Nguyễn Trung
Trong thư ngỏ ngày 08-06-2016 gửi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và toàn thể Bộ Chính trị, tôi đã trình bầy các lý lẽ nên hoãn, tốt nhất là nên hủy bỏ dự án về 3 đặc khu
kinh tế. Tham
gia tọa đàm của CODE
hôm nay với chủ đề “xây dựng luận cứ khoa học cho dự án ba đặc khu
kinh tế”, tôi xin
trình bầy thêm một số ý kiến bổ sung
sau đây.
BỐI CẢNH KHU VỰC:
Trong khu vực châu Á nói chung
và Đông Nam Á nói riêng, đặc khu
kinh tế theo
như mô hình nêu trong
dự án đã trình Quốc hội ngày nay đã trở nên lỗi thời.
Trong quá trình làm dự án 3 ĐKKT của ta, đặc khu
Thâm Quyến được ca ngợi (đúng và sai) hết lời, và được coi
như hình mẫu chủ yếu để biện minh
cho lý lẽ ra đời 3 ĐKKT của VN.
Song trong quá trình lập luận, nhiều chi
tiết rất quan
trọng đã bị bỏ qua.
Trước hết, đặc khu
Thâm Quyến ra đời năm 1980,
lúc đó TQ mới có 2 năm cải cách kinh
tế (bắt đầu năm 1978)
nên có rất nhiều bỡ ngỡ và khó khăn ban đầu. Hơn nữa, Thâm Quyến có khu tô nhượng
Hongkong rất phát triển ngay
sát nách làm chỗ dựa. Trên thực tế những thập kỷ ban đầu Thâm Quyến là một khu
kinh tế chủ yếu phục vục (hay
khai thác) nền kinh
tế
Hongkong để tồn tại và phát triển. Thực tế này hôm nay về cơ bản vẫn như vậy. Nói cách khác, không có
Hongkong ngay sát nách, Thâm Quyến chắc chắn không tồn tại được. Dẫn chứng cụ thể là đồng thời ra đời với Thâm
Quyến còn 3 đặc khu nữa được xây dựng tại các vùng khác nhau
của TQ,
song cả 3 đặc khu này đều chết yểu - vì TQ chỉ có 1
Hongkong!
Trong vòng 3 - 4 thập kỷ nay, tôi chưa tìm thấy ở đâu trên thế giới một đặc khu
kinh tế nào thành công theo
kiểu Thâm Quyến, ở châu Á càng không, kể cả ở Châu Mỹ
Latinh. Thậm chí phần lớn những ĐKKT đã ra đời trong
những thập kỉ trước đây hoặc đã thất bại, hoặc ngày nay đều phải biến dạng thành những cái gì khác, hoặc không còn tồn tại nữa. Đơn gỉản vì mô hình ĐKKT đã hoàn toàn
lỗi thời.
Trong khi đó tại một số nước phát triển thường có một số đặc khu hay tiểu vùng có những phát triển đặc thù cho những sản phẩm riêng rất đặc thù của nó. Ví dụ, đấy là những thành phố, vùng, hay
khu vực của công nghiệp nhẹ, của công nghiệp nặng, sản phẩm dệt, sản phẩm công nghiệp hóa chất, sản phẩm công nghiệp tin học, sản phẩm thực phẩm hay đồ uống cao cấp, đặc khu dịch vụ tài chính,
v.v. hoặc rất độc đáo như là cái nôi của phát triển công nghệ mới như thung lũng
Silicon Valley - Hoa Kỳ… Song tất cả những nơi này, rất phát triển, rất đặc thù, dựa trên sự phát triển chung của quốc gia của chúng, và không mảy may có bất kỳ cái gì liên quan đến những vấn đề như chúng ta đang bàn về 3 đặc khu kinh tế như đang định xây dựng ở nước ta!
Trong
thập kỉ 2010s TQ đã xây dựng xong đặc khu kinh tế Sihanouk Ville, đặc khu kinh tế Botèn - Lào. Xin
mời lên mạng, tốt hơn nữa xin mời đến khảo sát thực địa, để tận mắt hiểu biết thực trạng và rút ra
cho nước ta những kết luận mất / còn vô cùng cần thiết phải rút ra.
TQ đang muốn xây nhiều đặc khu như thế ở Myanmar, ở Nepal, ở Bhutan, ở Sri Lan Ka…, song đang bị nhân dân các nước này phản đối quyết liệt. Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nói dự án 3 ĐKKT của chúng ta
không có một chữ nào nói đến TQ không thuyết phục được nhân dân ta.
Sự phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0 chẳng những mang lại công nghệ mới trong sản xuất, trong liên kết và kinh
doanh…, xây dựng nên những mạng dịch vụ chưa từng có, tạo ra những kết cấu, cấu trúc mới của các loại chuỗi cung / ứng / dịch vụ, những công cụ và phương thức mới trong huy động - phân bổ các nguồn lực, vòng đời của sản phẩm thời CMCN 4.0 ngày càng ngắn và càng sớm bị thay thế, vân vân… Có thể kết luận: CMCN 4.0 loại bỏ gần như hoàn toàn mô hình các đặc khu kinh tế như nước ta đang thiết kế và dự định hình thành.
Trước chính quyền Mĩ, giới quốc phòng và nghiên cứu Mĩ chính thức nhận định TQ
trên thực tế (de
facto) đã chiếm và quân sự hóa xong
Biển Đông, những hoạt động quân sự của TQ trên Biển Đông ngày càng gia
tăng về tần suất, cường độ và tính nguy
hiểm, trực tiếp uy hiếp các nước chung
quanh và khu vực.., thực tế này chỉ có thể giải quyết được bằng chiến
tranh. Đạo luật ngân sách quốc phòng Mĩ năm 2018
(NDAA, 716 tỉ USD)
bao gồm cả những vấn đề phải xử lý liên quan đến việc TQ chiếm đóng trái phép Biển Đông. Đáp lại Tập Cận Bình tuyên bố TQ quyết bảo vệ từng tấc đất tổ tiên để lại - mặc dù theo lịch sử TQ và theo
UNCLOS 1982, cũng như theo
phán quyết
12-07-2016 của Tòa Trọng tài Quốc tế, tất cả đều xác định rõ ràng TQ
không có lãnh thổ và lãnh hải là Biển Đông. Hành xử của TQ đang đặt ra những thách thức rất nghiêm trọng cho
toàn khu vực cũng như đối với chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ, an
ninh và quốc phòng của nước ta. Bối cảnh này của khu vực không cho
phép 3 ĐKKT như đang dự định được tồn tại ở nước ta, dù chỉ một ngày.
ĐÒI HỎI CỦA NƯỚC TA HÔM NAY
Các số liệu thống kê của các cơ quan
Liên Hiệp Quốc
(UNIDO, UNCTAD, UNDP…) và các thể chế WB,
IMF, ADB… cho thấy trong
khoảng 30 năm công nghiệp hóa hiện đại hóa (1986
- 2018) khối lượng của cải huy động cho
sự nghiệp này
(input) của Việt Nam tính theo
đầu người vượt quá gấp đôi input
này của Hàn Quốc trong
thời kỳ CNH-HĐH 1960
- 1988. Song sự nghiệp CHN -
HĐH của Việt Nam
thất bại, hiện nay vẫn chỉ là một nước có công nghiệp gia công là
chủ yếu.
Trong khí đó Hàn Quốc thành công, và hôm nay
phát triển lên là thành viên của nhóm G20.
Hiện nay
VN xếp hạng rất cao
trong nhóm nước đứng đầu thế giới về thu hút FDI và ODA tính theo
đầu người. Tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu của VN vượt 200
GDP của VN,
nghĩa là độ mở trong
kinh tế đối ngoại của VN cũng rất cao và thuộc top của thế giới. Hệ thống luật pháp liên quan đến kinh
tế đối ngoại và thu hút FDI của VN có thể nói là hoàn chỉnh và có khả năng cạnh
tranh rất cao
trong khu vực cũng như so với nhiều vùng khác trên thế giới. Nguồn lực trong
nước rất lớn và đã được huy động ở mức độ cao. Đồng thời nguồn lực đất đai tài nguyên, khoáng sản, môi trường… rất to lớn của đất nước đã được huy động đến mức cạn kiệt. Hiện nay
VN đã có 124 khu công nghiệp và
khoảng 20
khu kinh tế các loại khác đi vào hoạt động từ 2 thập kỷ nay,
song trung bình mới chỉ lấp đầy được khoảng 50%
diện tích mỗi khu.
Hiện vẫn còn gần 100
KCN dở dang từ hàng chục năm nay.
Trong khoảng 2 thập kỷ nay VN
còn thu được khoảng trên dưới 200 tỷ USD kiều hối các nguồn… Song
toàn bộ những nguồn lực mọi dạng rất to lớn này không làm nên được một nước Việt Nam công nghiệp, vẫn chỉ tạo ra một nước có thu nhập trung
bình thấp, có năng suất lao động chỉ cao hớn Lào,
Campuchia và Myanmar một chút, kết cấu hạ tâng thiếu thốn, công nghệ của toàn bộ nền kinh
tế lạc hậu, chủ yếu thuộc thế hệ 4 và 3 (nghĩa là trong
khi thế giới đã bước vào CMCN
4.0, nước ta vẫn đang ở trình độ “công nghệ 4 không chấm”).
Nguyên nhân của tình trạng nêu trên không phải là VN thiếu sức kéo hay lực đẩy từ bên ngoài, nếu như không muốn nói trong
3 thập kỷ vừa qua
VN đã huy động một nguồn lực cực kỳ lớn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, ít quốc gia đang phát triển nào ở thời kỳ khởi nghiệp trên thế giới hôm nay dám mơ tới. Chiến lược hoàn thành CNH
- HĐH của nước ta vào năm 2020
coi như thất bại.
Nguyên nhân gốc của thất bại nêu trên là trong
suốt 3 thập kỷ CNH -
HĐH vừa qua
Việt Nam
không đặt ra và vì thế đã thất bại trong
việc xây dựng một thể chế chính trị và một hệ thống quản lý quốc gia để vận hành đất nước mà sự nghiệp CNH-HĐH đất nước đòi hỏi. Hệ quả là nguồn lực to lớn trong
tay bị lãng phí, hủy hoại. Đồng thời tệ nạn tham
nhũng tiêu cực đã triệt tiêu nội lực, bóp nghẹt khả năng tích tụ và phát huy nội lực. Ngày hôm nay động lực phát triển kinh
tế của VN chủ yếu vẫn phải nhờ vào FDI
cho kinh tế gia công và xuất khẩu.
Trong hiện trạng của đất nước như đã trình bầy trên, không có một lực kéo nào từ bên ngoài - dù là 3 hay
30 ĐKKT như đang dự định - có thể xoay
chuyển được xu thế phát
triển hiện nay của VN.
Thậm chí phải nói,
trong tình hình nội trạng đất nước như hiện nay,
càng thêm lực kéo từ bên ngoài, kinh
tế đất nước càng phải dựa vào lực bên ngoài mà sống, mà phát triển; mọi hệ quả lệ thuộc và phụ thuộc sẽ còn trầm trọng hơn hiện nay,
quyền lực mềm TQ càng có đất màu mỡ để trở thành rừng rú!
Đòi hỏi chiến lược của VN hôm nay
không phải là tăng thêm lực kéo từ bên ngoài như dự án 3 ĐKKT đang hướng tới, chưa nói đến 3 ĐKKT như đang thiết kế trong
tình hình thực tế của quốc gia và
của khu vực hiện nay còn chứa chấp những mối nguy
khó lường vượt ra
ngoài khả năng kiểm soát rất yếu kém hiện nay của đất nước, và do đó không được phép tồn tại trên nước ta, dù là một ngày!
Đòi hỏi chiến lược của Việt Nam hôm nay,
nhất là trong
tình hình nóng bỏng hiến nay của khu vực và trên thế giới, là phải mau
chóng khắc phục nguyên nhân gốc nói trên, để giải phóng và phát huy nội lực./.
Hà Nội,
17-08-2018
N.T.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét