phát triển đường lối
cải cách và Đổi mới và chỉ đạo toàn Đảng toàn dân thu được những thành tích to
lớn rất quan trọng bước đầu, thế nhưng trước đối thủ Trung Quốc hình như chỉ
còn là chiếc bóng, mất hết cảnh giác cách mạng gật đầu tin tưởng và làm theo
mọi đề xuất mang đầy chất lừa bịp 'vì chủ nghĩa xã hội', 'vì đại cục' của Trung
Quốc, thậm chí chấp nhận để họ can thiệp vào công việc nhân sự cấp cao của đảng
ta.
Bài
học này, cần được phân tích sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, một mặt để thấy
rõ sai lầm quá khứ, một mặt để ngăn chặn, phá tan những âm mưu, mánh khoé mới
của ngưòi 'láng giềng bốn tốt', của 'những đồng chí' luôn rêu rao '16 chữ vàng'
đang không ngừng vận dụng những thành quả cũ vào trong quan hệ với Việt Nam
chúng ta hiện nay và trong tương lai.
D.D.D.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét