10/09/2018 14:54 GMT+7
- “Lĩnh vực giáo dục nói riêng và
xã hội nói chung chỉ phát triển khi sự khác biệt được tôn trọng”, PGS Ngôn ngữ
Bùi Mạnh Hùng cho biết như vậy khi trao đổi về một số vấn đề từ “cơn bão sách
tiếng Việt lớp 1 Công nghệ Giáo dục” thời gian qua.
PGS Bùi Mạnh Hùng là điều phối viên chính Ban Phát triển Chương
trình Giáo dục phổ thông mới và là Chủ tịch Hội đồng quốc gia thẩm định Tài
liệu Tiếng Việt 1 - Công nghệ Giáo dục (Bộ GD-ĐT). Dưới đây, VietNamNet xin giới thiệu bài viết của PGS
Bùi Mạnh Hùng.
Sáng 8/9 GS Hồ Ngọc Đại đã có buổi thuyết trình chuyên đề “Công nghệ giáo dục trong kỉ nguyên 4.0”. Phát biểu của GS. Đại có những nội
dung đáng chú ý và chúng tôi muốn trao đổi để làm rõ.
1. "Công nghệ giáo dục sẽ tồn tại vĩnh viễn".
Có một sự mơ hồ trong cách dùng cụm từ “công
nghệ giáo dục”. Khái niệm “công nghệ giáo dục” của GS Đại khác hẳn với việc ứng
dụng công nghệ trong giáo dục.
Nó không ăn nhập gì với “kỉ nguyên công nghệ
số”. Nó cũng không liên quan nhiều lắm đến những thành công của Trung tâm Thực
nghiệm Công nghệ Giáo dục được thành lập cuối những năm 70 của thế kỉ trước.
Việc đưa những tư tưởng như “lấy học sinh làm trung
tâm”, “mỗi ngày đến trường là một ngày vui”,... vào nhà trường Việt
Nam vào những năm đó là một đóng góp có ý nghĩa.
Tuy không phải là điều gì mới mẻ đối với các
nền giáo dục phát triển, nhưng nó đã thổi một luồng gió mới vào môi trường giáo
dục Việt Nam.
Cùng với cơ sở vật chất tốt và nhiều điều kiện
thuận lợi khác, chắc hẳn nó có góp phần đào tạo ra nhiều thế hệ học sinh có
chất lượng cao, mang nhiều kí ức tốt đẹp về nơi mình được giáo dục và trưởng
thành.
Tuy nhiên, “công nghệ giáo dục” được hiểu như
một quy trình dạy học được thiết kế một cách tỉ mỉ, GV và HS cần tuân thủ theo
từng bước đến từng chi tiết gần như máy móc, khi ứng dụng vào một cuốn sách
giáo khoa cụ thể thì lại có vấn đề.
TV1-CNGD được coi là thể hiện thành công của ứng dụng “công nghệ
giáo dục”. Nhưng như chúng tôi đã nêu trong kết luận của Hội đồng thẩm định
quốc gia (ngày 15/5/ 2017): “Việc thiết kế quy trình chi
tiết, ràng buộc quá chặt chẽ đối với cả giáo viên và HS có thể hạn chế sự sáng
tạo của giáo viên và hứng thú của HS. Hoạt động dạy học lặp đi lặp lại, nếu
tiếp tục trong khoảng thời gian dài sẽ làm cho hoạt động dạy học trở nên đơn
điệu”. “Việc rèn luyện cho HS kỹ năng phân tích cấu
trúc âm tiết và luyện phát âm đối với HS bản ngữ (tiếng Việt) không thật sự cần
thiết và không phù hợp với phương pháp dạy học bản ngữ. Hiện nay, ngay cả khi
dạy học ngôn ngữ thứ hai và ngoại ngữ, phương pháp phân tích cấu trúc ngữ âm
như cách của Tài liệu TV1-CNGD cũng ít khi được sử dụng.”
TV1-CNGD chỉ được phép thử nghiệm cho đến khi có chương trình và SGK mới (dự kiến năm 2019 hoặc 2020 có SGK lớp 1).TV1-CNGD cần khắc phục hay điều chỉnh cho phù hợp với xu hướng dạy học ngôn ngữ theo quan điểm giao tiếp. Nói cho công bằng thì quy trình thiết kế này có tác dụng phần nào khi dạy học đánh vần, giai đoạn mà HS cần phải bắt chước nhiều. Nhưng lên các lớp trên thì có thể khẳng định là không phù hợp và không hiệu quả. Nó trái ngược với chính những tư tưởng cơ bản về giáo dục mà GS. Đại nhiều lần phát biểu: lấy HS làm trung tâm, mỗi ngày đến trường là một ngày vui.
Nếu những điểm “cực đoan” trong phương pháp
dạy học của TV1-CNGD không được khắc phục thì không có gì bảo đảm “công nghệ
giáo dục” sẽ tồn tại vĩnh viễn. Quy định của chương trình GDPT mới mở ra cơ hội
cho nhiều phương pháp dạy học. Nhưng những cách tiếp cận cực đoan chắc là khó
được chấp nhận.
2. HS học TV1-CNGD không để ý đến nghĩa mà chỉ đến âm. Chủ
trương “chân không về nghĩa”.
Kết luận của Hội đồng thẩm định ghi rõ: “Quan điểm “chân không về nghĩa” không đúng với bản chất của ngôn
ngữ và không phù hợp với thực tiễn dạy học ngôn ngữ, trái với nguyên tắc dạy
học tiếng theo quan điểm giao tiếp”.
Sau 2 lần thẩm định, quan điểm “chân không về
nghĩa” về cơ bản đã được tác giả điều chỉnh. Hầu hết, những từ ngữ khó, từ ngữ
địa phương, vốn được sử dụng trong tài liệu TV1-CNGD trước thẩm định dựa trên
quan điểm “chân không về nghĩa” đã được thay thế.
Như vậy, ý kiến của GS. Đại trong bài thuyết
trình không thể hiện đúng những gì mà tác giả đã tiếp thu và chỉnh sửa theo đề
nghị của Hội đồng thẩm định.
Cái gọi là “chân không về nghĩa” chỉ có thể áp
dụng khi HS luyện tập đánh vần, vận dụng mẫu đã học để đọc những âm tiết mới,
có thể không có trong ngôn ngữ. Nhưng dùng nó để biện minh cho việc bất chấp ý
nghĩa khi dùng ngữ liệu để dạy thì hoàn toàn không ổn.
Việc dùng nhiều từ ngữ địa phương, từ ngữ khó,
từ ngữ có ý nghĩa chưa phù hợp với HS lớp 1 có phần bị chi phối bởi quan điểm
“chân không về nghĩa” này.
3. Khi 100% dân cư đi học thì ngôn ngữ ấy phải là ngôn ngữ hàng
ngày, chứ không phải ngôn ngữ sách vở.
Không phải chỉ có khi 100% dân cư đi học mà
dạy học ngôn ngữ nói chung thì đều phải cho HS được học ngôn ngữ thuộc nhiều
phong cách và sử dụng trong nhiều môi trường giao tiếp đa dạng. Ngôn ngữ hàng
ngày và ngôn ngữ sách vở HS đều cần được học.
Tuy nhiên, không thể lấy lí do HS cần được học
ngôn ngữ hàng ngày để đưa những ngữ liệu “thô ráp” của đời thường, không phù
hợp vào sách dạy tiếng cho HS lớp 1.
4. Vật thật và vật thay thế
Vật thật là tiếng nói, âm nghe. Chữ chỉ là vật
thay thế. Trong ngôn ngữ học, nhất là từ F. de Saussure trở về sau, thì không
mấy ai còn nhầm lẫn giữa âm và chữ viết. Hiện nay, sự phân biệt này cũng đã
thuộc về hiểu biết phổ thông.
Âm là bộ phận cấu thành của ngôn ngữ. Từ khi
có ngôn ngữ thì đã có âm thanh của ngôn ngữ, được các nhà chuyên môn phân tích
thành các âm vị (phoneme), làm cơ sở cho việc tạo ra hệ thống chữ viết.
Chữ viết (ghi âm, không nói hệ thống chữ viết
khác như chữ viết tiếng Hán) là hệ thống kí hiệu ghi lại âm thanh của một ngôn
ngữ dựa trên một giải thuyết âm vị học (phonology), được dùng để chuyển ngôn
ngữ nói thành ngôn ngữ viết.
Việc dùng khái niệm “vật thật” và “vật thay
thế” thực ra chỉ dựa trên một sự phân biệt có tính chất phổ biến đó.
Tuy nhiên, nó có vẻ làm phức tạp hóa vấn đề
khi vận dụng vào dạy ngôn ngữ.
Hiệu quả của cách phân biệt “vật thật” và “vật
thay thế” đối với nhận thức và thực hành ngôn ngữ của HS lớp 1 khó có thể có
bằng chứng rõ ràng.
Đó là chưa kể, xét cho cùng thì bản thân âm
thanh cũng chỉ là vật thay thế, là “kí hiệu” cho một cái khác, chẳng hạn khái
niệm mà nó biểu thị.
5. GS. Đại cho rằng ông dành nhiều tâm huyết và công phu nhất cho
TV1-CNGD. Trẻ con rất hồn nhiên và tin vào người lớn, lớp 1 phải đưa những thứ
tốt đẹp vào đó.
Tâm huyết và công phu của GS. Đại dành cho
TV1-CNGD là điều không thể nghi ngờ.
Đó là một trong những lí do quan trọng để Hội
đồng thẩm định quốc gia đọc kĩ, chắt lọc và trân trọng từng đóng góp của tác
giả thể hiện qua tài liệu và đề nghị Bộ GD và ĐT cho phép tiếp tục được thử
nghiệm cho đến khi có CT GDPT và SGK mới để tác giả có cơ hội hoàn thiện thêm.
Nếu phù hợp với yêu cầu của CT GDPT mới và
được Hội đồng thẩm định quốc gia SGK mới thông qua thì GV, HS và cha mẹ HS có
thêm một lựa chọn.
Nhưng có thể nói TV1-CNGD không chỉ có những
điều tốt đẹp. Nó đã phải chỉnh sửa rất nhiều và sẽ còn phải tiếp tục chỉnh sửa
mới có thể trở thành tài liệu dạy học có chất lượng.
6. Học chữ với TV1-CNGD là không thể tái mù. CT không bao giờ ôn
tập (lặp lại thời gian). Một lí thuyết giáo dục phải có công nghệ thực thi.
TV1-CNGD có công nghệ giáo dục. Học TV1-CNGD dù ở bất cứ đâu trên đất nước này,
chỉ một năm là đọc thông viết thạo, đúng chính tả và không thể tái mù.
Ôn tập là hoạt động quen thuộc trong dạy học.
Tuy nhiên, nếu tác giả TV1-CNGD lựa chọn cách “không bao giờ ôn tập” thì cũng
nên coi là một phương án chấp nhận được miễn là việc dạy học bảo đảm HS đạt
được yêu cầu của chương trình.
Nói “không thể tái mù” khi học TV1-CNGD thì
cần làm rõ khái niệm “tái mù” và có kiểm chứng.
Chúng tôi chỉ nhận thấy TV1-CNGD khá hiệu quả
trong việc giúp HS đọc thành tiếng và viết chính tả thể hiện qua đánh giá của
GV sử dụng tài liệu này.
Qua so sánh thì chúng tôi cũng thấy trong cùng
một thời điểm học thì số chữ trong văn bản đọc và số chữ viết chính tả của
TV1-CNGD nhiều hơn so với SGK Tiếng Việt 1 đại trà.
Sự khác biệt này cũng thể hiện qua các đề kiểm
tra học kì.
Tuy nhiên, theo những gì mà chúng tôi khảo sát
được thì thời gian và công sức mà GV và HS học TV1-CNGD phải bỏ ra rất nhiều.
Điều đáng nói hơn là do ưu tiên kĩ năng đọc
thành tiếng và viết chính tả, nên các hoạt động giúp HS phát triển kĩ năng đọc
hiểu và nói nghe không được thể hiện rõ trong tài liệu TV1-CNGD trước khi thẩm
định.
Và trên thực tế dạy học TV1-CNGD, GV cũng ít
chú ý đến các kĩ năng này.
“Mù chữ” và “tái mù” không chỉ liên quan đến
chuyện đọc thành tiếng một văn bản hay nghe người khác đọc và ghi lại được
thành chữ viết.
Vấn đề quan trọng hơn là HS có thể hiểu được
những gì đã đọc. TV1-CNGD chưa chú ý đến khía cạnh này.
7. Người lớn không được phép lấy mình làm chuẩn cho trẻ con. “Cần
phải cho trẻ em được những thành tựu mới nhất, chưa từng có, thừa hưởng và tận
dụng những thành tựu đã có”. “Người lớn không nên lấy mình là khuôn mẫu cho trẻ
con. Bố mẹ không nên lấy mình làm chuẩn cho trẻ con”. Nền giáo dục hiện đại là
nền giáo dục chưa từng có, để cho mỗi cá nhân trong xã hội trở thành chính nó,
chứ không phải là bản sao của riêng ai”.
Nhận định này nếu hiểu theo hướng “giáo dục
không cần nêu gương” thì không đúng.
Nhưng theo tôi hiểu thì GS. Đại chỉ muốn nhấn
mạnh người lớn không được áp đặt trẻ em.
Đây là một quan điểm giáo dục tiến bộ. CT GDPT
mới cũng chú trọng phát triển cá tính và nhân cách của người học.
Việc nhiều người phê phán cách dạy đánh vần
mới chỉ vì nó khác với cách đánh vần mà họ đã từng học (được gọi là “truyền
thống”, thật ra cái gọi là “truyền thống” bao gồm rất nhiều thứ, nhiều khi khác
hẳn nhau) cho thấy quan điểm áp đặt trong giáo dục của nhiều bậc cha mẹ hiện
nay.
Lĩnh vực giáo dục nói riêng và xã hội nói
chung chỉ phát triển khi sự khác biệt được tôn trọng. Các quan điểm cần được
trao đổi với tinh thần tương kính. Việc dùng những lời lẽ miệt thị khi tranh
luận dù đến từ phía nào thì cũng đều không nên được cổ vũ.
PGS Bùi Mạnh Hùng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét