Nguyễn Quang Dy
Cách đây hơn ba năm,
trong bài “Trung Quốc có thể làm gì tại Biển Đông” (February 29, 2016), tôi đã
ủng hộ lập luận của Alexander Vuving (APCSS/Hawaii) phản biện lại quan điểm của
Lyle Goldstein (US Naval War College) vì không phù hợp với thực tế tại Biển Đông
và vô tình tiếp tay cho Trung Quốc. Trong bài này, tôi cập nhật (vắn tắt) cơ
hội và thách thức mới, và khuyến nghị Việt Nam có thể làm gì trong bối cảnh
hiện nay tại Biển Đông.
Cập nhật diễn biến
Theo AMTI/CSIS
(16/7/2019), trong mấy tuần qua, tàu Trung Quốc đã xâm phạm chủ quyền Việt Nam.
Tầu HD-8 đã vào thăm dò dầu khí tại lô Riji 03 và Riji 27 (gần lô 06-01) trong
vùng SEZ của Việt Nam, bị các tầu CSB và Kiểm Ngư của Việt Nam bám sát. Đồng
thời, tàu hải cảnh Trung Quốc (Haijing 35111) đã khiêu khích 2 tàu Sea Meadow
29 và Crest Argus 5, đang phục vụ giàn khoan Hakuryu-5 của liên doanh
PVN-Rosneft tại lô 06-01 (Lan Tây & Lan Đỏ), thuộc Nam Côn Sơn, phía
tây-bắc Bãi Tư Chính, cách Vũng Tầu 370km.
Những gì vừa diễn ra
gần Bãi Tư Chính (7/2019) là “tiếp nối” (follow up) những gì đã xảy ra trước
đây (7/2017 và 3/2018) tại lô 136-03 (Cá Kiếm Nâu) và lô 07-03 (Cá Rồng Đỏ), và
là “khúc dạo đầu” (prelude) cho tham vọng mới của Trung Quốc. Nói cách khác,
đây là một ván cờ vây kéo dài (chưa có hồi kết) trong một “vùng xám” mà Trung
Quốc có lợi thế, trong khi Việt Nam cô đơn, bị họ trùm chăn bắt nạt mà phải im
lặng (để giữ “đại cục”).
Sau nhiều ngày im
lặng, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao đã lên tiếng một cách chung chung
(16/7/2019) nhưng sau đó (19/7/2019) đã cụ thể và cứng rắn hơn: “Trong những
ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông.
Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định
của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều
là thành viên. Việt Nam kiên quyết yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi
phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam”.
Không chỉ người phát
ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam, mà cả người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Mỹ cũng lên
tiếng (20/7/2019): “Hoa Kỳ lo ngại bởi
tin tức về Trung Quốc can thiệp vào các hoạt động dầu khí tại Biển Đông (SCS),
bao gồm hoạt động thăm dò và khai thác từ lâu của Việt Nam. Những hành động
khiêu khích nhiều lần của Trung Quốc nhắm vào khai thác dầu khí ngoài khơi của
các nước đòi chủ quyền khác, đe dọa an ninh năng lượng khu vực và phá hoại thị
trường năng lượng tự do rộng mở tại vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương…”
Trước đó, tại
Shangri-la (Singapore 1/6/2019) quyền Bộ trưởng Quốc phòng Patrick Shanahan đã
công bố “báo cáo về chiến lược Indo-Pacific”, nhấn mạnh 2 điểm chính: (1) phải
sẳn sàng ứng phó với những đụng độ có thể xảy ra, (2) tổ chức mạng lưới các
nước đồng minh và đối tác trong khu vực. Với Việt Nam, Mỹ tăng cường hợp tác
quốc phòng như Tàu sân bay USS Carl Vinson đến thăm Đà Nẵng (5/3/2018), Mỹ cung
cấp cho Việt Nam 2 tàu tuần duyên Hamilton class (3/2018), 6 xuồng tuần tra tốc
độ cao Metal Shark (4/2019), 6 máy bay trinh sát không người lái (ScanEagle),
và một số máy bay huấn luyện (T-6 Texan II).
Ngày
17/7/2019, Đô đốc Philip Davidson (Indo-Pacific Commander), đã trả lời phỏng
vấn về quan điểm của Mỹ đối với tham vọng của Trung Quốc muốn thống trị Châu Á.
Ngày 19/7/2019, Cố vấn An ninh Quốc gia (John Bolton) đã viết trên twitter:
“hành vi cưỡng ép của Trung Quốc đối với các nước láng giềng Đông Nam Á là phản
tác dụng, đe dọa hòa bình và ổn định trong khu vực”. Nhưng trong mấy tuần qua,
khi Trung Quốc tập trận (29/6-3/7/2019), bắn thử 6 tên lửa diệt hạm YJ-12 (từ
Trường Sa) và chiến hạm của họ tung hoành bắt nạt Việt Nam gần Bãi Tư Chính,
người ta không thấy chiến hạm nào của Mỹ tại Biển Đông.
Gần đây, chiến hạm
Trung Quốc liên tiếp vi phạm chủ quyền, bắt nạt Malsaysia và Việt Nam vì có xu
hướng “thoát Trung”, (nhất là trước chuyến thăm Mỹ sắp tới của TBT/CTN Việt
Nam). Thực ra, Trung Quốc muốn ép Việt Nam phải hợp tác với họ, chứ không được
hợp tác với Mỹ. Trung Quốc tìm mọi cách gạt Mỹ ra khỏi khu vực, để họ dễ độc
chiếm Biển Đông. Nhưng theo Alexander Vuving, Mỹ vẫn chưa có chính sách rõ ràng
về Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức mới
Đặc điểm nổi bật của
chính quyền Trump là đã điều chỉnh chiến lược để đối đầu với Trung Quốc như là
“thách thức chính” (theo NDS). Tuy chiến tranh thương mại Mỹ-Trung “vừa đánh
vừa đàm” và Trump thay đổi bất thường, nhưng chủ trương chống Trung Quốc chắc
không thay đổi trong vài thập kỷ tới, như “đồng thuận quốc gia mới” (new
national consensus) được lưỡng đảng và người Mỹ ủng hộ. Nói cách khác, đánh là
chiến lược, đàm là chiến thuật, nên thiệt hại của Trung Quốc là khó lường, sẽ
tác động tới cục diện Biển Đông.
Trong khi chính quyền
Obama tránh căng thẳng với Trung Quốc, thực hiện tuần tra Biển Đông (FONOP) một
cách chiếu lệ như “đi qua vô hại” (innocent passage), thì chính quyền Trump tỏ
ra sẵn sàng đối đầu với Trung Quốc, triển khai tập trận và tuần tra Biển Đông
quyết liệt hơn. Đến nay đã có 8 nước đồng minh tham gia tập trận và tuần tra
tại Biển Đông. Đặc biệt trong đó bốn cường quốc (Mỹ, Nhật, Úc, Ấn Độ) đã hình thành
nhóm “tứ giác kim cương” (Quad) làm trụ cột cho tầm nhìn chiến lược mới
“Indo-Pacific tự do rộng mở”.
Năm 1974, Trung Quốc
đánh chiếm Hoàng Sa, nhưng lúc đó đồng minh Mỹ đã không can thiệp để bảo vệ
Việt Nam Công Hòa. Năm 1988, Trung Quốc đánh chiếm 7 đảo/đá tại Trường Sa (Gạc
Ma, Chữ Thập, Vành Khăn, Tư Nghĩa, Châu Viên, Subi, Ga ven), nhưng đồng minh
Liên Xô (trong quân cảng Cam Ranh) đã không can thiệp để bảo vệ Việt Nam. Năm
2012, Trung Quốc vây chiếm bãi Scaborough (standoff), nhưng đồng minh Mỹ đã
không can thiệp để bảo vệ Philippines. Năm 2017, Trump đã bỏ rơi TPP (một sai
lầm lớn).
Vì vậy, các nước khu
vực tuy cần Mỹ nhưng chưa tin vào Mỹ sẽ can thiệp để bảo vệ họ chống Trung Quốc
đang muốn độc chiếm biển Đông (như cái ao của mình). Trung Quốc coi biển Đông
là “vùng xám” (grey area) để chơi cờ vây bằng “hạm đội dân quân” (militia
fleet), thay đổi thực địa thành chuyện đã rồi (fait accompli). Nhưng xu hướng
“thoát Trung” ngày càng tăng (như Malaysia và Bắc Triều Tiên), lo ngại phụ
thuộc vào Trung Quốc sẽ sa vào “bẫy nợ” vì “Sáng kiến Vành đai Con đường” là
“thực dân kiểu mới” (lời Mahathir).
Nói cách khác, xu
hướng “gần Trung” (như Philippines) là tạm thời và chiến thuật (có thể đảo
ngược), còn xu hướng “thoát Trung” (như Malaysia) là lâu dài và chiến lược (khó
đảo ngược). Trong khi nhiều nước tỉnh ngộ và phản ứng lại (backlash) để “thoát
Trung”, như một xu thế tất yếu, thì một số nước khác vẫn đang lệ thuộc vào
Trung Quốc và “đi dây”, làm cho quá trình chuyển biến (transition) có thể kéo
dài bất định (uncertain). Không phải vì họ thích thú Trung Quốc, mà vì họ chưa
tin vào Mỹ (vì chiến lược còn chập chững).
Chiến tranh thương mại
Mỹ-Trung như “con dao hai lưỡi”, làm Việt Nam “vừa lợi vừa hại” (winner and
loser). Vì vậy, Việt Nam cần khôn ngoan và năng động để tối đa nguồn lợi và
giảm thiểu thiệt hại. Nhưng nếu Việt Nam để các nhóm lợi ích thao túng, trở
thành điểm trung chuyển hàng hóa Trung Quốc để trốn thuế vào Mỹ, thì sẽ “lợi
bất cập hại” và mắc kẹt vào trò chơi quyền lực Mỹ-Trung. Gần đây, Trump đã nặng
lời chỉ trích Việt Nam và đánh thuế 456% lên thép có xuất xứ từ Đài Loan hay
Hàn Quốc là một tín hiệu xấu.
Việt Nam có thể làm gì
Về đối ngoại, Việt Nam
cần “tái cân bằng chiến lược”, để nâng cấp quan hệ với Mỹ lên đối tác chiến
lược, đồng thời tăng cường hợp tác chiến lược toàn diện với các cường quốc khác
trong “tứ giác kim cương” và khối EU. Trong bối cảnh đó, cần coi trọng quan hệ
với Nhật vì có tiềm lực và vai trò lớn hơn trong khu vực. Quan hệ với ASEAN tuy
quan trọng, nhưng vì họ đang bị Trung Quốc phân hóa và thao túng, nên vai trò
còn nhiều hạn chế. Lợi ích chiến lược của Việt Nam không chỉ gắn với ASEAN mà
còn gắn với vùng Indo-Pacific.
Về đối nội, Việt Nam
cần nghiêm túc điều tra và xử lý các doanh nghiệp gian lận thương mại tranh thủ
“đục nước béo cò”, biến Việt Nam thành nơi trung chuyển hàng hóa có xuất xứ từ
Trung Quốc (hay nước khác) thành hàng hóa “made in Vietnam” để trốn thuế nhập
khẩu Mỹ. Nếu trước đây Việt Nam còn chủ quan, coi thường cảnh báo thì nay phải
lĩnh hậu quả. Trong khi một số doanh nghiệp thủ lợi (trước mắt) thì quốc gia
thiệt hại (lâu dài). Vì vậy, chuyến thăm Mỹ sắp tới của TBT/CTN Nguyễn Phú
Trọng sẽ càng quan trọng hơn.
Về lâu dài, Việt Nam
cần đổi mới thể chế và chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, để phù hợp với luật chơi
với Mỹ cũng như các nước khác (theo CPTPP và EVFTA). Nếu luật chơi của WTO chưa
đủ làm Việt Nam thực sự hội nhập quốc tế, thì đây là cơ hội mới để Việt Nam
chuyển đổi nền kinh tế theo hẳn cơ chế thị trường và tư nhân hóa (bỏ cái đuôi
XHCN). Nếu không chuyển đổi kịp thời, Việt Nam dễ thành nạn nhân, mắc kẹt vào
đối đầu Mỹ-Trung.
Về truyền thông, muốn
được quốc tế ủng hộ và bênh vực, Việt Nam phải lên tiếng vận động (như thời
chống Mỹ). Vai trò truyền thông báo chí rất quan trọng nên Trung Quốc đã chú ý
vận dụng “Tam chủng Chiến pháp” (trong đó có truyền thông). Trong khi báo chí
Trung Quốc lên tiếng thì Việt Nam vẫn im lặng. Trong khi Trung Quốc có “Thời
báo Hoàn cầu” (nay Jack Ma đã mua South China Morning Post), thì Việt Nam không
có đối trọng.
Nhiều người có thể chỉ
trích Việt Nam có thái độ hèn kém trước Trung Quốc, bị họ bắt nạt mà không dám
kêu cứu. Nhưng Việt Nam (hay ASEAN) sẽ cứng rắn và kiên quyết hơn với Trung
Quốc nếu: (1) được quốc tế ủng hộ mạnh (nhất là Mỹ), (2) tương quan lực lượng
không quá yếu (nhất là trên thực địa), (3) Nội bộ đoàn kết và nhất trí (nhất là
về “thoát Trung”). Chắc còn có những nguyên nhân khác, nhưng đây là những nhân
tố thiết yếu.
Người Việt có câu
“giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, như tấm gương Bà Trưng, Bà Triệu thời xưa, hay
“đội quân tóc dải” thời chống Mỹ. Nhưng gần đây khi giặc đến nhà, đàn ông đàn
bà đều phải im lặng để giữ “đại cục”. Sau vụ dàn khoan HD-981 gây chấn động dư
luận (và bạo lực), Việt Nam chắc rút kinh nghiệm “không làm to chuyện”, nên dẫn
đến “thiếu hụt thông tin” (information deficit). Nhưng đây chính là điều Trung
Quốc muốn, để dễ bắt nạt Việt Nam trong vụ đối đầu hiện nay (7/2019) cũng như
lần trước (7/2017 & 3/2018).
***
Tóm lại, trước bối
cảnh trật tự thế giới đang diễn biến phức tạp, khó lường, Việt Nam cần đổi mới
thể chế chính trị để tháo gỡ các ách tắc và phát huy kết quả đổi mới kinh tế.
Muốn độc lập và bảo vệ chủ quyền quốc gia, Việt Nam phải tự cường và dựa vào
nội lực là chính, đồng thời điều chỉnh chiến lược và xoay trục để tăng cường
hợp tác chiến lược với các nước cùng chia sẻ tầm nhìn và lợi ích chiến lược tại
Biển Đông và khu vực Indo-Pacific.
21/7/2019
N.Q.D.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét