Tư tưởng lập hiến ở Việt Nam
trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
PGS.TS.
Thái Vĩnh Thắng
Đại học Luật Hà
Nội
Lịch sử lập hiến Việt Nam bắt đầu từ năm 1946 khi bản Hiến pháp đầu
tiên được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa thông qua. Tuy nhiên, tư tưởng
lập hiến đã xuất hiện ở Việt Nam trước đó khoảng gần một thế kỷ, sau khi bản
Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776, Hiến pháp nước Mỹ năm 1787 và Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền nước Pháp năm 1789 ra đời, đặc biệt vào những năm
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khi những luồng gió mới của chính sách Duy tân của
Minh Trị Thiên hoàng ở Nhật Bản và Cách mạng Trung Hoa năm 1911 thổi vào Việt
Nam. Tư tưởng lập hiến Việt Nam đã xuất hiện trong giới trí thức Việt Nam mà
tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Bùi Quang Chiêu,
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường,
đặc biệt là tư tưởng lập hiến của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc.
1.
Tư tưởng cải cách nhà nước của Nguyễn Trường Tộ (1830-1871)
Tư tưởng lập hiến xuất phát từ tư tưởng xây dựng nhà nước mà quyền
lực của nó phải xuất phát từ nhân dân và quyền lực của người đứng đầu nhà nước
(Vua, Tổng thống) phải bị hạn chế. Tư tưởng xây dựng một nhà nước như vậy xuất
hiện đầu tiên ở Việt Nam là tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ vào những năm 60 của
thế kỷ XIX. Trong các tác phẩm: Thiên hạ phân hợp đại thế luận, Dũ tài tế cấp
luận, Giáo môn luận, Tế cấp bát điều, Nguyễn Trường Tộ đã đề nghị hàng loạt cải
cách về kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá, xã hội. Về cải cách nhà nước,
Nguyễn Trường Tộ đưa ra ba nguyên lý cơ bản là: Quốc dân nhất thể, Thượng
hạ tình thông và Quân chủ thần quyền:
– Theo Nguyễn Trường Tộ, quốc dân nhất thể là nhà
nước với nhân dân đồng một khối thống nhất, không mâu thuẫn, không đấu tranh,
xem như một cơ thể, một thân người. Nguyễn Trường Tộ viết: “Lấy bề ngoài mà xét
thì quốc và dân vốn phân biệt, nhưng theo cái lý tự nhiên tương sinh mà xét thì
nó hình thành cho nhau, kết hợp nhau khăng khít không phải như bầu bạn muốn hợp,
muốn ly, muốn dựa vào nhau hay không đều do mình tự quyết định. Một nước như một
cơ thể, một bộ phận cơ thể bị đau thì cả cơ thể vì đó mà bất an; quốc gia với
nhân dân, tất thảy đều như huyết mạch trong thân thể con người. Nếu có sự ủng
trệ, không lưu thông thì tất nhiên sinh ra bệnh tật”.
– Thượng hạ tình thông là mối quan hệ giữa quốc
và dân, ấy là cơ sở của mọi chính sách lớn. Nguyễn Trường Tộ giải thích: “Trị
nước phải cho cái tình được thông. Tình là cái sẵn có của dân. Trên dưới tình
thông, không có cái gì vượt qua được điều ấy trong những chính sách lớn của quốc
gia”. Căn cứ vào nguyên lý “Thượng hạ tình thông”, Nguyễn Trường Tộ đã phê phán
chính trị lúc bấy giờ là: người trên thì rất xa với kẻ dưới mà kẻ dưới thì kiếm
cách lừa dối, che giấu người trên; quyền lệnh của nhà nước thì giảm sút mà gian
ngụy của dân ngày càng nảy nở; bởi vậy cho nên trên dưới khác lòng, tình không
thông mà tắc, bên nào cũng muốn chiếm phần hơn cho mình cho nên nhà nước yếu đuối.
Nguyễn Trường Tộ phê phán cái thực trạng “kẻ mạnh, kẻ yếu nuốt nhau, ăn ở với
nhau như cái mâu, cái thuẫn, nhiều kẻ cho rằng nước mặc nước, ta mặc ta, thờ ơ”1.
Theo ông, mặc dù pháp luật là chỗ dường như chỉ nhận có chữ lý mà bài trừ chữ
tình thì ở đó chữ tình vẫn bị chi phối: “Pháp luật nghiêm thì hình như là vô
tình mà kỳ thực là hữu tình tột mực. Khổng Minh nói rằng trị đời thì lấy đại đức
mà không lấy tiểu huệ là ý đó vậy”2. Nguyễn Trường Tộ đã hoàn toàn
đúng khi ông nhận xét rằng: “Ở các nước phương Tây lập pháp rất chặt chẽ, vì chặt
chẽ mà trở thành khoan dung, ai nấy đều ở trong vòng pháp luật, không thể lừa dối
nhau được, cho nên không sinh lừa dối mà cũng không nghĩ đến lừa dối, thấy dễ
chịu, thấy pháp luật khoan dung. Ở phương Tây chưa từng nghe nói tha tô, miễn
thuế mà dân với nước vẫn có tình thân hơn nước ta rất nhiều”3. Nguyễn
Trường Tộ là một trong rất ít những người Việt Nam lúc bấy giờ hiểu được nền
pháp trị của tư sản cao hơn cái gọi là “đức trị” hay “nhân trị” của phong kiến
phương Đông.
– Quân chủ thần quyền theo Nguyễn Trường Tộ không
phải là chế độ quân chủ chuyên chế mà là xây dựng một nền quân chủ lập hiến,
quyền lực cả nước phải ở trong tay Vua, nhưng Vua phải đặt mình trong pháp luật,
không nên vượt ra ngoài. Quyền hạn to thì trách nhiệm nặng, quyền lực là phương
tiện mà phúc lợi nhân dân là mục đích. Theo ông, “một nước cũng như một nhà, đối
với cha mẹ, cái quan trọng nhất là bầy con thì đối với triều đình cái quan trọng
nhất là dân chúng. Cái cong, cái thẳng đều công bố trước thiên hạ; mọi việc đặt
xuống, cất lên đều lệ thuộc vào sự bình nghị của dân chúng”4. Tư
tưởng chính trị của Nguyễn Trường Tộ là xây dựng một chế độ quân chủ nghị viện
hay nói một cách khác là nền quân chủ lập hiến.
2.
Tư tưởng xây dựng chế độ quân chủ lập hiến của Phạm Quỳnh
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX một cuộc bút chiến đã xảy ra giữa
Phạm Quỳnh (lúc đó là Chủ bút Tạp chí Nam Phong) và Nguyễn Văn Vĩnh về vấn đề
trực trị hay quân chủ lập hiến. Nguyễn Văn Vĩnh chủ trương bãi bỏ chế độ vua
quan ở miền Bắc, miền Trung và đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của Chính phủ
Pháp. Còn Phạm Quỳnh cho rằng, có thể cải tạo chế độ vua quan cũ bằng việc xây
dựng một chế độ quân chủ lập hiến, theo mô hình của Anh và Nhật5.
Theo Phạm Quỳnh, có thể xây dựng một bản Hiến pháp theo đó có thể
vừa đảm bảo quyền dân chủ cho nhân dân Việt Nam, quyền cai trị của Hoàng đế Việt
Nam và quyền bảo hộ của Chính phủ Pháp. Hiến pháp này được nhiều người gọi là
Hiến pháp chân vạc. Tư tưởng xây dựng chế độ quân chủ lập hiến được Phạm Quỳnh
lý giải trên Tạp chí Nam Phong do ông làm chủ bút:
“Quân chủ lập hiến là quốc vương đem một phần chính quyền của mình
mà nhường cho một hội nghị thay mặt dân. Nhưng muốn nhường quyền thì trước hết
phải có quyền đã, rồi phải biết nhường quyền ấy cho ai”6. “Theo
về lối quân chủ lập hiến nghĩa là bản Hiến pháp cho dân cùng được tham dự một
phần vào việc nước bằng một hội nghị bầu cử, quyền hạn rộng hẹp thế nào sẽ tuỳ
theo trình độ dân mà định”7.
Theo Phạm Quỳnh, lý do ông chọn mô hình quân chủ lập hiến là do
tính chất ưu việt của hình thức chính thể này. Phạm Quỳnh đã tranh luận quyết
liệt vấn đề này với các nhà tư tưởng lập hiến khác như Phan Chu Trinh và Nguyễn
Văn Vĩnh tại Paris năm 1922 nhân dịp phái đoàn Nam triều sang Pháp dự triển
lãm:
“Có lẽ ở đây tôi đã thấy có rất nhiều lập trường tranh đấu chống lại
chủ thuyết mà tôi vẫn hoài bão: quân chủ lập hiến. Nói đến nền quân chủ thì phần
đông tỏ vẻ lo sợ chế độ chuyên chế. Nhưng xin nhìn hai nước Anh và Nhật. Với nền
quân chủ, họ đã văn minh tột sức và dân chủ hơn các nền dân chủ cộng hoà khác
nhiều lắm; họ có thể đứng vào đàn anh trên toàn cầu. Vậy tôi chủ trương quân chủ
lập hiến, trong đó vua chẳng còn quyền hành gì trong tay mà chuyên chế được.
Vua chỉ là người đứng lên thừa hành bản Hiến pháp mà chính những người đại diện
nhân dân toàn quốc được triệu tập dự thảo và quyết định. Như thế, chúng ta có một
chế độ trường cửu do ý dân tự tạo cho mình. Chớ như chế độ cộng hoà hay dân chủ
thì sợ mỗi lần sau bốn năm có thay đổi Tổng thống thì phải thay đổi tất cả làm
cho guồng máy hành chính trong nước phải bị xáo trộn trầm trọng”8.
Trong bài báo: “Vấn đề lập hiến cho nước Nam”9 đăng
trong Tạp chí Nam Phong, Phạm Quỳnh đã trình bày những ý tưởng cơ bản của mình
về chế độ quân chủ lập hiến: “Đặt ra cho Chính phủ quân chủ, giao cho
quan trường cai trị, chúng tôi cũng bằng lòng. Nhưng quan trường như quan trường
hiện nay, triều đình như triều đình bây giờ thì chúng tôi xin chịu, chẳng qua
là cái lợi khí bất lương trong tay Chính phủ Pháp cả. Vậy xin sửa đổi quan trường
lại, sửa đổi triều đình lại, làm cái cơ quan cốt yếu của một Chính phủ Việt Nam
chân chính, có Hiến pháp hẳn hoi, định quyền hạn rõ ràng của vua, của dân, của
bảo hộ, nếu được như thế thì chúng tôi xin biểu đồng tình ngay”10.
Lập luận cho tính cấp bách của việc ban hành Hiến pháp, Phạm Quỳnh
viết: “Cần phải lập ra một cái Hiến pháp khiến cho có thể đặt được một
Chính phủ Việt Nam chân chính, hành động ở dưới quyền kiểm soát của bảo hộ. Như
thế thì quyền quân chủ nước Nam sau này không thể là quân chủ chuyên chế được nữa;
phải là quân chủ lập hiến vậy”11… Việc nội trị của nước
Nam vẫn phải ở trong tay người An Nam, bảo hộ chỉ có cái chức trách khuyên bảo,
cái chức trách kiểm soát mà thôi. Quốc vương An Nam vẫn giữ quyền nội trị trong
nước như xưa. Khi Chính phủ Việt Nam với Chính phủ bảo hộ có điều xung đột, thời
việc phân tranh sẽ đem điều đình tại Paris bằng phương pháp ngoại giao và ở
Paris sẽ đặt một phái bộ An Nam thường trực để thay mặt cho Chính phủ Việt Nam ở
trước Chính phủ Pháp”12.
Mặc dù có tinh thần yêu nước, nhưng tư tưởng lập hiến của Phạm Quỳnh
khó có thể thực hiện được vì đất nước còn bị đô hộ và phụ thuộc nước ngoài,
không có độc lập, tự do thì không thể có Hiến pháp thực sự được.
3.
Tư tưởng lập hiến của Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Trực và Đảng lập hiến ở Nam Kỳ
Theo GS. Trần Văn Giàu, sau chiến tranh thế giới thứ nhất, cũng
như trước đó, báo chí ở Nam Kỳ thịnh hơn ở Bắc: năm 1920 ở Nam Kỳ có đến mười tờ
báo quốc ngữ và một vài tờ báo Pháp ngữ của người Việt Nam13. Giữa
những năm 20 của thế kỷ XX, do ảnh hưởng của các cuộc cách mạng và cải cách
trên thế giới, tình hình chính trị Nam Kỳ trở nên sôi động, xuất hiện nhiều
phong trào quần chúng lớn, nhiều tổ chức chính trị có hoạt động đáng kể. Nổi bật
trong phong trào đó có Đảng lập hiến mà người đứng đầu là Bùi Quang Chiêu (kỹ
sư) và các thành viên điển hình là Nguyễn Phan Long (nhà báo), Nguyễn Trực (nhà
báo), Dương Văn Giáo (luật sư), Trần Văn Đôn (bác sĩ), Trương Văn Bền (nhà tư sản),
Diệp Văn Kỳ (sinh viên luật ), Trần Văn Khá, Lê Quang Liêm, Nguyễn Tấn Dược,
Nguyễn Kim Đính, Nguyễn Văn Thinh… Cơ quan ngôn luận của Đảng lập hiến là tờ
báo La Tribune Indigène (Diễn đàn bản xứ) sau đổi tên là La Tribune
Indochinoise (Diễn đàn Đông Dương). Lý giải về nguồn gốc ra đời của Đảng lập hiến,
GS. Trần Văn Giàu viết:“Hồi chiến tranh đang diễn ra ác liệt, để làm tiền,
bòn lúa, bắt lính, bắt phu, viên toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut hứa hươu,
hứa vượn, trong đó có hứa một Hiến pháp cho Đông Dương, lại có hình ảnh son phấn
của một xứ “Đông Dương – nước Pháp Viễn Đông”. Bùi Quang Chiêu, Phạm Phú Khai,
Nguyễn Phan Long… bám vào chữ Hiến pháp đó để lập ra Đảng lập hiến Đông Dương.
Đảng lập hiến Đông Dương tự gọi là Đông Dương, kỳ thật nó không hề vượt ra
ngoài ranh giới Nam Kỳ”14.
Có thể coi một loạt bài trên La Tribune Indigène năm 1919 là sự thể
hiện tư tưởng của Đảng lập hiến. Đáng chú ý là bài viết của Nguyễn Trực vào các
số ngày 7, 8 và 14 tháng 1 năm 1919. Theo Nguyễn Trực, thế giới sau đại chiến
thế giới lần thứ nhất là một thế giới đang biến đổi sâu sắc và phổ biến: Đông
Dương và Nam Kỳ không thể là ngoại lệ. Ông viết: “Một luồng gió cải
cách thổi qua khắp mặt trái đất, không nước nào không. Từ nước Trung Hoa mà người
ta nghĩ đã hoá thạch trong cái huy hoàng thiên cổ, đến nước Nga của các Sa
hoàng, cha của bọn bần nông, qua nước Đức đang sôi sục, nước Áo, Hung đang tan
rã và nước Nhật ở đó Vua được tôn trọng như Trời, khắp các nơi tâm trí con người
đang biến đổi sâu sắc, biến đổi chẳng những trong hiến pháp chính trị các dân tộc
mà cả trong các ngành hoạt động khác của loài người. Từ trước chưa hề nghe người
ta viết nhiều, nói nhiều đến những danh từ thần bí: tự do, nhân quyền, như bây
giờ, chưa hề lúc nào tư tưởng con người chứa đựng những lời lẽ bác ái và nhân đạo
như bây giờ”15.
Trong bài diễn văn đọc tại một tiệc trà của người Việt Nam tại
Pháp vào tháng giêng năm 1926 được Đông Dương thời báo đăng lại ngày 10/3/1926,
Bùi Quang Chiêu đã thể hiện sự bất bình của mình với chế độ thuộc địa mà người
Pháp đã áp đặt tại Việt Nam: “Chúng ta xem lại cái lịch sử mấy ngàn năm
của ông cha ta thuở trước, lại thấy cái năng lực của chúng ta về tinh thần và đạo
đức, thì rõ được cái vận mệnh của nước nhà và chỉ noi theo đó mà đi. Cứ theo
cái trình độ tiến hoá của chúng ta mà so với trình độ tiến hoá của các nước lân
cận ta thì chúng ta phải chua xót, phải căm tức cho ai đã làm mất bao nhiêu thời
giờ của ta, phí biết bao nhiêu tài sản của ta, hao biết bao nhiêu tinh lực của
ta, khiến nay ta phải giậm chân lên mà la rằng: Đồng bào ơi, bước mau lên! Hãy
cùng nhau quyết chí bước mãi tới đi… Chúng ta đâu có chối những sự tiến bộ về mặt
vật chất ở xứ ta khoảng 60 năm nay, song chúng ta thử nghĩ nếu như họ dừng thi
hành cái chính sách thuộc địa hẹp hòi, thiển cận kia, đừng vì những lợi ích trước
mắt nhỏ nhen mà đè ép dân hồn, dân trí ta xuống, mà miệt thị những điều thỉnh cầu
chính đáng của ta, thì cái bước đường tiến hoá của dân ta ngày nay há chỉ tới
đây hay sao?”16.
Theo GS. Trần Văn Giàu, nhóm La Tribune Indigène mặc dù bất bình với
chính sách thuộc địa nhưng lại thuộc vào những người tin vào khả năng cải cách
tiến bộ của thực dân Pháp. Họ cho rằng suốt mấy năm chiến tranh, dân Đông Dương
đã góp nhiều người, nhiều của cho Pháp thì dân Đông Dương tất nhiên phải có
thêm quyền lợi mới, quyền lợi đó là chế độ chính trị xứ này phải được nới rộng
cho người Đông Dương được tham chính. Báo này đã viết: “Suốt bốn năm chiến
tranh, người Đông Dương đã có dịp chứng tỏ một cách hùng hồn và rực rỡ với mẫu
quốc cái lòng trung thành, lòng tri ân của mình. Song vì cái thể chế Đông Dương
nó như thế, cho nên nhân dân không được khuyến khích phải lưu ý đến việc chính
trị, tham dự vào sự nghiệp tiến bộ ở xứ này, việc ấy dành riêng cho các nhà cai
trị làm gì thì làm theo cảm hứng của họ, còn nhân dân thì bị động thôi”17.
La Tribune Indigène nghĩ rằng, chế độ trước đây là cần thiết phải như thế vì
trình độ dân thấp kém, bây giờ thì dân đã có tiến bộ rồi nên “bắt đầu cảm giác
bị chật chội ở trong cái chế độ chính trị đã trở thành hẹp hòi đối với trình độ
tiến hoá của chúng tôi. Đã đến lúc phải nới rộng ra để cho phép người bản xứ
tham gia một cách đắc lực vào đời sống công cộng của nước họ”. Theo GS. Trần
Văn Giàu, Nguyễn Trực cũng như những người theo chủ nghĩa cải lương của báo La
Tribune Indigène nghĩ rằng phải tiến hoá từ từ, không nên đốt cháy giai đoạn
nhưng cũng không nên vì lẽ “cẩn thận” nào mà cản trở sự phát triển tự do của một
dân tộc đông hai mươi triệu. Tư tưởng chủ đạo của Đảng lập hiến của Bùi Quang
Chiêu là xây dựng Hiến pháp và đấu tranh vì các quyền tự do, dân chủ của dân An
Nam bằng phương pháp đấu tranh ôn hoà, chống bạo động và trong khuôn khổ thừa
nhận chính quyền bảo hộ của Pháp. Bùi Quang Chiêu đã có lần tuyên bố: “Tôi
xin thề trước linh hồn ông Phan Chu Trinh rằng, tôi xin tận tụy về việc nước,
anh em đồng bào có thể tin cậy ở tôi, ở người lãnh tụ của Đảng lập hiến nước
ta. Nhưng yêu nước không phải là xuẩn động, mà phải thân thiện với người Pháp,
người Pháp là một giống người rất trọng công lý và nhân đạo; ta cứ tin ở người
ta và liên lạc với người ta một cách thành thật. Vậy hãy nén lòng mà đợi, không
phải cúi đầu mà đợi. Phải biết rằng người dám đợi tức là người có can đảm; đợi
khi nào người Pháp không làm gì mà chỉ hứa suông thôi thì tới cái giờ đó ta sẽ
xử trí sau”18.
Báo La Tribune Indigène có nhiều yêu cầu đối với Chính phủ bảo hộ
Pháp, tuy nhiên đáng kể nhất là bốn yêu cầu:
“- Điều thứ nhất mà dân An Nam trông đợi là cải cách về tuyển cử,
làm sao cho người An Nam được tham gia thực sự và đầy đủ vào việc quản trị việc
công ở xứ này. Người đóng thuế phải trở thành người công dân Đông Dương (Le
citoyen indochinois), có thể qua đại biểu của mình mà có thể kiểm soát bộ máy
cai trị một cách có hiệu lực.
– Điều cải cách thứ nhì, đồng thời với cải
cách tuyển cử, là cho người An Nam được tự do ra báo, tự do ngôn luận.
– Điều thứ ba, xin có ngày cho Đông Dương
quyền được tự trị đối với Pháp như Canada đối với Anh.
– Điều thứ tư, cho dân An Nam ban hành một
bản Hiến pháp”19.
Cũng giống như Phạm Quỳnh, tư tưởng lập hiến của Bùi Quang Chiêu
và Đảng lập hiến của ông mặc dù khó có thể thực hiện được khi đất nước còn bị
thực dân Pháp đô hộ, tuy nhiên, việc công khai tranh luận và yêu cầu Chính phủ
bảo hộ ban hành Hiến pháp và thừa nhận các quyền tự do dân chủ cho dân An Nam
là thông điệp quan trọng của người dân bản xứ đối với chế độ thuộc địa, rằng cần
phải thay đổi chế độ đó nếu không sớm hay muộn nó cũng sẽ bị sụp đổ. Người dân
Việt Nam sẽ bằng cách này hay cách khác, sớm hay muộn sẽ giành lấy quyền tự chủ
của mình, giành độc lập tự do cho đất nước, bảo vệ các quyền con người và quyền
công dân của mình.
4.
Tư tưởng lập hiến của Nguyễn An Ninh (1900 – 1943) và Phan Văn Trường (1876 –
1933)
Nguyễn An Ninh là một cử nhân luật, tốt nghiệp đại học Sorbonne,
Paris năm 1920 khi vừa tròn 20 tuổi. Năm 1922, anh trở về Việt Nam và năm 1923
anh đã thành lập tờ báo La cloche fêlée (Tiếng chuông rè). Từ năm 1926, tờ báo
này đổi tên thành L, Annam và có sự cộng tác của Tiến sĩ-Luật sư Phan Văn Trường.
Cùng với việc tuyên truyền các tư tưởng về tự do, dân chủ thông qua các bài viết
trên báo La cloche fêlée, Nguyễn An Ninh và Phan Văn Trường đã thể hiện tư tưởng
lập hiến của mình. Nguyễn An Ninh đã viết: “Hỡi đồng bào, các bạn đòi
tôn trọng tự do cá nhân, tự do tư tưởng, tự do lập hội, tự do giảng dạy, tự do
đi lại, tự do làm việc; việc các bạn muốn dân tộc An Nam có những hội đồng là
nơi mọi từng lớp xã hội được đại diện để chăm lo cho lợi ích chung, các bạn muốn
có Hiến pháp để đảm bảo tự do và quyền lợi của các bạn…”20. Để
tuyên truyền các quyền tự do dân chủ cho nhân dân, năm 1923 Nguyễn An Ninh đã
biên soạn cuốn sách “Dân ước – dân quyền – dân đạo” mà tư tưởng chủ đạo của nó
xuất phát từ tác phẩm “Khế ước xã hội”(Le contrat social) của J. J. Rousseau.
Các số báo La Cloche fêlée từ 42 đến 68 đã đăng bản Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền của Pháp và các Hiến pháp đầu tiên của Pháp: 1791, 1793, 1794. Về tổ
chức bộ máy nhà nước, tư tưởng của Nguyễn An Ninh là xây dựng một chế độ cộng
hoà trong đó có Nghị viện đại diện cho quyền lợi của dân phải bao gồm những đại
biểu do dân chọn lựa bầu ra một cách dân chủ. Về tổ chức chính quyền địa
phương, Nguyễn An Ninh đánh giá cao thể chế làng xã tự trị ở Việt Nam đã xuất
hiện trong thời kỳ phong kiến và chủ trương duy trì thiết chế xã thôn tự trị,
ông viết: “Đó là một cơ sở cộng hoà, có ban hương chức hội tề do dân bầu
ra, có tổ chức nội trị, trong đó mỗi công dân đều có chức nghiệp, chức trách, một
nghĩa vụ, với ngân sách riêng, cái cơ chế làng xã An Nam đã khiến cho những cơ
chế dân chủ hiện đại tốt nhất cũng phải ghen tỵ”21.
Tiến sĩ – luật sư Phan Văn Trường cũng như Phan Chu Trinh là người
đánh giá cao thuyết phân chia quyền lực và việc ứng dụng học thuyết này trong
xây dựng Hiến pháp và tổ chức bộ máy nhà nước. Khi nói về Hiến pháp, ông luôn
quan tâm đến việc phân quyền trong tổ chức bộ máy nhà nước: “Ở những nước
có Hiến pháp, cái chủ ngãi quan hệ nhất là cái chủ ngãi phân quyền (principe de
la separation des pouvoirs). Phân quyền nghĩa là lập nên những quyền trong quốc
gia đứng tự chủ, không có quyền nọ phải lụy quyền kia, như là quyền lập pháp là
quyền làm ra pháp luật, đứng tự chủ, không quỵ lụy quyền hành pháp là quyền thi
hành những pháp luật đã ra rồi”22.
5.
Tư tưởng lập hiến của Việt Nam quốc dân Đảng (1927-1930)
Việt Nam quốc dân Đảng được thành lập năm 1927 và chỉ tồn tại đến
năm 1930 do Nguyễn Thái Học lãnh đạo. Việt Nam quốc dân Đảng lấy chủ nghĩa tam
dân (dân tộc, dân quyền, dân sinh) của Tôn Dật Tiên làm chủ nghĩa chính thức,
thực hiện chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập cho nước nhà bằng bạo
động cách mạng. Theo TS. Phan Đăng Thanh, ở Việt Nam, từ năm 1925-1929 không có
chủ nghĩa chính trị nào được bàn luận, phiên dịch, phổ biến nhiều bằng chủ
nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn. Theo học giả Trần Văn Giàu: “Chủ nghĩa
cách mạng của Tôn Dật Tiên bao gồm chủ nghĩa tam dân và Ngũ quyền Hiến pháp. Chủ
nghĩa tam dân gồm ba bộ phận: chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân quyền và chủ
nghĩa dân sinh. Còn ngũ quyền Hiến pháp là: lập pháp, hành pháp, tư pháp, củ
soát và khảo thí”23.
6.
Tư tưởng lập hiến của Phan Chu Trinh (1872-1926)
Một trong những chiến sĩ tiên phong khởi xướng và truyền bá tư tưởng
dân chủ và tư tưởng lập hiến ở Việt Nam là Phan Chu Trinh. Vào năm 1902, Phan
Chu Trinh đã bắt đầu tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây và những tư tưởng
cải cách đất nước của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Bạch. Những nguồn tư tưởng
này giúp ông đề xướng tư tưởng “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Phan
Chu Trinh đã coi việc mở mang dân trí là tiền đề để xây dựng xã hội dân chủ. Là
người kịch liệt phản đối chế độ quân chủ chuyên chế, ông đã viết: “Cái
độc chuyên chế cùng cái hủ nho nhà ta đã trở thành chứng bệnh bất trị mà học
thuyết tự do, dân quyền Âu Tây là vị thuốc đắng để chữa bệnh đó”24.
Ông đưa ra tư tưởng dân quyền, chủ trương bầu cử những người xứng đáng vào bộ
máy nhà nước.
Năm 1922, trong Thư thất điều gửi Hoàng đế Khải Định ông
đã buộc tội nền quân chủ chuyên chế là nguyên nhân sâu xa làm cho dân tộc ta
suy yếu và để mất độc lập, chủ quyền. Ông nêu ra 7 tội đáng phải chết của Khải
Định là:
1. Tôn bậy quân quyền;
2. Thưởng phạt không công bình;
3. Chuộng sự quỳ lạy;
4. Tiêu xài hoang phí;
5. Phục sức không đúng phép tắc quân vương;
6. Chơi bời vô độ;
7. Chuyến này đi Pháp với mục đích ám muội, duy trì quân quyền.
2. Thưởng phạt không công bình;
3. Chuộng sự quỳ lạy;
4. Tiêu xài hoang phí;
5. Phục sức không đúng phép tắc quân vương;
6. Chơi bời vô độ;
7. Chuyến này đi Pháp với mục đích ám muội, duy trì quân quyền.
Công kích Khải Định ông viết: “Đó chẳng phải là công kích cá nhân
Bệ hạ mà là công kích một hôn quân, cũng không phải vì tư kỹ của Trinh này mà
làm, mà vì hai mươi triệu đồng bào xô ngã chuyên chế, ủng hộ tự do vậy”. Đề cao
tư tưởng dân chủ tự do ông viết: “Nhật Bản là nước đồng chủng, đồng giống với
nước ta, bốn mươi năm trước họ lập ra Hiến pháp cho dân được bầu cử Nghị viện,
còn việc chính trị trong nước theo ý của dân chứ Vua không được chuyên quyền”25.
Tư tưởng xây dựng Hiến pháp và một nhà nước dân chủ thể hiện rất
rõ trong bài diễn thuyết“Quân trị và dân trị chủ nghĩa” của ông tại
Hội khuyến học Sài gòn: “Trong nước có Hiến pháp, ai cũng phải tôn trọng Hiến
pháp, cái quyền của Chính phủ cũng bởi Hiến pháp quy định cho, lười biếng không
được mà dẫu có muốn áp chế cũng không chỗ nào thò ra được. Vả lại, khi có điều
gì vi phạm đến pháp luật thì người nào cũng như người nào, từ ông Tổng thống đến
một người nhà quê cũng chịu theo pháp luật như nhau”26.
Phân tích chế độ quân chủ chuyên chế và chế độ dân chủ, Phan Chu
Trinh đã chỉ ra những ưu thế của chế độ dân chủ: “So sánh hai cái chủ
nghĩa quân trị và dân trị ta thấy chủ nghĩa dân trị hay hơn chủ nghĩa quân trị
nhiều lắm. Lấy theo ý riêng của một người hay của một triều đình mà trị nước
thì cái nước ấy không khác nào một đàn dê, được no ấm vui vẻ hay đói khát khổ sở
tuỳ theo lòng của người chăn. Còn như theo cái chủ nghĩa dân trị thì quốc dân lập
ra Hiến pháp, luật lệ, đặt ra các cơ quan để lo việc chung của cả nước, lòng quốc
dân thế nào thì làm thế đấy, dù không có người tài giỏi thì cũng không đến nỗi
phải để dân khốn khổ làm tôi mọi một nhà, một họ nào”27.
Không những cổ vũ cho thuyết dân trị, Phan Chu Trinh còn phân tích
một cách sâu sắc những ưu thế của việc tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc
phân chia quyền lực của John Locke và Montesquieu: “Đây tôi nói về cái
chính thể bên Pháp. Ở trong nước có Nghị viện gồm Thượng viện và Hạ viện. Hạ viện
là viện quan hệ nhất; khi nào đặt Tổng thống hay thiếu mà đặt lại thì hợp người
trong hai viện ấy mà bỏ thăm. Người ra ứng cử cũng ở trong hai viện ấy. Ai được
nhiều thăm nhất thì chọn người ấy làm Tổng thống. Khi được bầu rồi thì Tổng thống
phải thề trước hai viện rằng: Cứ giữ theo Hiến pháp dân chủ, không phản bạn,
không theo đảng này, chống đảng kia, cứ giữ công bình, nếu có làm bậy thì dân
trục xuất ngay. Còn Chính phủ cũng bởi trong hai viện ấy mà ra. Nhưng mà giao
quyền cho Đảng nào chiếm số nhiều trong hai viện ấy mà lập ra Quốc vụ viện (tức
Chính phủ, Nội các); theo Quốc vụ viện bây giờ chừng đâu cũng vài chục bộ nhưng
không phải ăn không ngồi rồi như các ông Thượng thư bên ta đâu. Ông nào cũng có
trách nhiệm của ông ấy cả. Cái gì mà không bằng lòng dân thế nào cũng có người
chỉ trích…”. Phân tích cơ chế phân chia quyền lực ông viết: “Cái
quan chức về việc cai trị chỉ có quyền hành chính mà thôi, còn quyền xử án thì
giao cho các quan án là những người học giỏi luật lệ, có bằng cấp; các quan án
chỉ coi việc xử đoán, có quyền độc lập, cứ theo lương tâm công bình, chiếu theo
pháp luật mà xử, xử Chính phủ cũng như xử một người dân. Các quan án ở về một
viện riêng gọi là Viện tư pháp. Quyền tư pháp cũng như quyền hành chính của
Chính phủ và quyền lập pháp của Nghị viện đều đứng riêng ra, không hợp lại
trong tay một người nào”28. Điều đáng lưu ý nhất trong tư tưởng
lập hiến, lập pháp của Phan Chu Trinh chính là ở chỗ tuy đánh giá cao tư tưởng
lập hiến, lập pháp của Montesquieu và Rousseau nhưng ông hoàn toàn chống lại những
người tiếp thu một cách máy móc tư tưởng phương Tây. Trong bài diễn thuyết “Đạo
đức và luân lý Đông Tây” ông gọi những người nho học cũ và bảo thủ là “hủ nho”
còn những người tây học mất gốc, sùng bái nước ngoài vô lối là “hủ tây”. Ông
nói rằng: cả “hủ nho” và “hủ tây” đều là loại người dân nước phải biết phân biệt
để tránh cho xa, kẻo mang họa cho dân nước29. Như vậy có thể thấy,
tư tưởng lập hiến, lập pháp của Phan Chu Trinh là gạn lọc những tinh hoa của tư
tưởng dân chủ phương Tây cũng như những yếu tố dân chủ tốt đẹp của công xã nông
thôn và đạo đức thuần khiết của phương Đông để xây dựng một nền Hiến pháp và
pháp luật cho nước nhà khi dân ta làm chủ đất nước30.
7.
Tư tưởng lập hiến của Phan Bội Châu (1867- 1940)
Tư tưởng lập hiến của nhà yêu nước Phan Bội Châu hình thành và
phát triển qua hai giai đoạn: Giai đoạn ông sáng lập Duy tân hội năm 1904 và
giai đoạn sáng lập Quang phục hội năm 1912. Trong giai đoạn sáng lập Duy tân hội,
tư tưởng của Phan Bội Châu là xây dựng chế độ quân chủ lập hiến. Trong “Phan Bội
Châu niên biểu”, ông đã thuật lại cuộc tranh luận giữa ông và nhà yêu nước Phan
Chu Trinh: “Ông (Phan Châu Trinh) thì muốn trước hết phải đánh đổ ngay
quân chủ để làm cơ sở xây dựng dân quyền; Tôi (Phan Bội Châu) thì muốn đánh đuổi
ngay giặc Pháp, đợi khi nước nhà độc lập rồi sẽ mưu tính đến việc khác. Ý tôi
là muốn lợi dụng quân chủ, thì ông cực lực phản đối. Ý ông là muốn đánh đổ quân
chủ, đề cao quyền dân thì tôi không tán thành. Vì ông với tôi cùng một mục đích
nhưng thủ đoạn khác nhau rất xa. Ông thì đi từ chỗ dựa vào Pháp để đánh đổ
Pháp, đánh đổ vua, tôi thì đi từ chỗ đánh đổ Pháp để phục lại Việt, do đó mà
khác nhau”31. Sự khác nhau giữa Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh
chủ yếu không phải là chọn chế độ quân chủ và cộng hoà mà là ở những phương
pháp để đạt đến độc lập dân tộc. Phan Châu Trinh chủ yếu tin vào khả năng hoạt
động hợp pháp, bằng cách cộng tác với chính quyền thực dân để thay đổi hiện trạng
bằng một loạt cải cách dần dần. Phan Bội Châu muốn tập hợp lực lượng giải phóng
dân tộc bằng đấu tranh vũ trang, sau đó mới tính đến các chuyện khác”32.
Tư tưởng dân chủ của Phan Bội Châu đã có những phát triển đáng kể khi ông thành
lập Việt Nam Quang phục hội vào năm 1912. Từ tư tưởng xây dựng chế độ quân chủ
lập hiến ông đã chuyển sang chủ trương xây dựng chế độ cộng hoà và đã nhận xét
rằng: “Chế độ cộng hoà dân quốc là hay là đúng”. Trong tuyên ngôn chính trị của
Việt Nam Quang phục hội năm 1912 đã ghi rõ:
“Nay bản hội xét sau, xem trước,
Nghĩ cuộc đời thế nước bấy lâu,
Gần thì bắt chước theo tàu,
Xa thì người Mỹ, người Âu làm thầy”33.
Nghĩ cuộc đời thế nước bấy lâu,
Gần thì bắt chước theo tàu,
Xa thì người Mỹ, người Âu làm thầy”33.
8.
Tư tưởng lập hiến của Nguyễn Ái Quốc (1890 – 1969) và Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Ái Quốc sinh ra và trải qua tuổi thơ vào những năm cuối thế
kỷ XIX, trong một gia đình nhà nho yêu nước, cha là Nguyễn Sinh Sắc (1863
-1929) đỗ Phó bảng cùng khoa năm 1901 cùng với Phan Châu Trinh, Ngô Đức Kế.
Nguyễn Ái Quốc khi nhỏ có tên là Nguyễn Sinh Cung, sau đổi là Nguyễn Tất Thành,
lớn lên và trưởng thành vào những năm thế giới đầy biến động. Ngay từ những
ngày còn học ở Trường Quốc học Huế, Nguyễn Tất Thành đã khâm phục tinh thần yêu
nước của các nhà cách mạng Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Tuy nhiên, sau này
Nguyễn Tất Thành đã không lựa chọn con đường cứu nước bằng cách Đông Du sang Nhật
hay đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ và quyền tự trị của dân An Nam trong
khuôn khổ thừa nhận chế độ bảo hộ. Nguyễn Ái Quốc đã bôn ba khắp năm châu, bốn
biển từ Pháp đến Anh, Nga, Mỹ, Trung Quốc, Hồng Công…để tìm đường cứu nước. Năm
1919, Nguyễn Ái Quốc đã viết Bản yêu sách của nhân dân An Nam (Revendications
du peuple Annamite) gửi Hội nghị Versailles (Hội nghị của những nước thắng trận
trong đại chiến thế giới lần thứ nhất, ngày 18/6/1919). Bản yêu sách bao gồm 8
điểm:
1. Tổng ân xá cho những người bản xứ bị
án tù chính trị;
2. Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng
cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như
người châu Âu; xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố
và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam;
3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận;
4. Tự do lập hội và tự do hội họp;
5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất
dương;
6. Tự do học tập, thành lập các trường kỹ
thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ;
7. Thay thế chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ
ra các đạo luật;
8. Đoàn đại biểu thường trực của người bản
xứ do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được
những nguyện vọng của người bản xứ34.
Năm 1922, Bản yêu sách này đã được Nguyễn Ái Quốc viết lại thành
diễn ca với tựa đề “Việt Nam yêu cầu ca” để phổ biến rộng rãi trong giới bình
dân ở Việt Nam và nước ngoài. Đáng lưu ý điều yêu cầu thứ bảy đã được thể hiện
rõ là yêu cầu lập hiến:
“Bảy xin Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Đông Dương, nay là Đảng Cộng
sản Việt Nam đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng một nền pháp luật thể
hiện ý chí của giai cấp công nông và quần chúng lao động. Nghị quyết Hội nghị
trung ương Đảng lần thứ VII (tháng 11/1940) đã nhắc lại nhiệm vụ của cách mạng
tư sản dân quyền và đề ra các nhiệm vụ cần thực hiện, trong đó có nhiệm vụ ban
bố Hiến pháp dân chủ; ban bố các quyền tự do dân chủ cho nhân dân; tự do ngôn
luận, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do bãi
công biểu tình, tự do đi lại và tự do xuất dương.
Tóm lại, trước Cách mạng tháng 8/1945, mặc dù trong điều kiện phải
hoạt động bí mật, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt ra nhiệm vụ hàng đầu là phải
lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập, và để chuẩn bị xây dựng nước nhà
trong điều kiện khi đất nước đã độc lập rồi thì phải ban bố Hiến pháp dân chủ để
đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
---------------------------
Chú thích:
1. Xem: Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế
kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, 1996, tr. 390. 2. Sách đã dẫn, tr. 390. 3. Sách đã dẫn, tr. 390. 4. Sách đã dẫn, tr. 391. 5. Xem: Thái Vĩnh Thắng, Lịch sử lập hiến Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia, 1997, tr. 12. 6. Tạp
chí Nam Phong, số 189, tháng 10/1933. 7.
Xem: Phan Đăng Thanh, Tư tưởng lập hiến Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb.Tư
pháp, 2006, tr. 182. 8. Xem: Sách đã dẫn,
tr. 182-183. 9. Xem: Phạm Quỳnh, Vấn đề lập
hiến cho nước Nam, Tạp chí Nam Phong, số 151, tháng 6/1930. 10. Phạm Quỳnh, Vấn đề lập hiến cho nước Nam, Tạp chí Nam
Phong, số 151, tháng 6 năm 1930. 11. Tài
liệu đã dẫn. 12. Phạm Quỳnh, Câu chuyện lập
hiến, Tạp chí Nam phong, số 173, năm 1932. 13.
Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng
tháng Tám, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, 1997, tr. 513. 14. Trần Văn Giàu, Lược sử thành phố Hồ Chí Minh, Địa chí
văn hoá thành phố Hồ Chí Minh, tập 1, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1987, tr. 288. 15. Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ
thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, 1997, tr.
513. 16. Sách đã dẫn, tr. 519. 17. Sách đã dẫn, tr. 514. 18. Sách đã dẫn, tr. 521-522. 19. La Tribune Indigène ngày 18/5/1919. 20. Nguyễn An Tịnh, Nguyễn An Ninh, Nxb. Trẻ tp. Hồ Chí
Minh, 1996, tr.170. 21. Xem: Nguyễn
An Tịnh: Nguyễn An Ninh, Nxb. Trẻ, tp. Hồ Chí Minh, 1996, tr. 134. 22. Xem: Phan Văn Trường, Pháp luật lược luận, Nxb. Xưa –
Nay, Sài Gòn, 1926, tr. 18 -28. 23. Xem:
Trần Văn Giàu, Hệ ý thức tư sản và sự thất bại của nó trước nhiệm vụ lịch sử,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 551. 24. Xem: Phan Chu Trinh, Giai nhân kỳ ngộ, Nxb. Hướng
Dương, Sài Gòn, 1958,tr.39. 25. Phan Chu
Trinh: Bài diễn thuyết về quân trị và dân trị chủ nghĩa, Tạp chí Nghiên cứu lịch
sử số 67, tháng 10-1964, tr. 22. 26. Tài
liệu đã dẫn. 27. Tài liệu đã dẫn. 28. Phan Chu Trinh, Thư thất điều gửi Hoàng đế Khải Định ở
Paris năm 1922, Nxb. An ninh, Huế, 1958, tr. 22 – 26. 29. Đỗ Thị Hoà Hới, Tìm hiểu tư tưởng dân chủ của Phan Chu
Trinh, Nxb. Khoa học xã hội, 1996, tr. 135.30. Thái Vĩnh Thắng, Lịch sử lập hiến
Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, 1997, tr.17. 31. Phan Bội Châu niên biểu, Phạm Trọng Điềm và Tôn Quang
Phiệt dịch, Nxb. Văn, Sử, Địa, Hà Nội, 1957, tr. 72. 32. Xem: Chương Thâu, Nghiên cứu Phan Bội Châu, Nxb. Chính
trị quốc gia, năm 2004, tr. 38. 33. Xem:
Hợp tuyển Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX (1900-1930), tr. 392 34. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1995 – 1996, tr. 435-436
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét