Đạo Công giáo bắt đầu được du
nhập vào Việt Nam từ giữa thế kỷ XVI. Đến nay, cả nước có khoảng gần chục triệu
giáo dân, chiếm khoảng 10% dân số. Họ là người Việt. Đương nhiên. Và cũng đương
nhiên họ có nền tảng (yếu tố gốc rễ, bền vững) của văn hóa Việt, nhưng cơ tầng
(các biểu hiện bề nổi, khả biến) đã có nhiều điểm khác biệt so với bộ phận còn
lại của người Việt. Sự khác biệt đó, được quy định bởi sự khác biệt về đức tin,
về thế giới quan và nhân sinh quan. Cộng đoàn giáo dân đã sáng tạo nên một dòng
văn hóa mới trong lòng cộng đồng dân tộc/quốc gia Việt Nam. Đáng tiếc, từ bao
năm nay, dòng văn hóa này hầu như không được quan tâm nghiên cứu và quảng bá
đúng mức.
Nói như thế, không có nghĩa là
Công giáo Việt Nam không được nghiên cứu. Ngược lại, Việt Nam có hẳn một Ban
Tôn giáo Chính phủ, hai Viện Nghiên cứu Tôn giáo, và nhiều Trung tâm có chức
năng nghiên cứu tôn giáo. Các đơn vị này đều có bộ phận nghiên cứu về Catholic
Việt với nhiều cấp độ đề tài khác nhau (đề tài cấp nhà nước, cấp bộ, cấp cơ sở).
Nhiều công trình nghiên cứu về Công giáo Việt Nam đã được công bố. Nhiều luận
án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp đại học về Công giáo Việt
Nam đã được bảo vệ. Một số nhà nghiên cứu cũng quan tâm nghiên cứu, giới thiệu
các giá trị trong kiến trúc Công giáo Việt Nam. Thế nhưng, trên thực tế, văn
hóa của cộng đoàn giáo dân Việt Nam vẫn còn tương đối xa lạ với đa số công
chúng Việt. Vì sao vậy?
Hiểu theo cách đơn giản nhất, văn
hóa là tất cả những gì mà chủ thể ĐANG CÓ, ĐANG LÀM, và ĐANG NGHĨ. Vậy nhưng,
ngoại trừ các ấn phẩm giới thiệu kiến trúc nhà thờ gần với văn hóa học thuần
túy, hầu hết các công trình khác đều tiếp cận Công giáo Việt Nam dưới góc độ
chính trị - xã hội, những góc nhìn hẹp trong văn hóa học. Các nghiên cứu này
cũng chủ yếu tập trung vào mục đích "phát triển bền vững xã hội" theo
định hướng xã hội chủ nghĩa; tức là nghiên cứu để tìm kiếm các giải pháp
"thuần hóa cộng đoàn giáo dân" theo quan điểm của đảng. Các nghiên
cứu nhằm giới thiệu vẻ đẹp trong phong tục, tập quán, nếp sống, lối nghĩ,
phương thức ứng xử, và cấu trúc sinh hoạt thường ngày của giáo dân hầu như vắng
bóng. Ngoại trừ báo Người Công giáo Việt Nam, các tờ báo khác rất ít khi có bài
viết về đời sống giáo dân; nếu có, chủ yếu cũng là những bài viết về gương người
tốt việc tốt, ca ngợi các cá nhân giáo dân sống "tốt đời, đẹp đạo",
"kính Chúa yêu nước". Các bí tích của Công giáo vẫn là điều "bí
ẩn" đối với đa số bạn đọc.
Nếu không có mạng internet, không
có Google, không có website của các giáo phận, đến nay cộng đoàn Công giáo Việt
Nam vẫn là một ốc đảo xa lạ. Nhưng Google hay website của các giáo phận cũng
chỉ là kênh tra cứu. Nếu các nhà nghiên cứu vẫn theo định hướng như hiện nay,
văn hóa Công giáo Việt Nam vẫn là một thực thể đơn côi, lặng lẽ chảy bên cạnh
dòng văn hóa quốc gia/dân tộc, rất ít được hiểu biết tường tận.
Để hiểu biết về một dòng văn hóa, công chúng thường tiếp cận từ nhiều kênh thông tin khác nhau. Trên thực tế, số người đọc các nghiên cứu chuyên sâu không nhiều. Đa số nghe/đọc từ các kênh truyền thông đại chúng hoặc cảm nhận qua các tác phẩm văn học nghệ thuật. Chuyện này phổ biến cả ở Tây và Ta. Khác chăng là ở chỗ, trong các quốc gia có tự do báo chí và văn học nghệ thuật, các hiện tượng văn hóa luôn được nhìn từ nhiều chiều cạnh khác nhau. Ở Việt Nam thì không phải vậy. Sau 1954 ở miền Bắc, và sau 1975 trên cả nước, mọi hiện tượng văn hóa đều phải được nhìn nhận, phân tích, và đánh giá dưới quan điểm của Đảng. Dòng văn hóa Công giáo Việt Nam, nếu được nghiên cứu hay phản ánh trong văn học nghệ thuật, cũng không nằm ngoài mặc định đó.
Sự mặc định của Đảng và Nhà nước
vô hình trung đã trở thành một rào cản rất khó vượt qua trong việc phản ánh
hiện thực/bản chất đời sống văn hóa Công giáo Việt. Quan điểm của nhà thờ Công
giáo khác biệt rất lớn so với quan điểm chính thức của đảng cầm quyền. Vì thế,
hầu hết các tác giả là người Công giáo, nếu viết về các vấn đề gai góc của cộng
đoàn giáo dân, đều không thể xuất bản được các ấn phẩm của mình. Tuyệt đại đa
số tác giả viết/xuất bản về đời sống Công giáo Việt Nam đều là người ngoại đạo,
và ăn lương nhà nước. Hiện trạng được phản ánh trong các ấn phẩm của các tác
giả này không phải là toàn bộ sự thật, chưa chạm được đến những góc khuất trong
tâm hồn giáo dân.
Văn học nghệ thuật miền Nam thời
kỳ 1954-1975 tôi không dám bàn. Nhưng ở miền Bắc, sau 1954, dường như độc giả
chỉ biết nhiều nhất đến đời sống của cộng đoàn giáo dân thông qua "Xung
đột" của Nguyễn Khải, "Nắng" của Nguyễn Thế Phương, "Đội
công an số 6" của Văn Phan, "Bão biển" và "Đất mặn"
của Chu Văn, "Cuộc đời bên ngoài" của Vũ Huy Anh. Và một vài cuốn
nữa. Một số truyện ngắn của các tác giả khác hầu như bị rơi vào quên lãng ngay
sau khi xuất bản.
"Nắng" và "Đội
công an số 6" viết về cộng đoàn giáo dân thuộc giáo phận Phát Diệm thời kỳ
1945-1954. Xuyên suốt các tác phẩm này là cuộc đấu tranh giữa "các chiến
sĩ cách mạng" chống lại "bọn phản động đội lốt thầy tu". Hình
ảnh các giáo dân thiện lương tương đối mờ nhạt và họ luôn được thể hiện trong
tâm trạng giằng xé. Ám ảnh người đọc kinh khủng hơn, chính là hình ảnh các linh
mục mặc áo chùng thâm, xách súng đi càn quét, bắn giết.
"Xung đột", "Bão
biển" và "Đất mặn" viết về cộng đoàn giáo dân thuộc giáo phận
Bùi Chu những năm hợp tác hóa. Đa số chức sắc Công giáo được miêu tả trong 3 bộ
tiểu thuyết này đều là đại diện cho "các thế lực chậm tiến/phản động, luôn
âm mưu chống phá cách mạng, ngăn trở công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội".
Hình tượng các giáo dân có "tư tưởng tiến bộ, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã
hội" được xây dựng gượng gạo, thiếu chân thực.
Không thể phủ nhận rằng, thời kỳ
1946-1954, dưới quyền của Giám mục Lê Hữu Từ và linh mục Hoàng Quỳnh, giáo phận
Phát Diệm từng có một đội dân binh, được vũ trang đầy đủ, ủng hộ quân đội Pháp
và tham gia bộ máy quản lý địa phương. Đạo quân này từng làm mưa làm gió ở vùng
tây nam Ninh Bình, phối hợp với quân đội Pháp và quân đội quốc gia của quốc
trưởng Bảo Đại, tiến hành nhiều hoạt động quân sự, gây nhiều thiệt hại cho Việt
Minh và dân chúng. Nhưng nếu coi đó là những đại diện chính/tiêu biểu cho cộng
đoàn giáo dân hay bộ mặt của giáo phận, e rằng những người viết đã quá thiên
kiến và phiến diện.
Khi mới xuất bản, "Bão
biển" và "Đất mặn" cũng đã gây nên những cuộc tranh luận trên
văn đàn. Cả hai tác phẩm này đều gặp phản ứng quyết liệt của cộng đoàn giáo
dân. Mặc dù vậy, "Bão biển" vẫn được trích dẫn đưa vào sách giáo khoa
văn học giảng dạy trong nhà trường. Bộ phim chuyển thể từ "Bão biển"
có nhan đề "Ngày lễ thánh" bị tẩy chay ở hầu hết các vùng Công giáo.
Nhưng trong Liên hoan phim Việt Nam lần thứ IV (1977), "Ngày lễ
thánh" đã được trao giải Bông sen bạc.
"Bão biển" và
"Ngày lễ thánh" là những tác phẩm văn học nghệ thuật có ảnh hưởng lớn
nhất đến góc nhìn của những người ngoại đạo đối với văn hóa Công giáo Việt Nam.
"Cuộc đời bên ngoài"
của Vũ Huy Anh xuất bản vào đầu thập niên 1980, được giới văn nghệ đánh giá
tương đối tốt. Một vài nhà phê bình nhận định rằng, đây là tác phẩm văn học
viết về đề tài Công giáo thành công, chân thực, và miêu tả diễn biến tâm lý một
cách logic. Tuy nhiên, không thể phủ nhận một thực tế: những thông điệp chính
trị được tác giả thể hiện rất lộ liễu. (Cảm ơn lam hồng nguyễn đã nhắc, suýt
tôi quên không điểm đến quý ông Vũ Huy Anh).
Một cộng đồng ngót chục triệu tín
hữu, có chung đức tin, có lịch sử hơn 400 năm, hiển nhiên phải có một nền văn
hóa giàu có, phong phú và đa dạng. Vậy nhưng, ở Việt Nam, đa số công chúng
ngoại đạo dường như chỉ biết đến văn hóa Công giáo thông qua kiến trúc nhà thờ
và ngày Thiên Chúa giáng sinh (Noel). Nhà thờ là vật thể có thể nhìn thấy, có
thể cho chúng ta cơ hội chiêm ngưỡng vẻ đẹp của các phong cách kiến trúc khác
nhau trên thế giới mà không phải đi đâu xa. Noel từ nhiều năm nay đã là ngày
hội chung của cả nước, không phân biệt tôn giáo/tín ngưỡng. Với các bạn trẻ
ngoại đạo, Noel là cơ hội “xuống đường ăn chơi nhảy múa”, khoe quần áo đẹp. Họ
chả có đức tin gì, vui là chính. Điều ấy chả sao. Còn trẻ là phải vậy. Mai này
có gia đình, sấp mặt với cơm áo gạo tiền, tính sau.
Nhưng văn hóa Công giáo Việt
không chỉ có vậy. Đó còn là một nền tảng giáo lý có tính định hướng với niềm
tin tuyệt đối vào Thiên Chúa (ba ngôi). Đó còn là một hệ thống giáo luật chặt
chẽ với những điều khoản rất cụ thể, khắt khe nhưng không hà khắc. Đó còn là
một cấu trúc xã hội hoàn bị, bao gồm nhiều mắt xích khác nhau, cả quan phương
và phi quan phương. Tổ chức quan phương Công giáo gồm 3 cấp: giáo hội hoàn vũ
(Tòa Thánh), giáo hội địa phương (Tòa Giám mục) và giáo xứ. Trong hệ thống này,
còn có các mắt xích trung gian liên kết như giáo miền, giáo tỉnh, hạt đạo (giáo
hạt) và hội đồng giám mục. Cấu trúc phi quan phương dễ nhận thấy nhất là các
dòng tu, tu hội/tu đoàn.
Sâu xa hơn, rất rất ít người
ngoại đạo hiểu được, đó là các nguyên lý chính tạo nên cấu trúc sinh hoạt
thường ngày của các tín hữu Công giáo Việt: hiệp thông và phụng vụ. Hiệp thông
được hiểu là sự tham dự, chia sẻ, trao ban và lãnh nhận. Phụng vụ, thoạt kỳ
thủy chỉ được hiểu là “nghi thức phụng thờ Thiên Chúa”. Nhưng sau này, Tân ước
chỉ rõ, ngoài mối liên hệ với Thiên Chúa, phụng vụ còn bao hàm một nghĩa khác,
đó là “sự phục vụ trong anh em”. Nói một cách rõ ràng hơn, phụng vụ còn là “sự
tham dự, chia sẻ, trao ban và lãnh nhận” giữa các tín hữu với nhau (giữa người
với người). Đây chính là những điểm mấu chốt, quy định phương thức ứng xử hàng
ngày của mỗi giáo dân.
Theo giáo lý Công giáo, Chúa
Giê-su hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể. Và Người mời gọi mỗi tín hữu phải
luôn ý thức về ba sự hiện diện chính: (i) sự hiện diện của mỗi tín hữu đối với
Thiên Chúa, (ii) sự hiện diện của mỗi tín hữu đối với các tín hữu khác; và
(iii) sự hiện diện của mỗi tín hữu đối với thế giới thụ tạo. Như vậy, chúng ta
có thể hình dung rằng, trong cuộc sống của mình, mỗi tín hữu Công giáo đều có 3
điểm tựa chính: Thiên Chúa, đạo hữu, và “thế giới thụ tạo”. “Thế giới thụ tạo”
được nhắc đến ở đây chính là môi trường thiên nhiên quanh ta, cho chúng ta
những điều kiện sống cần thiết tối thiểu. Để đảm bảo cuộc sống luôn bình hòa,
ổn định và phát triển, hàng ngày mỗi tín hữu thường xuyên phải hiệp thông với
Thiên Chúa, hiệp thông với nhau, và hiệp thông cả với “thế giới thụ tạo”.
Một thành tựu quan trọng không
thể không kể đến của văn hóa Công giáo Việt, chính là sự sáng tạo, phát triển
và truyền bá chữ Quốc ngữ. Đây là sự kiện có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình
phát triển dân trí và văn hóa Việt. Thậm chí, chữ Quốc ngữ còn góp phần rất lớn
vào quá trình thống nhất đất nước, nâng tầm quốc gia lên một vị thế mới.
.
Mặc dù phong phú, đa dạng và có ảnh hưởng lớn như vậy, văn hóa Công giáo Việt vẫn mang một thân phận côi cút. Công giáo vẫn được coi là “vấn đề nhạy cảm”. Tầng sâu văn hóa còn ẩn tàng trong cuộc sống hàng ngày của giáo dân vẫn chưa được tìm hiểu/giới thiệu một cách hệ thống. Tiếng nói của người trong cuộc chưa được lắng nghe đầy đủ. Ngay cả với chữ Quốc ngữ, một thành tựu văn hóa mà mỗi người chúng ta đều sử dụng hàng ngày, nhà nước vẫn chưa có một định hướng hay chương trình nghiên cứu xứng tầm. Ít người biết được rằng, trong các hội Khoa học Lịch sử, hội Ngôn ngữ học, Viện Sử học và Viện Ngôn ngữ học đều không có bất cứ chuyên gia nào nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển chữ Quốc ngữ. Cuốn lịch sử chữ Quốc ngữ đầu tiên được đông đảo độc giả biết đến là do một vị linh mục viết. Cũng ít người biết được rằng, tác giả của tập lịch sử Việt Nam đầu tiên viết bằng chữ Quốc ngữ là Bento Thiện, một giáo dân người Việt. Và ông viết nó từ năm 1659, sớm hơn rất nhiều so với các bộ sách lịch sử viết bằng chữ Quốc ngữ được biết đến hiện nay.
.
Mặc dù phong phú, đa dạng và có ảnh hưởng lớn như vậy, văn hóa Công giáo Việt vẫn mang một thân phận côi cút. Công giáo vẫn được coi là “vấn đề nhạy cảm”. Tầng sâu văn hóa còn ẩn tàng trong cuộc sống hàng ngày của giáo dân vẫn chưa được tìm hiểu/giới thiệu một cách hệ thống. Tiếng nói của người trong cuộc chưa được lắng nghe đầy đủ. Ngay cả với chữ Quốc ngữ, một thành tựu văn hóa mà mỗi người chúng ta đều sử dụng hàng ngày, nhà nước vẫn chưa có một định hướng hay chương trình nghiên cứu xứng tầm. Ít người biết được rằng, trong các hội Khoa học Lịch sử, hội Ngôn ngữ học, Viện Sử học và Viện Ngôn ngữ học đều không có bất cứ chuyên gia nào nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển chữ Quốc ngữ. Cuốn lịch sử chữ Quốc ngữ đầu tiên được đông đảo độc giả biết đến là do một vị linh mục viết. Cũng ít người biết được rằng, tác giả của tập lịch sử Việt Nam đầu tiên viết bằng chữ Quốc ngữ là Bento Thiện, một giáo dân người Việt. Và ông viết nó từ năm 1659, sớm hơn rất nhiều so với các bộ sách lịch sử viết bằng chữ Quốc ngữ được biết đến hiện nay.
Mai Thanh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét