Bài của Đặng Văn Sinh
Khi mà tín ngưỡng phục hồi, đền
chùa đồng loạt trùng tu tân tạo càng nhiều thì tầng lớp sư sãi, thày bùa, đồng
cốt càng gia tăng để phục vụ nhu cầu tâm linh của các thượng đế thời MẠT PHÁP.
Với hơn chín chục triệu chúng sinh đang chìm đắm nơi sông mê bến lú, trong số
ấy, không ít kẻ mang trên vai gánh nặng nghiệp chướng vì tội báo hại đồng bào,
đang ngày đêm muốn cầu thần phật giải thoát. Các nhà cai trị lúc này nắm được
tâm lý đám đông đang rã hàng, bèn nhanh tay chớp thời cơ như một thứ vũ khí
tinh thần lợi hại để "định hướng" phần hồn của họ. Khẩu hiệu
"Tốt đời đẹp đạo" cần được hiểu từ nguyên nhân sâu xa của nó.
Phật giáo quốc doanh luôn được
xem như một tổ chức chính trị xã hội ngoại vi của nhà nước toàn trị, mà ở bất
cứ cấp nào, chính quyền cũng có thể thao túng bằng cách đưa người của mình vào
nắm giữ chức vụ chủ chốt. Chuyện sư được cơ cấu vào cơ quan lập pháp có vẻ như
nằm trong thuyết ÂM MƯU. Hòa thượng trên diễn đàn Quốc hội vung tay chém gió
rất hiếu chiến "Việt Nam cũng phải hiện đại hóa quân đội mạnh như Bắc
Triều Tiên" không phải là cá biệt. Có những hòa thượng vốn là nhân viên
công lực hàm cấp cao tót vời, khoác áo cà sa trụ trì ở những chùa lớn theo dõi
nhất cử nhất động của giới tăng ni phật tử.
Phật giáo bị quốc doanh hóa, ĐẠO
và ĐỜI lẫn lộn trắng đen nên mới có chuyện các chức sắc Hội Phật giáo một tỉnh
vùng Đồng bằng Bắc Bộ đấu đá nhau đến mức lén quay phim, chụp ảnh, ghi âm đưa
lên mạng xã hội những hành vi đồi bại mà ngay đến những kẻ đầu trộm đuôi cướp
cũng cảm thấy xấu hổ.
Có thể nói, sư trụ trì các chùa
làng chưa bao giờ hư hỏng như bây giờ. Hầu hết đại đức được bổ nhiệm đều còn ít
tuổi, học hành lởm khởm, đi tu như một cách kiếm sống, chứ ít người xuất phát
từ niềm tin và sự ngộ đạo. Công việc đầu tiên của một sư thầy mới về chùa là
đòi mua ô tô. Không hiếm trường hợp chùa nhỏ, dân địa phương nghèo, khó đáp ứng
nhu cầu vật chất, sư bỏ tự, về Tỉnh hội Phật giáo đòi chuyến đi nơi khác.
Sinh hoạt của thầy chùa thời @
cũng hiện đại lắm, khác xa các bậc cao tăng tu khổ hạnh ngày xưa. Ăn chay là ví
dụ một tháng đôi ba lần cho phải phép. Tôi đã chứng kiến một đại đức trụ trì
chủa Q.S. phường B "thụ trai" như thế nào (thầy này đã bị dân địa
phương làm đơn đuổi khỏi chùa vì có thành tích bất hảo nhưng không hiểu sao
chính quyền vẫn tìm cách giữ lại). Buổi sáng, một vãi già (có hôm là vãi non)
ra quán ăn gần đấy mua cho thầy tô phở bò. Buổi trưa và chiều, các bà phân công
nhau nấu cơm, đương nhiên thức ăn là phải có thịt cá. Còn bia thì vô tư. Lúc
nào trai phòng cũng trữ sẵn vài két. Thầy dùng xong, một phật tử rửa bát còn cô
vãi non pha nước dâng lên. Điều trớ trêu là, so về tuổi tác, sư chỉ vào hàng
hậu bối, nhưng bà nào cũng lễ phép gọi THẦY xưng CON!
Nói tóm lại, việc đời thầy rất
sành nhưng việc đạo thì ít khi mó tay trừ những lúc liên quan đến hòm công đức.
Chẳng hạn đến giờ thỉnh chuông, đã có hai ông già thay nhau chấp tác. Viết sớ,
giao cho bọn bợm nhậu mặt mũi gớm guốc, xăm trổ đầy mình. Đó cũng là đám đệ tử
ruột của sư mỗi khi thầy ra thành phố hát karaoke hay đóng cửa tăng phòng đánh
phỏm ăn tiền.
Nhà chùa bây giờ còn khối chuyện
đáng bàn mà một trong số đó là sư chủa H. cạy lưng tượng Phật tìm vàng và trầm
hương; hòa thượng và ni cô trẻ ôm eo nhau cưỡi xe máy lượn vòng vèo như đôi
tình nhân chính hiệu. Rồi sư bán trộm chuông chùa bị còng số tám, sư buôn ma
túy phải nhập kho... Đó là còn chưa kể đến sự trơ tráo của loại sư hổ mang ở
Thái Nguyên đem cả ca ve vào thiền phòng đánh bạc và hành lạc mà báo chí đã
đăng tin.
Sự diệt dục đối với các hòa
thượng quốc doanh thời nay chỉ là chuyện tầm phào. Cũng chính tôi đã được nghe
kể rành rọt về một vụ scandal cười ra nước mắt. Vào một đêm cuối thu, khoảng
đầu canh ba, sư H. trụ trì chùa T.M. nhận được cú điện thoại. Thế là vị đại đức
phóng ô tô hạ sơn đến trạm xá phường B. cách đấy hơn chục cây số. Nơi ấy có một
nữ y sĩ còn khá trẻ mới bỏ chồng đang trong cảnh phòng không gối chiếc. Sư ta
tưởng bở liền dùng thứ ngôn ngữ BẰNG TAY giao tiếp, ai ngờ bị đối phương cho
một bạt tai rồi hô hoán lên. Sau này mới rõ, hóa ra đó là cuộc gọi nhầm. Nàng y
sĩ gọi bạn tình, chẳng hiểu sao lại nhảy sang số của sư.
Hầu hết các đền chùa được tu sửa
hay xây mới đều hướng về một mục têu duy nhất là KINH DOANH THẦN THÁNH. Trong
đó, đứng đầu là chùa Bái Đính, Chùa Hoa Yên, Chùa Hun, đền Bà Chúa Kho, đền
Kiếp Bạc, thậm chí cả chùa Ba Vàng cũng không thoát khỏi sự cám dỗ của...hơi
đồng nên đã phù phép ra trò cúng vong “oan gia trái chủ” độc nhất vô nhị. Những
nơi này, các loại dịch vụ như tham quan, mua ấn, xóc thẻ, viết sớ, xin chữ, gửi
xe..., đều được bán vé với giá không rẻ. Tất cả nguồn thu đều bổ đầu khách thập
phương. Có điều đấy mới chỉ là hàng rào ngoại vi, còn bên trong nội điện thì
điểm nhấn là HÒM CÔNG ĐỨC. Loại này nhà chùa hay nhà đền không được ăn một mình
mà phải chia chác theo tỷ lệ với những quan chức bảo kê và chính quyền địa
phương trực tiếp quản lý di tích. Nghe nói chùa Bái Đính, mỗi ngày Ban Quản lý
thu về cả chục tỷ VND. Đền Bà Chúa Kho, đền Kiếp Bạc thu nhập có khiêm tốn hơn
nhưng cũng không ít hơn vài trăm triệu.
Vào mùa lễ hội sau tết Nguyên
Đán, là dịp cho các hòa thượng, đại đức, thầy cúng trổ tài làm phép tróc ma trừ
quỷ cho thiện nam tín nữ có nguyện vọng muốn DÂNG SAO GIẢI HẠN hoặc CẦU SIÊU.
Những "gói dịch vụ" này, nhẹ thì đôi ba triệu, còn nếu hoành tráng
thì khổ chủ chẳng ngại móc hầu bao vài ba trăm triệu để mua lấy sự bình yên sau
khi đã vướng vào nghiệt trái. Mọi hạng mục "cúng dàng" đều có giá của
nó. Không ai mặc cả với Phật. Vì thế các hòa thượng thi nhau chặt chém mà lương
tâm (nếu còn một chút) chả cần phải áy náy.
Giới tăng lữ Phật giáo đều mang
họ THÍCH. Họ này bắt nguồn từ Trung Quốc truyền sang Việt Nam từ cả ngàn năm
trước. Sau khi nhập tự, xuống tóc, mỗi tăng ni được đặt cho một pháp danh. Ví
dụ như Thích Thanh Tứ, Thích Thanh Quyết, Thích Trí Quang, Thích Diệu Tâm
v.v... Đến đây lại có sự ngược đời. Hình như từ lâu, nội hàm của HỌ PHẬT đã bị
biến dạng trở thành một từ loại chỉ sự ham muốn của con người, được dân gian
hóa thành chuyện tiếu lâm là THÍCH ĐỦ THỨ. Mà kẻ mang danh là tu hành lại thích
đủ thứ thì cái đạo ấy gọi là đạo gì nếu không phải là ĐẠO TẶC?
Cuối cùng vẫn phải quay về chuyện
nhà tu hành THÍCH ĐỦ THỨ ở chùa Q.S., phường B đã nhắc đến ở phần trên. Vị đại
đức này có cái đức đáng quý là rất thích xem video "tươi mát", thích
chơi phỏm và năng lui tới các quán karaoke. Vì thích tiêu sài rộng rãi nên hòm công
đức lúc nào cũng rỗng thành ra nhiều khi đâm kẹt. Biết vậy, các vãi già, vãi
non bàn nhau "bí mật" bổ sung để nhà chùa đỡ "viêm màng
túi". Xem ra "thầy" cũng biết ý, thỉnh thoảng lại giả vờ bỏ quên
chiếc ví lép ở đầu giường.
Sư trẻ, mà các vãi, nhất là vãi
non lại quá "sùng đạo", tranh nhau chăm sóc thầy sinh ra bất hòa vì
ghen tức, đến nỗi sân chùa trở thành nơi khẩu chiến thường xuyên giữa các nữ
thí chủ. Lúc lâm trận, chẳng còn thứ từ ngữ thô tục nào họ không văng vào mặt
nhau giữa thanh thiên bạch nhật.
Đại loại một số chùa chiền, đền
phủ cùng sư sãi và đám tín đồ mê muội của đạo Thích Già thời MẠT PHÁP những nơi
tôi biết là như vậy. Có thể ở vùng trung châu này vẫn còn những ngôi chùa chưa
bị thương mại hóa, những bậc chân tu đạo cao đức trọng hiểu thấu lẽ huyền vi
của tạo hóa, nhưng phải mất nhiều công sức may ra mới tìm được. Buồn thay!
Tháng trọng
đông, ngày lành
Đ.V.S.
Đ.V.S.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét