Ảnh: Nhạc sĩ Văn Cao và bà Nghiêm Thúy
Băng
Bài hát “Làng tôi” - một trong số những bài hát bất hủ của
âm nhạc Việt Nam, được Văn Cao sáng tác trong một thời điểm rất đặc biệt của
tâm trạng: Hạnh phúc lứa đôi không thật sự trọn vẹn vì cuộc Kháng chiến toàn
quốc bắt đầu.
Vừa chuẩn bị đám cưới vừa di tản
Bà Nghiêm Thúy Băng là một trong những giai nhân nổi tiếng ở
Hà Nội thập niên 50-60 của thế kỉ trước. Bà là con gái của ông Nghiêm Xuân
Huyến - chủ nhà in Rạng Đông, chủ bút báo Bắc Kỳ thể thao (1939 - 1940), báo
Con Ong (1941-1942). Trong kí ức của bà Nghiêm Thúy Băng - nguyên mẫu cho nhiều
sáng tác của nhạc sĩ Văn Cao, mùa thu mà tuyệt phẩm "Làng tôi" ra đời
là một mùa thu không bao giờ quên được. Mùa thu ấy là mùa của cốm, của hồng,
của những buồng chuối trứng cuốc ửng vàng, hoa hoàng lan thơm ngát rụng đầy
dưới các gốc cây và gió thu thoang thoảng mát làm xao xuyến những trái tim
thiếu nữ.
Nét đài các, kiêu sa, phúc hậu của cô thiếu nữ Hà thành xưa
đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận trong các sáng tác của Văn Cao, không chỉ
trong âm nhạc mà còn ở văn thơ, hội họa. Suốt cuộc đời yêu và làm vợ của người
nhạc sĩ tài hoa, cho đến hôm nay, kí ức về ông gần như vẫn còn vẹn nguyên trong
tâm hồn bà. Cái tên Thúy Băng gợi nhớ sự lãng mạn, thùy mị, trong trẻo, từng
lấp lánh trên trang thơ của Văn Cao: "Giữa những ngày dằng dặc / Chỉ còn
khuôn mặt em / Sáng trong và bình lặng / Dù hai đứa chúng ta / Chưa lúc nào
sung sướng / Những ngày đau khổ ấy / Khuôn mặt em / Như mảnh trăng những đêm
rừng cháy/..." (Trích bài thơ “Khuôn mặt em”).
Người phụ nữ ấy nâng niu từng vần thơ, nốt nhạc, lời ca và
say mê kể chuyện về cuộc đời, sự nghiệp của ông bằng những yêu thương cảm động
nhất. “Năm 1947 mợ tôi quyết định sẽ hiến nhà in Rạng Đông cho Cách mạng để
chuyển lên Việt Bắc. Mợ cũng lo sửa soạn cho các con và người nhà đi tản cư.
Nhưng lễ ăn hỏi vẫn cứ tiến hành theo tục lệ thường, đủ cả bánh chưng, bánh
dầy, chè, cau để chia cho bà con trong họ”, bà Thúy Băng hồi tưởng.
Chú rể Văn Cao tất bật sửa soạn. Anh đến các nhà xuất bản
lấy nhuận bút. Anh nhờ gia đình cụ Lễ đặt cho đủ số bánh chưng, bánh dầy, mua
chè cau giúp. Lễ ăn hỏi được tổ chức ngay tại làng Cự Đà thuộc huyện Thanh Oai
(Hà Tây cũ), quê ngoại nhà gái.
"Anh sẽ làm bài hát cho ngôi làng"
Hà Nội đã nổ súng đêm 16 tháng Chạp năm 1946, Bác Hồ ra lời
kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. Người Hà Nội kéo về Cự Đà ngày một đông hơn,
trong đó có cả các cơ quan đoàn thể. Văn Cao bận nhiều việc. Gia tài anh mang
theo, ngoài mấy bộ quần áo còn có cây đàn ghi ta. Anh phải lo cho việc ra báo,
lo minh họa bài vở cho trang văn nghệ của báo Độc Lập. Các văn nghệ sĩ cũng đã
lên đường kháng chiến như: Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Huy Tưởng....
Đôi ba ngày Văn Cao cũng được đọc tin chiến sự về Hà Nội.
Quân ta đã chiến đấu rất dũng cảm ở Nhà hát Lớn, nhà Xô Va, nhà Dây Thép, chợ
Đồng Xuân...gây cho địch nhiều tổn thất. ở Cự Đà ít ngày, Thúy Băng cùng với
gia đình tản cư về Lưu Xá, huyện Chương Mỹ. Lưu Xá là một làng quê nghèo, yên
tĩnh, nằm bên một dòng sông nước trong veo, đầy ắp. Bến sông lúc nào cũng có
vài con thuyền neo đậu. Vùng này khi trước cũng là cơ sở cách mạng. Văn Cao rất
mê dòng sông này. Anh đã có vài ngày theo gia đình thuyền chài lênh đênh trên
sông. Con sông thật thơ mộng, thật êm ả đối với nghệ sĩ. Bên kia sông là ngôi
nhà thờ nhỏ xinh xắn, cứ khoảng 5h30' sáng, tiếng chuông nhà thờ lại thánh thót
vang lên. Bên dòng sông hiền hòa, bóng thuyền chài và các giáo dân, nam cũng
như nữ, áo dài đen hay áo nâu, vẻ mặt bình thản, nối nhau xuống thuyền qua sông
cho kịp buổi lễ sớm.
"Anh Trần Huy Liệu là Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền khi đó
chọn một góc cách nhà thờ một cây số để làm việc, đó là nơi yên tĩnh nhất. Văn
Cao cũng theo anh vào đó làm việc. Cha xứ trông coi nhà thờ là người Italia
nhưng thạo tiếng Việt và có tên Việt Nam, người ta hay gọi là cha Minh. Văn
Cao, Trần Huy Liệu nói chuyện với cha Minh khi bằng tiếng Việt khi bằng tiếng
Pháp. Nhưng để tránh những con mắt tò mò, có khi các anh cũng ăn mặc theo kiểu
giáo dân", bà Thúy Băng kể.
Nhưng ở đây ít lâu, thôn xóm cũng nhuốm màu không khí chiến
tranh. Người dân cũng nhộn nhịp lo xây làng kháng chiến. Người ta đào hào, đắp
lũy, đào hầm bí mật, thanh niên trai tráng vào đội tự vệ, vào du kích tập tành
khuya sớm. Tết năm 1947, bên chiếc đài bán dẫn, Văn Cao nghe Bác Hồ đọc bài thơ
chúc Tết: "Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió / Tiếng kèn kháng chiến vang
dậy non sông...". Văn Cao suy nghĩ về thơ chúc Tết của Bác và cảm xúc cứ
từ từ dâng lên trong anh: “Anh sẽ làm một bài hát gì đó cho ngôi làng thơ mộng,
bình dị này”, ông nói với bà Thúy Băng, vợ sắp cưới lúc bấy giờ.
“Có gian nan đến đâu cũng không bỏ sáng tác”
Lễ cưới Văn Cao - Thúy Băng được tổ chức đơn giản tại thôn
Lưu Xáỏ. Trước hôm anh Trần Huy Liệu rời lên Việt Bắc theo sự điều động của
Trung ương, anh nói với Văn Cao: "Tôi đi, anh chuyển sang nhà tôi mà ở cho
tiện việc sáng tác". Rồi anh Liệu cười vui hóm hỉnh: "Nhưng cậu phải
nhớ vui duyên mới không được quên nhiệm vụ đấy". Văn Cao cũng cười:
"Vâng, tôi vẫn nhớ anh ạ". Anh Liệu không biết, sau ngày cưới, Văn
Cao đã cùng vợ giao ước: "Dù kháng chiến có gian nan đến đâu, Văn Cao vẫn
phải phấn đấu cho sức khỏe để làm việc, không bỏ sáng tác". Thúy Băng cũng
tạm biệt cuộc sống phồn hoa, nhung lụa để làm vợ một người nghệ sĩ cách mạng.
Cô tự hứa sẽ chăm sóc anh để anh có thời gian sáng tác. Cuộc kháng chiến sẽ còn
gian khổ nhiều mà sức khỏe của anh lại yếu. Thúy Băng cũng dần dần quen với
cuộc sống thôn quê. Cô mua những vuông lụa đen Hà Đông về may quần, cắt những
chiếc áo dài, lòa xòa, tha thướt thành áo ngắn.
Khi Trung đoàn Thủ đô đã rút khỏi Hà Nội, giặc Pháp bắt đầu
đánh ra vùng ngoại thành. Chúng đi đến các làng quê càn quét, đốt phá. Ngay cả
nhà thờ là nơi thiêng liêng nhất, chúng cũng không từ.
Vào ngồi ở một góc tĩnh nhất của nhà thờ, Văn Cao thả hồn
cho cảm hứng cứ mỗi lúc một dâng lên yêu thương, chan chứa và những giai điệu
đầu tiên của bài “Làng tôi” đã đến với anh: “Làng tôi xanh bóng tre, từng tiếng
chuông ban chiều, tiếng chuông nhà thờ rung...”. Bài hát vừa làm xong, Văn Cao
vui vẻ nói với vợ: “Anh đã làm xong bài hát hôm nào anh đã nói với em rồi đó,
để anh đàn và hát cho em nghe nhé”.
Trong căn phòng ấm cúng, những âm thanh, những lời ca tuyệt
vời ấy theo tiếng đàn cứ vang lên. Thúy Băng cảm thấy ngập tràn hạnh phúc. Cô
là người đầu tiên được thưởng thức bài ca ấy. Cô tựa đầu vào vai chồng, nắm
chặt bàn tay anh, âu yếm: “Bài "Làng tôi" hay quá, anh ạ, chắc dân
làng thích lắm”.
Dân làng từ các ông bà già đến lớp thanh niên hết thảy đều
tự hào vì ca khúc “Làng tôi” được ra đời từ mảnh đất Lưu Xá nghèo khó này. Sau
đó, ca khúc này được in trên báo Độc Lập, không lâu sau trở thành bài ca của
mọi làng quê. Văn Cao cũng không ngờ “Làng tôi” trở thành bất tử.
(Theo lời kể của bà Nghiêm Thúy Băng - Báo Đời sống và Pháp
luật)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét