Nhóm
Bà Đầm Xòe.
( Ảnh:
Ông Hồ Ký sắc lệnh )
Có thể còn nhiều Sắc lệnh nữa, nhưng chỉ cần biết đến “Sắc Lệnh
số 158 –SL ngày 17 tháng 11 năm 1950”, cũng đủ để nhận ra, chính quyền cách
mạng năm 1945 do nhiều lực lượng yêu nước tiến hành, dưới tay “Cha già dân tộc”
chuyển hóa mạnh mẽ và dứt khoát thành chính quyền thổ phí bắt đầu từ năm 1950.
Nội dung của Sắc Lệnh này quy định rất rõ ràng, đó là đề bạt bổ nhiệm những
“cán bộ cộng nông”, thực chất là bần cố nông, những người đọc chưa thông viết
chưa thạo, chuyên nghề bám đít trâu đen, chỉ có mơ ước duy nhất là lo cho đầy
cái bụng, trở thành Thẩm phán, người cầm cân nảy mực cho công lý của chế độ:
“Điều 1: Những cán bộ công nông có thành tích kinh nghiệm có thể
được bổ vào một ngạch thẩm phán thích đáng theo đề nghị của một Hội đồng tuyển
trách.
Điều 2: Các thẩm phán toà án nhân dân huyện nếu có năng lực và
tinh thần phục vụ có thể được thăng bổ lên ngạch thẩm phán toà án nhân dân
tỉnh, theo đề nghị của Hội đồng tuyển trách”.
Sau sắc lệnh này liền diễn ra phong trào Chỉnh huấn năm 1951.
Đây là cú dằn mặt đầu tiên những cán bộ trong bộ máy xuất thân từ thành phần
trí thức tiểu tư sản, khởi dậy tinh thần căm thù giai cấp bóc lột, đấu tranh
giữa hai con đường với thành phần trí thức tiểu tư sản, đề cao vai trò nòng cốt
của những người vô học, lưu manh, bợm bãi, được Mác Lenin gọi là giai cấp công
nông.
Trong hai năm học tập, chính quyền của ông Hồ Chí Minh đã đặt
được lưỡi hái thần chết vào tay giai cấp công nông này.
Tiếp theo, năm 1953, ông Hồ Chí Minh chính thức tháo chuồng,
tháo khoán cho những lưỡi hái thần chết công nông này đi vào đời sống xã hội
bằng chủ trương Cải cách ruộng đất. Trong sáu năm (1953 – 1958) lưỡi hái thần
chết của ông Hồ Chí Minh đã lẹ làng, gọn gàng bắt, tống tù, đấu tố oan sai gần
một triệu người, tương đương 5% dân số, phay ít nhất 172 ngàn người ( Theo tài
liệu công khai Đảng cộng sản Việt Nam). Người bị oan sai bị phay là ai? Họ là
những nhân sĩ trí thức, những nhà báo, nhà văn, những người nổi tiếng có uy tín
trong xã hội, những ngươi giầu có yêu nước, những người trung lương, những
người là đồng chí, cộng sự kề vai chiến đấu với Người và những người có công
với cách mạng nữa. Gọn lại, đó là những tinh hoa trên các mặt đời sống xã hội
của người Việt Nam đã bị lưỡi hái thần chết của Người “phay tận gốc, trốc tận
rễ”.
Có đủ mọi kiểu giết người tàn bạo không ghê tay gớm máu, vì nhân
danh cách mạng, nhân danh công lý là những thẩm phán miệng răng đen, tay cầm mã
tấu: “Mấy cụ kể : Bọn tôi ớn nhất loại thẩm phán “răng đen” này, nó mà rút cái
dấu củ khoai trong tay nải ra là một mạng người đi đứt – Theo Ngô Nhật Đăng”.
Thổ phỉ đến như thế, nhưng ông Hồ Chí Minh vẫn vừa lau nước vừa hoan hỉ nói
trong đại hội đảng năm 1960: “Đây là cuộc cạch mạng chí nhân, chí tình, chí
nghĩa”. Trời đất ơi, tôi nghe câu ông nói mà rờn rợn như có bó nứa sắc bình
thản vuốt từ sống lưng lên đỉnh đầu tôi.
Ông Hồ Chí Minh cố ý giết nhiều người cốt làm cho dân chúng sợ
hải và mục đích là để cho ông và chính quyền của ông dễ bề cai trị dân chúng về
sau.
Sau cải cách, chính quyền thổ phỉ của ông Hồ Chí Minh đã quá lộ
mặt. Nhưng không vì đã lộ mà chính quyền thổ phỉ của ông sám hối, dừng lại mà
con đường thổ phỉ của chính quyền tiếp tục tiến lên bằng cách:
– Xóa bỏ Bộ Tư Pháp và nhất quyết không cho mở trường luật. Tiến
sĩ, giáo sư luật nổi tiếng như ông Nguyễn Mạnh Tường cũng tự phải biến mình
thành thứ rẻ rách đồ chơi trong chính quyền thổ phỉ này. Giáo sư triết học Trần
Đức Thảo thì biến thành con gà què, quẩn quanh trong chuồng của chính quyền,
đến cục tác một tiếng cũng không dám. Thân bại, danh liệt ngơ ngẩn cả một đời.
– Cướp đất của dân, dồn dân vào chuồng trại có tên là nhà nước
Hợp tác xã để dễ bề cướp của và bắt người phục vụ cho kế lược của quan thày là
Trung Cộng và Liên Xô trường kỳ đánh nhau với Mỹ và Việt Nam Cộng hòa trong 20
năm với một quyết tâm, “năm năm, mười năm, hai mươi năm hoăc lâu hơn nữa chúng
ta cũng đánh và đánh cho đất nước đến “không còn gì quý hơn”… cũng đánh.
Theo nền tảng chính quyền thổ phỉ do ông Hồ Chí Minh tạo dựng
lên từ buổi ban đầu, đến nay, Việt Nam sửa chữa bằng cách soạn ra cả một rừng
luật. Nhưng đám quan nha, con ông cháu cụ, có bản tính, “ăn không từ một thứ gì
của dân” lại là kẻ “cần cân nảy mực” công lý chỉ xử theo luật rừng, luật ngày
xưa của ông Cụ.
Ngay trong thời đại thông tin đã tràn ngập đến từng nhà vệ sinh
của mỗi gia đình và đám con ông cháu cha của chính quyền thổ phỉ hiện tại luôn
cố gắng hội nhập với văn minh của thế giới, nhưng vẫn cứ thích sài luật rừng
thổ phỉ, rằng: “Luật sư phải có nghĩa vụ tố cáo tội phạm của thân chủ – Chủ
tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Thị Kim Ngân” và vẫn bắt, tống tù, thủ tiêu những
người phản biện bằng các điều luật 88, 258 và các quy định rất mù mờ khác.
Trong tiểu thuyết bi hài “Cò hồn Xã nghĩa” của nhà văn Phạm
Thành có đoạn:
“Cũng là vì bọn vua quan, tướng lĩnh, cha truyền con nối, lục lâm,
thảo khấu có tới một ngàn năm cầm quyền mà đất nước thời nào cũng vô luật. Vô
luật, thực ra cũng là một thứ luật. Đó là thứ luật của quyền lực. Quyền lực là
luật. Luật là quyền lực. Chính thể nào cũng chỉ có một thứ luật như vậy. Mục
đích là để chúng sử dụng quyền lực được tự do. Quyền lực được dễ dàng lên
nhanh, xuống nhanh như cái công cụ tình dục của giống đực; được dễ dàng rộng
hẹp, nông sâu như cái công cụ tình dục của giống cái; được dễ dàng bắt người,
giết người, đày dọa hãm hại người như trò chơi tung hứng hay trò cá cược đỏ đen
xóc đĩa”.
Mời đọc thêm (theo fb Ngô
Nhật Đăng):
“SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ SỐ 158-SL NGÀY 17 THÁNG 11 NĂM 1950
CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Chiểu Sắc lệnh số 13-SL ngày 24 tháng 1 năm 1946 và các sắc lệnh
tiếp theo tổ chức các toà án và ngạch thẩm phán;
Chiểu Sắc lệnh số 76-SL ngày 20 tháng 5 năm 1950 ban hành quy
chế công chức Việt Nam;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Bộ trưởng Bộ Nội vụ;
Theo quyết nghị của Hội đồng Chính phủ, sau khi Ban thường trực
Quốc hội thoả thuận;
RA SẮC LỆNH:
Điều 1: Những cán bộ công nông có thành tích kinh nghiệm có thể
được bổ vào một ngạch thẩm phán thích đáng theo đề nghị của một Hội đồng tuyển
trách.
Điều 2: Các thẩm phán toà án nhân dân huyện nếu có năng lực và
tinh thần phục vụ có thể được thăng bổ lên ngạch thẩm phán toà án nhân dân
tỉnh, theo đề nghị của Hội đồng tuyển trách.
Điều 3: Hội đồng tuyển trách nói ở điều 1 gồm có:
Điều 3: Hội đồng tuyển trách nói ở điều 1 gồm có:
– Bộ trưởng Bộ Tư pháp hay người đại diện: Chủ tịch.
– Một đại biểu Bộ Nội vụ Hội viên.
– Một thẩm phán do Bộ trưởng Bộ Tư pháp chỉ đinh Hội viên.
– Hai đại biểu do các đoàn thể công nông đề cử Hội viên.
Điều 4: Một nghị định Bộ Tư pháp sẽ ấn định chi tiết thi hành
sắc lệnh này.
Điều 5: Những điều khoản trái với sắc lệnh này đều bãi bỏ.
Điều 6: Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Bộ trưởng Bộ Nội vụ chiểu sắc
lệnh thi hành.
Hồ Chí Minh đã ký.”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét