Nguyễn Quang Dy
Thế kỷ 21 có nhiều
nghịch lý, vì biến số (variables) ngày càng tăng và hằng số (constants) ngày
càng giảm, làm chính trị quốc gia và trật tự thế giới biến đổi khó lường. Trong
khi thế giới thay đổi quá nhanh (theo biến số) thì tư duy con người thay đổi
quá chậm (theo hằng số), như một nghịch lý trong nhận thức về thế giới mới. Sử
gia Yuval Harari cho rằng thế kỷ 21 là thời kỳ “hậu sự thật” (post truth) với
nhiều “tin vịt” (fake news), làm ta dễ ngộ nhận.
Bài này đề cập đến mấy
vấn đề lớn có nhiều biến số, đang thách thức Việt Nam tại bước ngoặt mới năm
2019: (1) Trung Quốc đang bắt nạt Việt Nam tại bãi Tư Chính. (2) Đồng bằng sông
Cửu Long đang gặp tai họa do quá nhiều đập thủy điện. (3) Đối đầu Mỹ-Trung có
thể làm cho Việt Nam “lợi bất cập hại”. (4) Trước bức tranh địa chính trị đầy
bất trắc, muốn thoát hiểm Việt Nam phải quyết điều chỉnh chiến lược và cải tổ
thể chế, trước khi quá muộn.
Khủng
hoảng bãi Tư Chính
Sự kiện dàn khoan
HD-981 (5/2014) là một cú sốc, gây khủng hoảng Biển Đông, xô đẩy Việt Nam về
phía Mỹ, như “hệ quả không định trước” (unintended consequence). Nhưng sự cố đó
có lẽ chưa đủ mạnh để thắng nguyên trạng. Quan hệ Trung-Việt tuy xa hơn “nhưng
không quá xa”, và quan hệ Mỹ-Việt tuy gần hơn “nhưng không quá gần” (Alexander Vuving).
Việt Nam vẫn cố giữ thăng bằng với Mỹ-Trung, với chính sách quốc phòng “ba
không”.
Tháng 7/2019, nhóm tàu
khảo sát HD-8 và tàu hải cảnh Trung Quốc đã xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế
(EEZ) của Việt Nam gần bãi Tư Chính, gây khủng hoảng Biển Đông một lần nữa và
đang xô đẩy Việt Nam về phía Mỹ. Trước đó (7/2017 và 3/2018) Việt Nam đã bị họ
đe dọa phải bỏ dở dự án “Cá Kiếm Nâu” (lô 136) và “Cá Rồng Đỏ” (lô 07-05).
Đồng thời, Trung Quốc
đã tập trận, bắn thử tên lửa đạn đạo diệt hạm (ASBM) và cho một phi đội gồm 3
chiếc Su-35 hiện đại (trong số 24 chiếc) tập tấn công mục tiêu trên Biển. Theo
Derek Grossman (RAND), Biển Đông là nơi lý tưởng để PLA thử tác chiến trên
biển, vừa để rút kinh nghiệm, mà không sợ Mỹ can thiệp, và có thể thắng trận.
(“Vietnam Is the Chinese Military’s Preferred Warm-Up Fight”, Derek Grossman,
Diplomat, May 14, 2019).
Ngày 19 và 25/7/2019,
người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam đã lên tiếng phản đối Trung Quốc và đòi
họ rút tàu về. Ngày 20/7/2019, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Mỹ lên tiếng phản
đối Trung Quốc và ủng hộ Việt Nam, trong khi các nước khác là đối tác chiến
lược vẫn chưa lên tiếng. Tuy lập trường của Trung Quốc trái với luật biển quốc
tế (UNCLOS 1982) và phán quyết của PCA 2016, nhưng truyền thông của họ hoạt
động hiệu quả hơn.
Ngày 24/7/2019, Trung
Quốc đã công bố Sách Trắng có tựa đề “Quốc phòng Trung Quốc trong kỷ nguyên
mới”, trong đó cáo buộc “Mỹ đang làm phức tạp thêm tình hình Biển Đông”. Đây là
Sách Trắng mới của Trung Quốc (kể từ năm 2015), trong khi Việt Nam vẫn chưa có
Sách Trắng mới (kể từ năm 2009). Riêng về Biển Đông, Sách Trắng mới của Trung
Quốc đã khẳng định “tình hình nhìn chung vẫn ổn định và đang cải thiện, trong
khi các nước đang điều tiết những mối nguy cơ và sự khác biệt một cách hợp lý”.
Ngày 26/7/2019, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Trung Quốc còn lên tiếng chỉ
trích Việt Nam (như “kẻ cướp la làng”).
Gần đây, hội nghị các
bộ trưởng quốc phòng ASEAN (ADMM-13) tại Bangkok (11/7/2019) đã không đề cập
đến Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông, và tàu hải cảnh của họ vi phạm vùng EEZ
của Philippines, Malaysia, và Việt Nam. Tình hình Biển Đông căng thẳng do Trung
Quốc bắt nạt các nước khu vực, nhưng họ vẫn khẳng định “đang có hòa bình và ổn
định tại Biển Đông, không cần nước ngoài can thiệp”. Hội nghị ngoại Trưởng
ASEAN (31/7/2019) tuy ra được tuyên bố chung về Biển Đông, nhưng không nêu tên
Trung Quốc.
Đằng sau việc cho tàu
hải cảnh quấy rối và đe dọa hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam tại bãi Tư
Chính, Trung Quốc còn có một thông điệp nữa là không ai có thể thăm dò và khai
thác dầu khí tại “vùng biển tranh chấp” nếu không có sự đồng ý của họ. Nói cách
khác, trong khi Trung Quốc chưa thể khai thác nguồn dầu khí tại đây, thì cũng
không ai được đụng tới. Ý đồ của Trung Quốc là biến bãi Tư Chính (nằm trong vùng
EEZ của Việt Nam) thành “vùng biển tranh chấp” và áp đặt “đường lưỡi bò” để
kiểm soát như cái ao nhà của họ.
Trung Quốc chắc nhận
thấy rằng cứ bắt nạt và cưỡng ép từng nước sẽ có kết quả, với chiến thuật “bẻ
từng chiếc đũa” như “tầm ăn dâu” để thay đổi nguyên trạng trên thực địa và biến
nó thành “chuyện đã rồi” trong một “vùng xám” (grey area) mà họ có lợi thế so
sánh tại Biển Đông. Chắc Trung Quốc sắp tới sẽ tiếp tục bắt nạt Việt Nam
để đạt được mục tiêu, bất chấp phản ứng của các nước dựa trên luật quốc tế.
Chính sách bành trướng của Trung Quốc không hề thay đổi, vì họ chưa bao giờ tôn
trọng luật quốc tế hay tuân thủ phán quyết PCA.
Việt Nam có 67 lô dầu
khí thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, nhưng trong “đường
lưỡi bò” (phi pháp) mà Trung Quốc áp đặt. Lần trước (2017-2018), Việt Nam đã im
lặng chịu thua Trung Quốc ép EVN-Repsol ngừng dự án “Cá Kiếm Nâu” (lô 136-01)
và Cá Rồng Đỏ” (lô 07-05). Lần này, Trung Quốc định quấy rối, ép PVN-Rosneft
ngừng dự án “Lan Tây-Lan đỏ” (lô 06-01). Nếu Việt Nam để mất 2 lô này (hay chấp
nhận chia đôi với Trung Quốc), thì sẽ mất thêm nhiều lô khác, vì tham vọng độc
chiếm Biển Đông của họ.
Tại hội thảo lần thứ 9
về Biển Đông (CSIS, July 24, 2019), Greg Poling (AMTI Director/CSIS) nói rằng
nếu Mỹ và các nước khu vực không cứng rắn, thì vài năm tới Trung Quốc sẽ kiểm
soát được Biển Đông. Trong khi Malaysia và Việt Nam đã chuyển thái độ từ im
lặng nay lên tiếng mạnh mẽ và tiếp tục khai thác dầu khí, bất chấp Trung Quốc
quấy rối và đe dọa, thì Philippines vẫn tỏ ra mềm yếu, không dám lên tiếng phản
đối Trung Quốc. Theo Poling, nếu kháng cự thì Bắc Kinh sẽ lùi bước, nên “Cách
tốt nhất để giảm thiểu rủi ro không phải là không làm gì cả, mà là củng cố quan
hệ đồng minh với Mỹ. Philippines cần làm rõ bất kỳ một cuộc tấn công nào của
Trung Quốc vào Philippines sẽ dẫn đến can thiệp của Mỹ, đồng thời kiên trì
khẳng định chủ quyền của mình để Trung Quốc hiểu rằng bắt nạt không có kết
quả”.
Theo Bonnie Glaser
(senior advisor/CSIS), Việt Nam không có hiệp ước phòng thủ tương hỗ với Mỹ nên
dễ bị Trung Quốc bắt nạt (mà Mỹ không làm gì được). Dù Mỹ có lên tiếng mạnh mẽ
nhưng chưa đủ buộc Trung Quốc rút tàu về. Chắc Trung Quốc đánh giá thấp phản
ứng của Việt Nam. Nếu họ không rút tàu về thì Việt Nam có thể kiện ra tòa và có
thể thắng kiện. Việt Nam nên hợp tác chặt chẽ hơn với Mỹ về quân sự, dù Mỹ
không từ bỏ lập trường trung lập đối với tranh chấp chủ quyền Biển Đông. Chính
quyền Trump đang “mở rộng phạm vi định nghĩa về lợi ích của Mỹ trong khu vực”,
để bảo vệ quyền hợp pháp của các nước tại Biển Đông. Bonnie Glaser cho rằng
điều này rất quan trọng đối với Việt Nam và Philippines.
Khi Trung Quốc cho tàu
hải cảnh đến vùng biển Malaysia để quấy rối hoạt động của giàn khoan Sapura
Esperanza (ngoài khơi bãi cạn Luconia), báo chí chính thống của Malaysia lúc
đầu cũng không đưa tin (mà chỉ có mạng xã hội lên tiếng). Tại Việt Nam cũng
vậy, lúc đầu Hà Nội cũng chỉ đạo báo chí trong nước im lặng (đến 19/7/2019).
Dường như Malaysia và Việt Nam lúc đầu “không muốn làm to chuyện”, để âm thầm
giải quyết với Trung Quốc.
Vì vậy tuy đối đầu
(standoff) tại khu vực bãi Tư Chính lần này (7/2019) cũng nghiêm trọng không
kém lần trước (5/2014) nhưng có một nghịch lý là lòng yêu nước và tinh thần dân
tộc của người Việt dường như đã bị tổn thương (và “diễn biến”) nên cũng “tiến
thoái lưỡng nan”. Phải chăng vì vậy mà người dân lần này chỉ “biểu tình trên
mạng” chứ không bức xúc xuống đường như lần trước? Nếu đúng vậy thì đây là một
nghịch lý đáng báo động.
Theo Lê Thu Hương
(ASPI/ANU), vừa qua Việt Nam đã giữ im lặng khá lâu và không cho báo chí đưa
tin vì mấy lý do. Một là Hà Nội muốn kiểm soát tâm trạng bức xúc của người dân
Việt Nam vốn ghét Trung Quốc, có thể bùng phát thành biểu tình dẫn đến bạo động
như năm 2014 (vì sự kiện dàn khoan HD-981). Hai là Hà Nội hy vọng có thể vận
động Mỹ và các nước khác lên tiếng phản đối Trung Quốc và ủng hộ Việt Nam.
Nhưng từ năm 2018, khi Việt Nam quyết định hoãn triển khai 15 thỏa thuận hợp
tác với Mỹ (chắc để làm vừa lòng Trung Quốc) thì hợp tác quốc phòng Mỹ-Việt
(năm 2019) dường như đang chững lại.
Theo Đô đốc Scott
Swift (former Pacific Fleet Commander), tuy những hoạt động tuần tra vì tự do
trên biển (FONOP) của tàu chiến Mỹ tại Biển Đông là cần thiết, nhưng lâu nay
không hiệu quả vì không gắn kết với một chiến lược lớn mang tầm quốc gia. Scott
Swift cho rằng tuần tra FONOP cần tiến hành cách nhau “4 tuần một lần”, chứ
không phải “6 tuần một lần” như hiện nay, và nên công bố kế hoạch tuần tra
FONOP “ba tháng một lần”, chứ không phải “mỗi năm một lần” như hiện nay. Nhưng
ông cũng cho rằng hải quân Mỹ không nên tham gia bảo vệ các hoạt động thăm dò
hay khai thác dầu khí của các nước khu vực.
Để răn đe các hành
động đe dọa xâm lấn và bắt nạt các nước láng giềng của Trung Quốc tại Biển Đông
và biển Hoa Đông, “Dự luật Trừng phạt vì Biển Đông và biển Hoa Đông” đã được 13
Thượng nghị (của cả hai đảng) do TNS Marco Rubio đưa ra Quốc Hội (23/5/2019).
Một khi được thông qua, luật này sẽ là một công cụ hữu hiệu để răn đe Trung
Quốc phải nghĩ lại trước khi có hành động vi phạm luật. Sau vụ đối đầu tại bãi
Tư Chính, ngày 26/7/2019, ông Eliot Engel (Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện
Mỹ) đã lên án “sự hung hăng của Trung Quốc tại Biển Đông đang đe dọa Việt Nam
và coi thường luật pháp quốc tế”.
Khủng
hoảng sông Mekong
Sông Mekong dài
4.800km có hệ sinh thái đa dạng thứ hai thế giới (chỉ sau Amazon), nhưng có quá
nhiều đập thủy điện đã làm dòng sông bị kiệt quệ và biến dạng, đe dọa cuộc sống
gần 60 triệu dân trong lưu vực sông Mekong. Riêng Trung Quốc đã làm 11 đập thủy
điện lớn trên thượng nguồn (Lan Thương) sản xuất tới 21.300 megawatt, trong khi
Lào có 64 đập thủy điện (nhưng nhỏ hơn) sản xuất được 6.000 megawatt. Theo các
chuyên gia về môi trường, “Trung Quốc đang kiểm soát hoàn toàn sông Mekong”
(Reuters 24/07/2019).
Năm 2016, Trung Quốc
đã bất ngờ giảm lưu lượng nước từ thượng nguồn, làm mực nước sông Mekong giảm
xuống thấp tới mức kỷ lục, gây ra hạn hán lớn tại đồng bằng sông Cửu Long. Đến
tháng 7/2019, Trung Quốc lại bất ngờ giảm lưu lượng nước, lấy cớ phải bảo trì
mạng tải điện, làm nguồn nước chỉ còn một nửa (thấp nhất từ trước đến nay).
Thực ra, sau sự kiện Bãi Tư Chính, Trung Quốc có thể đóng tất cả các đập trên
thượng nguồn.
Lâu nay, người ta
thường đề cập đến 3 nguyên nhân chính làm giảm thiểu nguồn nước sông Mekong.
Một là hạn hán do lượng mưa quá ít như hệ quả của biến đổi khí hậu (hiện tượng
el nino). Hai là giảm lượng nước xả ra từ đập thủy điện Cảnh Hồng (Vân Nam,
Trung Quốc). Ba là kế hoạch tích nước lại để chạy thử máy phát điện tại đập
Xayaburi (Lào). Đó là mối đe dọa thường trực đối với đồng bằng sông Cửu Long
(như quả bom nổ chậm).
Tại Trung Quốc, ngoài
11 dự án thủy điện lớn tại Vân Nam (như Cảnh Hồng), họ còn làm thêm 20 dự án
nữa. Tại Lào, ngoài mấy dự án lớn như Xayaburi (năm 2012 bị kiện) hay Don
Sahong và Pak Beng, từ 4/2019 Lào đang làm tiếp dự án Pak Lay trên dòng chính
của sông Mekong. Kết quả là hàng chục triệu dân sống trong lưu vực sông Mekong
đang trở thành nạn nhân của thiên tai (biến đổi khí hậu) và nhân họa (do làm
quá nhiều đập thủy
điện).
Theo Ủy Ban sông
Mekong (Mekong River Commission), mực nước sông Mekong đang ở mức thấp nhất
trong lịch sử. Theo báo cáo của Cục Khí tượng và Thủy văn Lào (18/7/2019) mực
nước sông Mekong tại Vientiane thấp nhất trong vòng 50 năm qua. Bangkok Post
(16/7/2019) đưa tin mực nước sông Mekong ở Thailand đã giảm xuống mức thấp nhất
trong vòng 100 năm qua. Hệ quả khủng khiếp của tình trạng đó là nguy cơ hạn hán
lớn (do thiếu nước từ thượng nguồn) và ngập mặn (từ Biển) đang đe dọa đồng bằng
sông Cửu Long.
Các đập thủy điện (tại
Trung Quốc và Lào) không chỉ làm giảm lưu lượng nước, gây ra hạn hán, mà còn
làm giảm lượng phù sa cho đồng bằng sông Cửu Long, gây xói mòn và làm ngập mặn
vùng đồng bằng ven biển. Theo giới khoa học, thuỷ điện không phải là năng lượng
tái tạo và không sạch vì khí thải vô hình từ lòng hồ nhả ra nhiều (ngang với
điện than). Theo một báo cáo của tổ chức OXFAM, tổn thất kinh tế do các đập
vùng hạ lưu là 7 tỉ USD.
Có thể nói, sự sống
còn của hai vùng kinh tế trọng điểm là đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên,
với khoảng 23% tổng dân số cả nước và gần 60% tổng lưu lượng dòng chảy hàng năm
ở Việt Nam, đang bị đe dọa bởi thiên tai và nhân họa. Sông Mekong không chỉ là
vấn đề của Việt Nam với Trung Quốc mà còn là một vấn đề của “Tiểu vùng Mekong”
(Mekong sub-basin). Nói cách khác, đây là một vấn đề lớn có ý nghĩa chiến lược
tại khu vực “Indo-Pacific”, vì vậy các nước “tứ cường” (Mỹ, Nhật, Úc, Ấn
Độ) có vai trò rất quan trọng.
Hệ
quả đối đầu Mỹ-Trung
Sự biến động trong
quan hệ Mỹ-Trung, từ hợp tác chiến lược chuyển sang đối đầu chiến lược, đang
làm đảo lộn chính trị quốc gia và trật tự thế giới. Quá trình đó còn đang định
hình và chưa ổn định trong thời kỳ quá độ. Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung là
trò chơi quyền lực trong thời kỳ quá độ, mà thời gian, không gian, và hệ quả
chưa xác định. Trong bối cảnh đó, tuy Việt Nam “vừa có lợi vừa có hại”, nhưng
nếu không khéo sẽ “lợi bất cập hại”.
Theo Bloomberg và
Politico (29/7/2019), chính quyền Trump đã nói rõ với Việt Nam rằng họ “phải có
biện pháp để giảm mức thâm hụt thương mại” (gần 40 tỷ USD năm 2018, tăng gấp
đôi so với năm 2014). Theo Lighthizer (USTR) “các doanh nghiệp Mỹ đang đối mặt
với một loạt các rào cản thương mại ở Việt Nam”. Trước đó, Tổng thống Trump đã
gọi Việt Nam là nước “lạm dụng thương mại tồi tệ nhất”. (Fox News, 26/6/2019).
Chỉ số thâm hụt thương mại là một trong những điều kiện để Việt Nam có thể rơi
vào nhóm các nước thao túng tiền tệ đối với Mỹ, và trở thành mục tiêu tiếp theo
bị Mỹ áp thuế cao (sau Trung Quốc).
Theo Minxin Pei, “thay
đổi quan trọng nhất là Mỹ áp dụng lập trường đối đầu với Trung Quốc. Cách tiếp
cận đó của Trump thay thế cho chính sách hợp tác kéo dài nhiều thập kỷ, không
chỉ dẫn đến một cuộc chiến tranh lạnh về kinh tế giữa hai nền kinh tế lớn nhất
thế giới mà còn làm dấy lên nỗi ám ảnh về xung đột vũ trang ở Biển Đông và Eo
biển Đài Loan”. (“The US Needs to
Talk About China”, Minxin Pei, Project Syndicate, July 22, 2019).
Nhưng đó không chỉ là
quan điểm riêng của Trump mà các quan chức an ninh quốc gia và các nghị sĩ hàng
đầu của Đảng Cộng hòa và Dân chủ cũng coi Trung Quốc là mối đe dọa lâu dài và
nghiêm trọng nhất đối với vị thế toàn cầu và lợi ích sống còn của Mỹ. Tuy thuế
quan của Mỹ có thể tập trung vào mục tiêu làm suy yếu tiềm năng kinh tế lâu dài
của Trung Quốc, nhưng động lực cơ bản vẫn là làm suy yếu vị thế chiến lược của
quốc gia này.
Về kinh tế, các biện
pháp thuế quan của Trump có thể gây tổn hại cho nền kinh tế Mỹ vì chúng làm đổ
vỡ mối quan hệ kinh tế đã được xây dựng hơn bốn thập kỷ qua. Nhưng về chiến
lược, chính sách Trung Quốc của Trump hoàn toàn đối địch với Trung Quốc. Sự
thay đổi cơ bản này đã gây bức xúc cho một số học giả về Trung Quốc và các nhà
hoạch định chính sách giàu kinh nghiệm của các chính quyền trước. Gần 100 người
trong số đó, bao gồm cả Đảng Cộng hòa và Dân chủ, cũng như những người hay chỉ
trích chính sách và hành vi của Trung Quốc, vừa gửi một bức thư ngỏ kêu gọi
Trump “không nên coi Trung Quốc là kẻ thù”.
Tuy đa số người Mỹ ủng
hộ Trump chống Trung Quốc như “đồng thuận quốc gia mới”, nhưng họ muốn Trump lý
giải chính sách Trung Quốc của Mỹ. Trong một thể chế dân chủ như nước Mỹ, với
một cộng đồng có dân trí cao, người Mỹ không dễ dàng nhắm mắt tin vào quyết
định của một tổng thống như Trump, nhất là về chiến lược đối với Trung Quốc.
Đây là vấn đề hệ trọng không chỉ đối với vận mệnh nước Mỹ mà còn với trật tự
thế giới.
Theo một khảo sát gần
đây của Pew (tháng 8/2018), chỉ có 38% người Mỹ nhìn nhận tích cực về Trung
Quốc, trong khi có tới 47% người Mỹ nhìn nhận tiêu cực. Chỉ có 29% người Mỹ
được hỏi cho rằng sức mạnh quân sự của Trung Quốc là nguyên nhân chính làm cho
họ lo ngại, trong khi có tới 58% người Mỹ được hỏi lo lắng về sức mạnh kinh tế
của Trung Quốc. Điều đó chứng tỏ trong mắt của đa số người Mỹ, mục tiêu chính
của quan hệ với Trung Quốc là bảo vệ lợi ích kinh tế, chứ không phải để bắt đầu
một cuộc đối đầu về địa chính trị.
Nhưng một cuộc đối đầu
về địa chính trị dường như chính là điều mà chính quyền Trump đang muốn tạo ra,
làm cho sự thay đổi chính sách Trung Quốc của Mỹ diễn ra ngoài tầm giám sát của
người dân vì không có tranh luận. Theo Minxin Pei, Một cuộc tranh luận như vậy
là hết sức cần thiết vì phần lớn người Mỹ không biết về mức độ thay đổi trong
chính sách về Trung Quốc của Mỹ. Hệ quả lâu dài của nó khiến Mỹ có nguy cơ rơi
vào một cuộc xung đột không biết bao giờ kết thúc. Trong một nền dân chủ, chính
phủ không thể theo đuổi một cuộc đấu tranh lâu dài với kẻ thù địa chính trị mà
không có sự ủng hộ lâu bền của dân chúng.
Để cuộc tranh luận
đáng tin, chính quyền Trump phải trả lời mấy câu hỏi quan trọng về chính sách
Trung Quốc. Đầu tiên và quan trọng nhất là mục tiêu tối hậu của chính sách đó
là gì? Câu trả lời có thể bao gồm cách làm thay đổi hành vi và chính sách nhất
định của Trung Quốc để ngăn chặn sức mạnh kinh tế và quân sự của họ (hoặc thay
đổi chế độ của họ). Chính quyền Trump còn phải lý giải cách để đạt được các mục
tiêu trên. Liệu chủ trương “tách rời kinh tế” (economic decoupling) được ưu
tiên bởi những quan chức diều hâu về Trung Quốc trong chính quyền Trump, có
phải là một chiến lược hiệu quả và khả thi không?
Các tác giả của bức
thư ngỏ cho rằng những nỗ lực của Mỹ nhằm tách Trung Quốc khỏi nền kinh tế toàn
cầu “sẽ làm tổn hại vai trò và uy tín quốc tế của Mỹ, và làm suy yếu lợi ích
kinh tế của tất cả các quốc gia”. Liệu Mỹ có thể thuyết phục được các nước khác
bao gồm các đồng minh truyền thống, ủng hộ những nỗ lực đó hay không, hay Mỹ
sẵn sàng đơn phương hành động? Những người ký bức thư ngỏ gồm các nhà kinh tế,
chính trị, và tư tưởng nổi tiếng, đưa ra một tuyên bố có đầy đủ cơ sở, cho thấy
quan điểm chung của họ về Trung Quốc. Đã đến lúc chính quyền Trump phải làm rõ
tầm nhìn và mục tiêu của mình.
Bức
tranh địa chính trị
Về chính trị, Trump
đang có lợi thế sau khi kết quả điều tra và điều trần của Robert Mueller làm
tiêu tan hy vọng của phe Dân Chủ muốn luận tội ông (về quan hệ với Nga). Sắp
tới, để đối phó với Trung Quốc và Bắc Triều Tiên, Trump có thể tăng cường chơi
“lá bài Nga”. Kinh tế Mỹ đang phát triển tốt là một lợi thế lớn của Trump đối
với cử tri Mỹ (dù họ thích hay ghét Trump). Về đối ngoại, chính sách về Trung
Quốc của Trump được sự “đồng thuận quốc gia” của lưỡng đảng và quốc hội cũng
như nhiều người Mỹ có tâm trạng “bài Trung”.
Trong “bức thư ngỏ”,
gần 100 nhân sỹ Mỹ không phản đối chính sách Trung Quốc của Trump (về chiến
lược), mà chỉ muốn Trump lý giải và mềm dẻo (về chiến thuật), đừng coi Trung
Quốc là kẻ thù và đừng đối xử quá rắn với các đồng minh truyền thống, làm cho
Mỹ bị cô lập. Nhưng với chủ trương “dọn sạch bãi lầy Washington”, Trump đã làm
mất lòng nhiều người trong giới trí thức và báo chí Mỹ. Đây không phải lần đầu,
cũng không phải lần cuối họ lên tiếng chỉ trích Tổng thống Trump trong một cuộc
tranh luận lớn (national debate).
Theo Elizabeth Economy
(CFR) “thay đổi chính trị là một trò chơi lâu dài, và trò chơi đó chưa kết
thúc” (Political change is a long game, and the game is not over). Còn Ali Wyne
(RAND) cho rằng “Washington sẽ khôn ngoan nếu hiểu nguy cơ tất yếu: chấp nhận
số phận đóng vai hiện thực. Mỹ và Trung Quốc không thể che đậy mãi sự khác
biệt”. (“America’s China Policy hasn’t failed, but it needs to be
recalibrated”, Ali Wyne, WPR, May 2018).
Dù kết cục tranh luận
thế nào, đối đầu Mỹ-Trung vẫn là vấn đề quốc tế nổi bật trong thế kỷ này khi
chiến tranh thương mại tiếp tục theo quy luật “vừa đánh vừa đàm”. Trong khi vấn
đề Bắc Triều Tiên đang “giảm nhiệt”, do xu thế hoà hoãn (với Mỹ) và hòa giải
(với Hàn Quốc), thì vấn đề Biển Đông và Đài Loan đang “tăng nhiệt” như thùng
thuốc súng. Đó là hai điểm nóng có nhiều rủi ro trong cuộc đối đầu Mỹ-Trung tại
khu vực Indo-Pacific.
Sau khi quân sự hóa và
củng cố được các tiền đồn tại Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Quốc đã lấn chiếm,
gây căng thẳng tại Scaborough & Thị Tứ (Philippines) và bãi Tư Chính (Việt
Nam). Đó là 2 vị trí xung yếu mà họ tìm cách thâu tóm, vì vậy phải coi bãi Tư
Chính là “làn ranh đỏ” (red line) như Scaborough. Nếu Trung Quốc làm chủ được
bãi Tư Chính, họ sẽ kiểm soát được Biển Đông, khống chế khu vực Indo-Pacific,
và tiến tới thống trị thế giới.
Tại Campuchia, Trung
Quốc tìm cách thâu tóm các vị trí xung yếu, như Sihanoukvilles và Koh Kong (có
căn cứ hải quân Ream và sân bay Dara Sakor). Tại Việt Nam, họ tìm cách thâu tóm
Tây Nguyên, Vũng Áng, Vân Đồn, Vân Phong, Phú Quốc. Trung Quốc còn gây sức ép
với các nước láng giềng để làm các dự án hạ tầng lớn có ý nghĩa chiến lược (như
đường cao tốc Bắc-Nam tại Việt Nam). Các đặc khu và dự án hạ tầng lớn này nằm
trong “sáng kiến Vành đai Con đường” (BRI) nhằm thực hiện ý đồ chiến lược lớn
của Trung Quốc.
Điều đáng lưu ý là
Trung Quốc gây căng thẳng trong bối cảnh TBT/CTN nguyễn Phú Trọng có kế hoạch
đi thăm Mỹ (trong mấy tháng tới). Liệu sức ép này của Trung Quốc có đủ sức ngăn
cản chuyến đi đó không, sau khi Thủ Tướng và Chủ Tịch Quốc Hội Việt Nam đã đi
thăm Trung Quốc, như một cách bày tỏ thiện chí để cân bằng quan hệ với hai nước
lớn. Nếu Trung Quốc gây sức ép mạnh hơn, liệu Việt Nam có sẵn sàng ngả hẳn theo
Mỹ? Liệu năm 2019 có chứng kiến một bước ngoặt mới khi Việt Nam quyết điều
chỉnh chiến lược và đổi mới lần hai, hay vẫn “tiến thoái lưỡng nan” và tìm cách
giữ thăng bằng giữa hai nước lớn?
Gần đây, nhiều người
Việt lập luận rằng Việt Nam phải dựa vào Mỹ làm đối trọng với Trung Quốc, nhưng
nhiều người khác cho rằng Việt Nam phải dựa vào nội lực của mình, không thể dựa
vào nước khác. Năm 1974, Mỹ không cứu đồng minh khi Trung Quốc đánh chiếm Hoàng
Sa, và năm 1988, Nga cũng không cứu đồng minh khi Trung Quốc đánh chiếm Trường
Sa. Tuy hai lập luận trên đều có lý nhất định, nhưng không nên đơn giản hóa vấn
đề mà khẳng định hay phủ định vai trò của đồng minh, vì “chỉ có lợi ích quốc
gia là vĩnh viễn”.
Việt Nam đã sai lầm
khi cô đơn và âm thầm đối đầu với Trung Quốc như vừa qua (7/2019) cũng như
trước đây (7/2017 và 3/2018). Ngày 3/7/2014, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt
Nam đã nói: “Việt Nam không loại trừ các biện pháp pháp lý và Việt Nam sẽ cân
nhắc kỹ lưỡng thời điểm thích hợp để khởi kiện Trung Quốc”. Nhưng 5 năm
qua, Việt Nam vẫn chưa kiện Trung Quốc, làm cho họ càng lấn tới. Dù Trung Quốc
không tôn trọng phán quyết của PCA, nhưng kiện là cơ sở tốt để đấu tranh pháp
lý và truyền thông. Dư luận khuyên Việt Nam quốc tế hóa vấn đề Biển Đông và
kiện Trung Quốc ra PCA (như Philippines) trước khi quá muộn. Theo Alexander
Vuving (APCSS/Hawaii) nếu Việt Nam kiện sẽ thắng 100%.
ASEAN và “Tứ cường”
(Mỹ, Nhật, Úc, Ấn) cần lên tiếng kịp thời và hành động mạnh mẽ để bênh vực Việt
Nam khi bị Trung Quốc bắt nạt. Biển Đông không chỉ là không gian sinh tồn
của Việt Nam (và mấy nước ven biển) mà còn là nơi hội tụ lợi ích chiến lược của
các nước khác. ExxonMobil và PVN cần triển khai sớm dự án Cá Voi Xanh (lô
118) và liên kết với các đối tác khác (như Nhật, Úc, Ấn) để cùng khai thác dầu
khí tại bãi Tư Chính “bất chấp Trung Quốc” như ông John Bolton (cố vấn An
ninh Quốc gia) đã tuyên bố (17/10/2018).
Thay
lời kết
Bàn cờ Biển Đông giống
như “cờ vây” (Weiqi) nên rất khó chơi. Mỹ và Trung Quốc tuy đối đầu (về chiến
lược) nhưng vẫn vờn nhau “vừa đánh vừa đàm” (về chiến thuật). Việt Nam tuy có
quan hệ đối tác chiến lược với 12 nước, nhưng khi bị bắt nạt bởi Trung Quốc (là
một “đối tác chiến lược toàn diện”) thì vẫn cô đơn, không có đồng minh thực sự
để bênh vực. Đó là một sự thật trớ trêu và là một nghịch lý đáng xem lại về
nguyên tắc “ba không”.
Muốn tìm giải pháp khả
thi để Việt Nam thoát hiểm lúc này rất khó (như một nghịch lý). Việt Nam vừa
phải tránh ngộ nhận (nhầm lẫn chiến lược với chiến thuật, mục tiêu với phương
tiện), vừa phải khôn khéo chơi cờ thế (hedging) để từng bước thoát Trung. Người
Việt phải coi lợi ích quốc gia là trên hết, vì sa vào lợi ích nhóm sẽ tự phân
hóa và làm triệt tiêu sức mạnh tiềm tàng của dân tộc. Sau khi TBT/CTN Nguyễn
Phú Trọng đã đặt “3 vấn đề cốt lõi” lên bàn, và sau “cú sốc bãi Tư Chính”, liệu
Việt Nam còn “tiến thoái lưỡng nan”? Phải chăng đã đến lúc Việt Nam phải quyết
điều chỉnh chiến lược và cải tổ thể chế, trước khi quá muộn.
Tham
khảo
1. “America’s China
Policy hasn’t failed, but it needs to be recalibrated”, Ali Wyne, May 2018, in
“US-China Rivalry in the Trump Era”, WPR Report, October 2018.
2. “Vietnam Is the Chinese Military’s Preferred Warm-Up Fight”, Derek Grossman, Diplomat, May 14, 2019.
3. “The US Needs to Talk About China”, Minxin Pei, Project Syndicate, July 22, 2019.
4. “Beijing’s South China Sea stance is driving Vietnam into America’s arms”, Le Hong Hiep, South China Morning Post, July 25, 2019.
5. Presentations at the 9th Seminar on the South China Sea, CSIS, July 24, 2019.
6. “Here’s How China and America’s Missiles in the South China Sea Stack Up”, David Axe, National Interest, July 31, 2019.
2. “Vietnam Is the Chinese Military’s Preferred Warm-Up Fight”, Derek Grossman, Diplomat, May 14, 2019.
3. “The US Needs to Talk About China”, Minxin Pei, Project Syndicate, July 22, 2019.
4. “Beijing’s South China Sea stance is driving Vietnam into America’s arms”, Le Hong Hiep, South China Morning Post, July 25, 2019.
5. Presentations at the 9th Seminar on the South China Sea, CSIS, July 24, 2019.
6. “Here’s How China and America’s Missiles in the South China Sea Stack Up”, David Axe, National Interest, July 31, 2019.
N.Q.D.
1/8/2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét