Nhân 21/6, ngày được gọi là “ngày
Báo chí Cách mạng Việt Nam”, tôi nhớ lại những ngày sát cánh với các đồng
nghiệp trong tờ báo đầu tiên đã làm “cuộc Cách mạng nền báo chí Cách mạng”
vào tháng 12 năm 1989. Tuy bị đánh quỵ vào năm 1993 từ một quyết định của Bộ
Chính trị ĐCS VN do e sợ tác động “diễn biến hoà bình” của tờ báo, chỉ trong
5 năm tung hoành với một ê kíp được nhà báo Lý Quý Chung (cây bút thể thao
nổi tiếng Sài Gòn trước 1975) nhận xét là “đội hình đẹp như mơ” (gồm một số
cây bút tên tuổi Sài Gòn cũ, một số nhà báo tài năng của miền Bắc, có cả 2
“tên” vừa đi tù về, hihi), báo LĐCN đã tạo bước chuyển không thể quay lui của
báo chí “chính thống”: có phần bám sát thực tế xã hội, dám nói thật một số
điều (tuy còn xa sự thật), phần nào nói tiếng nói của dân chứ không phải chỉ
của “lãnh đạo”.
Trong 30 năm làm báo “chính
thống”, đó là những năm tôi thấy đắc ý vì được “làm báo” đúng nghĩa.
Xin chia sẻ với các bạn vài hồi ức
của những người trong cuộc.
Hoàng
Hưng
|
BÀI I: TRÍCH HỒI KÝ “ĐẾN GIÀ MỚI CHỢT TỈNH” CỦA NGUYÊN TỔNG BIÊN TẬP TỐNG VĂN CÔNG
Ở thập kỷ 80 hầu hết các báo ở Trung ương trong đó có báo Lao Động đều được bù lỗ từ tiền của ngân sách. Ban Tài chính Tổng Liên đoàn Lao động giao khoán cho Ban biên tập báo Lao Động “định mức số tiền được phép lỗ”. Cuối năm nếu số tiền bị lỗ thấp hơn định mức thì được coi là “lãi” và được thưởng vì đã “có lãi”! Tờ báo được mua từ quỹ công đoàn, hoàn toàn không bán được ở các sạp báo ngoài thị trường.
Tôi
đề nghị với Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Phạm Thế Duyệt 2 điều và được ông
chấp nhận:
–
Nếu báo Lao Động thoát khỏi bù lỗ thì được phép chi trả nhuận bút vượt quy định
của Bộ Thông tin - Văn hóa và trả phụ cấp cho phóng viên không theo quy định
của ban Tài chính Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
–
Tổng biên tập có quyền sắp xếp lại nhân sự của cơ quan báo Lao Động: giảm biên
chế, bãi chức vụ những người không đủ năng lực; sau khi có đủ khả năng tài
chính tự trang trải chi thu thì có quyền tăng biên chế theo sự cần thiết để
phát triển tờ báo.
Khi
tôi nhận làm tổng biên tập, tổ chức nhân sự của báo là một hệ thống thứ bậc
“sống lâu lên lão làng”, hoặc “kinh qua trường Đảng”. Tất cả các trưởng ban,
trưởng phòng đều là đảng viên “4 tốt”, đã học qua trường Đảng, nhưng không đủ
năng lực để đảm đương chức vụ. Có những trường hợp kỳ quặc như: Anh V. là lái
xe lâu năm được đề bạt làm Chánh văn phòng, anh Q. chữa morat lâu năm được đề
bạt làm Tổng thư ký tòa soạn, cô B. đánh máy lâu năm được lên phóng viên đặc
biệt (phóng viên có 6 bậc, trên bậc 6 là phóng viên đặc biệt ngang với bậc
chuyên viên của công chức).
Có
ba phóng viên có năng lực hơn hẳn các trưởng ban, nhưng do chưa vào Đảng nên
không được đề bạt là: Phạm Huy Hoàn, Trần Đức Chính, Nguyễn An Định. Đảng ủy cơ
quan báo Lao Động (đều là các trưởng ban, trưởng phòng) viện mọi lý do để không
cho 3 người này vào Đảng vì sợ họ vượt qua mình: Anh Chính bị cho là tự cao, tự
đại; anh Hoàn bị loại vì xuất thân từ gia đình tư sản; anh Định có bố theo đạo
Công giáo. Tôi quyết định đề bạt 3 anh này lên trưởng ban. Sau khi họ làm tốt
chức trách của trưởng ban, Đảng ủy không có lý do chính đáng để ngăn họ vào
Đảng. Sau này Phạm Huy Hoàn kế nhiệm tôi. Sau khi nghỉ hưu, anh làm Tổng biên
tập báo mạng Dân Trí cho đến nay. Anh Trần Đức Chính làm Phó Tổng biên tập báo
Lao Động, sau đó là Tổng biên tập báo Nhà báo và Công luận, hiện nay anh vẫn
đều đặn có bài trào lộng ở mục “Nói hay đừng” trên báo Lao Động với bút danh Lý
Sinh Sự nổi tiếng. Nguyễn An Định là cây bút tài hoa, nhưng mất sớm. Trong số
hơn 30 phóng viên đã phải loại ra 10 người không biết viết! Để anh em này yên
tâm ra đi, chúng tôi nâng lương cho mỗi người lên hai bậc. Việc tinh giản bộ
máy như thế này là chưa từng có. Đồng thời với việc tinh giản bộ máy, chúng tôi
tuyển dụng những cây bút có nghề.
Lúc
ấy Sài Gòn đã có ba tờ báo ngày và đều tỏ ra có sức sống ở thị trường hơn hẳn
các tờ báo ở Trung ương. Trong đó có tờ Tuổi Trẻ, trước năm 1981 còn là tờ báo
yếu nhất (năm 1981, báo Sài Gòn Giải phóng 90.000 tờ/kỳ; Báo Phụ nữ Thành phố
và Công nhân giải phóng 25.000tờ/kỳ; Tuổi Trẻ 10.000 tờ/kỳ). Sau khi báo Tin
Sáng bị đình bản, các nhà báo Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức, Võ Văn Điểm về báo
Tuổi Trẻ, biến tờ báo này trở thành tờ báo đi đầu đổi mới. Lẽ ra các nhà báo
này phải được quý trọng, nhưng ngược lại Thành đoàn và ban biên tập Tuổi Trẻ
thường tỏ ra không mặn đối với họ, những người xuất thân từ chế độ cũ thường bị
BanTuyên huấn Đảng và cơ quan an ninh săm soi. Đó là thời cơ để chúng tôi “trải
thảm” mời các bạn ấy về báo Lao Động. Anh Hữu Tính trưởng cơ quan miền Nam được
giao nhiệm vụ tiếp xúc mời mọc các anh. Nhiều nhà báo giỏi muốn rời Tuổi Trẻ
sang với chúng tôi: Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức, Hoàng Thoại Châu, Huỳnh Dũng
Nhân, Quang Đồng, Kim Phi, Phan Tùng. Tất cả các anh này đều yêu cầu tôi nhận
thêm anh Hồng Đăng vừa rời nhiệm vụ trợ lý báo chí của Tổng bí thư Nguyễn Văn
Linh. Anh em đề nghị như vậy có lẽ vì họ biết tôi có chỗ rất yếu về chính trị
là không được lòng Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Tôi bảo họ ở đây đang thừa cán
bộ chính trị, chỉ cần người giỏi nghề như các anh. Anh Lý Quý Chung bảo: “Hồng
Đăng không phải chỉ là cán bộ chính trị mà cũng rất giỏi nghề. Chúng tôi cần có
anh ấy”. Anh Hoàng Thoại Châu thuyết phục tôi gần một tiếng đồng hồ để tôi tin
rằng Hồng Đăng tương lai sẽ là một “ngôi sao lãnh đạo báo chí cách mạng”. Tôi
miễn cưỡng nhận Hồng Đăng vì chiều ý anh em. Tôi không lường được anh này rất
có ý thức lợi dụng “gót chân Achile” của tôi là bị Nguyễn Văn Linh ghét và các
anh giỏi nghề đều có vấn đề về lý lịch: Lý Quý Chung là Bộ trưởng Chính phủ
Dương văn Minh, Trần Trọng Thức là sĩ quan, biên tập viên Việt Tấn xã, nhà thơ
Hoàng Hưng đã bị tù 3 năm, họa sĩ Chóe vừa ra tù sau 10 năm...
Bằng sự từng trải nghề nghiệp, Lý Quý Chung nhận xét theo ngôn
ngữ bóng đá: “Báo Lao Động là một đội hình đẹp như mơ”! Lý Quý Chung thiết kế
tờ báo Lao Động Chủ Nhật với sự góp ý của Trần Trọng Thức. Trong buổi họp trước
khi in báo, ông Nguyễn Văn Dòng giám đốc Nhà in chân thành góp ý: “Tờ báo ăn
khách hay không chủ yếu là do nội dung, chứ không phải hình thức. Các anh chủ
trương in 4 màu thì giá thành tờ báo rất cao, bán mắc, khó lòng được bạn đọc
chấp nhận”. Trái lại, tất cả chúng tôi tin rằng với nội dung hấp dẫn, bạn đọc
sẽ vui lòng bỏ thêm tiền để nó có hình thức đẹp, làm một bó hoa trao cho bạn
đọc ngày Chủ nhật.
Số
báo thứ 8 ra ngày 11–3–1990 đưa tới bước ngoặt khi đăng bài “Xưởng nước hoa
Thanh Hương tồn tại đến bao giờ?” nói về chuyện huy động vốn 19 tỉ đồng với lãi
suất 14% trong khi sản xuất thu lãi chưa tới 2 triệu đồng/ tháng của Nguyễn Văn
Mười Hai. Loạt bài về nước hoa Thanh Hương đã đưa số lượng in của tờ báo tăng
vọt. Lao Động Chủ Nhật thắng lớn đưa tới quyết định xuất bản ba kỳ báo/tuần,
cũng rất thành công. Cả ba kỳ báo đều phát hành ra sạp trên toàn quốc với số
lượng cao nhất trong các báo Trung ương. Tôi từ chối ứng cử vào Ban chấp hành
Tổng Liên đoàn Lao động, để đề cử người trẻ tuổi Hồng Đăng. Hồng Đăng đắc cử
vào Ban chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động với số phiếu rất cao. Cuối năm 1993,
tôi nói với Hồng Đăng, mình rất yên tâm để nghỉ hưu vì đã có chú kế nhiệm.
Vẫn
biết quyền lực làm tha hóa con người, nhưng ở trường hợp Hồng Đăng thì “vừa đỗ
ông nghè đã đe hàng tổng”. Sau Đại hội Công đoàn toàn quốc khoảng hai tháng,
tôi vào Sài Gòn thì hôm sau, bốn anh Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức, Hoàng Thoại
Châu, Nguyễn Hữu Tính yêu cầu gặp riêng. Mỗi người kể một số biểu hiện không
hay của Hồng Đăng. Nói chung là hách dịch, độc đoán, không minh bạch trong thu,
chi. Cuối buổi gặp, anh Lý Quý Chung lại đề nghị, khi góp ý với Tám Đăng xin
anh giữ kín chuyện bốn anh em chúng tôi gặp anh hôm nay. Trong “Hồi ký Không tên”,
khi nhắc lại chuyện đổ vỡ của tập thể chủ chốt báo Lao Động, anh Lý Quý Chung
viết “tôi cho rằng trong cương vị tổng biên tập, anh Tống Văn Công thiếu sự
quyết đoán và không kịp thời chận đứng những lệch lạc trong nội bộ, khiến cho
con đường phát triển độc đáo của tờ báo – một tờ báo mang tính đột phá về nghề
nghiệp ở thời điểm đó – bị khựng lại giữa lúc đầy hưng phấn”. Cái lỗi “không
kịp thời chận đứng” của tôi có một phần từ yêu cầu “giữ kín” của anh!
Cuối
năm 1993 tôi cao hứng làm một bài thơ và nộp bài cho nhà thơ Hoàng Hưng Trưởng
ban Văn hóa - Văn nghệ, trước khi ra Hà Nội. Trong khi làm báo Xuân, Lý Quý
Chung vẫn hay gọi điện cho tôi tán chuyện. “Tán” với nhau một lúc, tôi chợt
hỏi, bài thơ của mình có được Hoàng Hưng duyệt cho vào báo Xuân không? Lý Quý
Chung đáp có, nhưng không phải vào báo Xuân mà là báo Tết. Ngưng mấy giây, anh
hỏi thêm, anh thấy sao? Tôi nói, được vô báo Tết cũng khoái, nhưng vô báo Xuân
thì khoái hơn. Chung nói, thế à? Không ngờ sau đó anh đưa bài thơ vô báo Xuân.
Trong cuộc họp cuối năm, Hồng Đăng đã gay gắt phê bình Lý Quý Chung là “vô tổ
chức, vô kỷ luật, tùy tiện đưa bài thơ đã được người chủ biên xếp vào báo Tết
chuyển qua báo Xuân mà không xin ý kiến”. Lý Quý Chung trả lời, anh thấy không
cần xin ý kiến là vì: 1/ bài đã được duyệt, tức là nội dung không có vấn đề; 2/
bài không hề kém những bài đã được chọn cho trang thơ báo Xuân. Đến đây thì
Hồng Đăng nổi nóng, dùng những từ ngữ mà Lý Quý Chung gọi là “xài xể”. Sở dĩ Lý
Quý Chung quá bức xúc là vì trước đó một tuần có một việc xảy ra khi Hồng Đăng
đi vắng, anh Chung trực tiếp báo cáo ra Hà Nội cho tôi. Biết chuyện này, Hồng
Đăng đã to tiếng phê bình anh Chung ngay giữa sân cơ quan, “từ nay ông đừng làm
việc với tôi mà cứ trực tiếp với Hà Nội”!
Tết
năm 1994, từ Hà Nội tôi vừa về tới Sài Gòn thì các anh Lý Quý Chung, Trần Trọng
Thức, Hoàng Thoại Châu, Nguyễn Hữu Tính yêu cầu gặp và đưa ra yêu cầu: Cả bốn
người không thể cộng tác với Hồng Đăng, nếu tổng biên tập chọn Hồng Đăng thì
ngay ngày mai cả bốn người xin thôi việc. Tôi gặp Hồng Đăng bàn cách hòa giải.
Không ngờ vừa nghe nửa chừng, anh đứng lên nói to, “anh bảo cho bốn anh đó biết
để họ yên tâm, ngay bây giờ, tôi thôi việc”! Nói xong, anh bước nhanh ra cửa.
Tôi gọi giật lại, “Chú Tám, chú nên bình tĩnh cùng tôi hòa giải với anh em”.
Hồng Đăng xua tay rồi đi nhanh không ngoái lại. Mồng 4 Tết, tôi phải ra Hà Nội
để kịp dự cuộc họp do Ban Tư tưởng Văn hóa triệu tập. Hai hôm sau, khoảng 9 giờ
tối, Hồng Đăng gọi điện thoại: “Anh ơi, tôi gọi để báo với anh một tin quá bất
ngờ. Bên an ninh người ta phát hiện là ở cơ quan mình có một âm mưu chính trị
diễn biến hòa bình nhằm vô hiệu hóa tôi, người mà họ cho là có vai trò 'gác
cổng chính trị'! Theo cơ quan an ninh thì người chủ mưu vụ này là Lý Quý
Chung”. Tôi không thể ngờ Hồng Đăng có thể phản đòn bằng cách vu khống chính
trị bẩn thỉu như vậy. Dù rất tức giận, nhưng tôi cũng cố ôn tồn: “Chú Tám à,
mấy anh em này vốn là những người rất quý chú. Chú cũng là người nhiều năm qua
có nhận xét rất tốt về họ khi làm việc với cơ quan an ninh. Nay dù họ bất mãn,
có phản ứng quá đáng, nhưng chú là người lãnh đạo, trước hết nên tự xét mình và
nên rộng lượng đối với anh em, không nên đánh lại anh em bằng đòn chính trị!
Tôi không thể đồng tình với chú trong chuyện này”. Hồng Đăng đáp: “Anh ơi, tại
sao anh lại nói như vậy, tôi xin nhắc lại, đây là phát hiện của cơ quan an
ninh. Tôi vừa mới biết đã vội báo ngay cho anh”. Tôi nói, chúng ta dừng câu
chuyện ở đây để hai anh em mình cùng suy nghĩ, sau 30 phút tôi sẽ gọi lại chú.
Sau này tôi mới biết, ngay hôm tuyên bố bỏ việc về nhà, Tám Đăng gọi hai anh
cán bộ báo Quân Đội Nhân Dân ở bộ phận phía Nam đã nhiều năm làm công việc chữa
morat cho tờ Lao Động Chủ nhật, bàn cách tố giác “âm mưu chính trị” tới Cục 2
(từ năm 1995 là Tổng cục 2) và ông Lê Khả Phiêu, Thường trực Ban Bí thư Trung
ương Đảng và ông Nguyễn Văn Linh cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng. Từ đó
đưa tới cuộc họp của Bộ Chính trị do Tổng bí thư Đỗ Mười chủ trì, đưa ra kết
luận 4 điểm: “1– Đội ngũ báo Lao Động do Tống Văn Công tập hợp không đảm bảo an
ninh chính trị. 2– Từ ngày Tống Văn Công làm tổng biên tập có nhiều loạt bài
làm Bộ Chính trị không yên tâm. 3– Báo Lao Động là cơ quan ngôn luận của Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam tại sao Tống Văn Công đặt phòng thư ký tòa soạn ở
Sài Gòn? 4– Hiện nay có tố giác đang xảy ra âm mưu diễn biến hòa bình.
Dừng
nói với Hồng Đăng, tôi gọi điện thoại cho anh Khổng Minh Dụ, Cục phó A25. Gia
đình cho biết anh Dụ còn ở cơ quan. Tôi gọi lên cơ quan. Sau khi nghe tôi kể,
anh nói, giờ này tôi còn ở cơ quan là để giải quyết những chuyện chính trị,
nhưng không phải của báo Lao Động. Ở báo Lao Động chỉ là mất đoàn kết nội bộ,
chứ chả có chính trị chính em gì cả. Nghe vậy tôi có phần yên tâm, nhưng lại
nghĩ, Hồng Đăng có thể đã đánh động tới Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Nguyễn
Văn Tư, tôi liền đến nhà ông. Ông Tư mở cửa, dưới ánh điện, mặt ông đỏ rực vẻ
hết sức căng thẳng nói, tôi định gọi anh thì may quá, anh đã tới. Tôi hỏi lại,
chú Tám Đăng vừa gọi cho anh phải không? Anh yên tâm, anh Khổng Minh Dụ Cục A25
vừa cho tôi biết, ở báo Lao Động chỉ là mất đoàn kết, chẳng có vấn đề chính trị
chính em gì cả. Ông Tư lắc đầu, không phải từ A25! Đây là Cục 2 tình báo quân
đội, họ đã báo cáo với Bộ Chính trị! Anh gọi điện ngay cho Hồng Đăng để tôi nói
chuyện. Tôi quay điện thoại trên bàn ông Tư. Vợ Hồng Đăng trả lời, anh Công à,
anh Tám đi vắng, sáng mai anh hẵn gọi nha. Tôi bảo, cô đi tìm chú Tám ngay, bảo
anh Tư cần nói chuyện. Nghe vậy vợ Hồng Đăng vội vã gọi to, anh Tám ơi, dậy,
dậy nói chuyện với anh Tư. Thì ra, sau khi bắn mũi tên “chính trị”, chú ta đi
ngủ, không cần nói gì với tôi nữa. Ông Tư chỉ nói một câu: Sáng mai chú phải
đến cơ quan, ngày kia, tôi với anh Công sẽ vào.
Ông
Tư họp cơ quan miền Nam báo Lao Động, cho biết ông đã nhận được nhiều dấu hiệu
mất đoàn kết trong anh em, nên muốn được nghe ý kiến từng người. Sau hai tuần,
nghe ý kiến tất cả anh em, ông Tư họp cơ quan nói rõ nhận xét của mình: Không
có âm mưu chính trị nào cả mà chỉ do mất đoàn kết nội bộ. Nguyên nhân là do anh
Tống văn Công quá tin tưởng, giao quyền cho anh Hồng Đăng rộng quá mà thiếu sự
kiểm soát. Anh Hồng Đăng lạm quyền, độc đoán, không tôn trọng anh em, hoạt động
kinh doanh ngoài tờ báo không minh bạch. Từ ngày mai, anh Công phân công lại
tòa soạn, sau đó từng thành viên trong ban biên tập phải tự kiểm điểm trách
nhiệm của mình về tình trạng mất đoàn kết nghiêm trọng hiện nay.
Tôi
nói với Hồng Đăng, vì mấy anh em ở ban thư ký tòa soạn không chịu cộng tác với
chú, nên tạm thời chú làm việc ở vòng ngoài, bao giờ hòa giải với nhau xong tôi
sẽ đưa chú trở lại vị trí cũ. Tám Đăng phản ứng rất ngớ ngẩn, anh ạ, tôi xin
nhắc anh, chức vụ của tôi là do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam bổ nhiệm đấy.
Tôi bảo, chức vụ của chú là do tôi đề nghị Tổng Liên đoàn Lao động bổ nhiệm,
phó tổng biên tập là người giúp việc cho tổng biên tập, có đúng thế không? Hồng
Đăng cười gượng. Nhưng sau đó, anh ta tiếp tục xui giục một số người thân cận
gây rối. Loan truyền tin tức về Cố vấn Nguyễn Văn Linh đang rất quan tâm đến
người trợ lý cũ của mình bị vô hiệu hóa. Ngấm ngầm vận động anh em ký tên vào
bản kiến nghị gửi lên Trung ương Đảng yêu cầu khôi phục vai trò người “gác cổng
chính trị” ở báo Lao Động. Phan Tùng - Trưởng ban Quốc tế (nhân vật mà trước đó
2 năm nhà văn Bùi Việt Sĩ cho là có nhân tướng phản phúc), viết lá thư hướng
dẫn cô Thanh Vân nhân viên ban thư ký tòa soạn cách gài bẫy Tổng thư ký Tòa
soạn Lý Quý Chung bằng bản tin về vụ Thiên An Môn. Cô Thanh Vân xem thư xong đã
xé nhỏ ném vào sọt rác. Anh Trần Thức (nguyên giảng viên Trường Đại học Sư phạm
Huế, lúc đó làm công việc sửa morat) nhìn thấy, đã moi từng mảnh nhỏ của lá
thư, dán lại trên trang giấy, nộp cho Tổng biên tập. Tôi gọi Phan Tùng, đưa lá
thư bị xé đã được dán lại, yêu cầu anh viết bản tự kiểm điểm nói rõ anh viết lá
thư này nhằm mục đích gì. Phan Tùng không tự kiểm điểm mà viết bản tường trình
kể rằng mình nhận nhiệm vụ do Đảng cấp trên giao nhằm phát hiện bọn âm mưu diễn
biến hòa bình trong tờ báo. Tôi bảo, Phan Tùng ghi rõ tên người thay mặt Đảng
cấp trên chỉ đạo anh làm việc này, tôi sẽ xem anh là người có công làm nhiệm vụ
đặc biệt cho Đảng, tuy có sơ suất. Nếu anh không nói được tên người chỉ đạo thì
ngay ngày mai tôi mời họp chi bộ đuổi anh ra khỏi Đảng, sau đó cho anh hưởng ba
tháng lương để đi tìm việc nơi khác. Phan Tùng không thể tin rằng tôi là một kẻ
có tên trong sổ đen vì âm mưu diễn biến hòa bình, lại có thể đuổi ra khỏi “Đảng
quang vinh” một người có lý lịch như anh ta: Nguyên chiến sĩ quân tình nguyện
Việt Nam ở Campuchia, con rể ông Phan Văn Dỉnh Tổng cục trưởng Tổng cục thuế,
cánh tay phải của nguyên trợ lý báo chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh! Phan Tùng
nộp bản tường trình mới khẳng định: “không thể công khai tên của đồng chí cấp
trên, vì đó là nguyên tắc của Đảng”. Tôi họp đảng bộ báo Lao Động cả miền Bắc
và miền Nam, chỉ trừ 3 phiếu của Phan Tùng, Tám Đăng, Tư Hạnh (vợ Tám Đăng),
còn lại đều biểu quyết khai trừ Phan Tùng ra khỏi Đảng. Sau đó, Phan Tùng xin
về Liên hiệp Hợp tác xã thành phố Hồ Chí Minh.
Đoàn
kiểm tra của Ủy ban kiểm tra thuộc Tổng Liên đoàn Lao động kết luận các hoạt
động kinh tế ở cơ quan báo Lao Động thường trú Miền Nam do Hồng Đăng trực tiếp
điều hành có 5 sai phạm nghiêm trọng: Mua bán đất Cầu Tre vi phạm luật đất đai;
mua bán ở phòng kinh doanh và thu chi tiền quảng cáo không minh bạch. Đảng bộ
báo Lao Động quyết định khai trừ Hồng Đăng ra khỏi Đảng và được Đảng ủy cơ quan
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chấp nhận. Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động
quyết định cách chức phó tổng biên tập và buộc thôi việc đối với Hồng Đăng.
Suốt
hai tháng thực hiện việc “kiểm điểm”, số đông anh em, nhất là các cán bộ chủ
chốt của tờ báo quan tâm cách xử lý đối với tôi. Lãnh đạo Tổng Liên đoàn Lao
động biết điều đó nên đã luôn trấn an là “anh Công sẽ còn tiếp tục làm việc” và
tổ chức thăm dò xem những ai sẽ nghỉ việc nếu tôi bị buộc phải nghỉ hưu. Ngày 9
tháng 10 năm 1994, anh Nguyễn Hữu Tính trưởng cơ quan miền Nam báo Lao Động có
thư báo cáo Tổng Liên đoàn Lao động là đã có 19 người gặp anh “bày tỏ sẽ nghỉ
việc ngay”. Trong đó có Lý Quý Chung tổng thư ký tòa soạn, Trần Trọng Thức
trưởng ban kinh tế, Hoàng Thoại Châu (bút danh Ba Thợ Tiện), họa sĩ Chóe, Lê
Xuân Tiến trưởng ban thể thao, Đinh Quang Hùng trưởng ban in ấn và phát hành
báo, Lưu Trọng Văn cây bút phóng sự điều tra sắc bén. Từ danh sách này bà Hoàng
Thị Khánh phó chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động chọn mời 4 người mà bà cho là
quan trọng nhất đối với chất lượng tờ báo là Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức,
Chóe, Ba Thợ Tiện để “công tác tư tưởng”. Bà nói tờ báo không phải của riêng
anh Tống Văn Công mà nó là của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn.
Tổng
Liên đoàn Lao động vừa muốn bảo vệ tôi để giữ được những nhà báo giỏi, vừa muốn
chứng tỏ đã tôn trọng các kết luận của Bộ Chính trị. Phương án giải quyết được
chọn là: Tôi không còn là tổng biên tập mà là “cố vấn” hoặc “phó tổng biên
tập”, nhưng vẫn là người thực sự điều hành tờ báo y như trước. Các nhà báo có
vai trò chủ chốt đứng đầu là Lý Quý Chung không chịu như vậy. Lý Quý Chung nói:
“Chỉ thêm chữ Q. trước ba chữ tổng biên tập tôi cũng thôi việc, chứ chưa cần hạ
xuống phó tổng biên tập” (thêm chữ Q. tức là “quyền tổng biên tập”).
Ngày
tôi nhận quyết định nghỉ hưu, cầm vé máy bay để hôm sau về Sài Gòn, thì bất ngờ
có giáo sư Nguyễn Lân Dũng đến thăm. Tôi phân trần, mình lu bu quá nên không
báo cho Nguyễn Lân Dũng biết chuyện mình nghỉ hưu và về Sài Gòn. Nguyễn Lân
Dũng trố mắt ngạc nhiên hỏi “vì sao”? Tôi nói, mình phải chịu trách nhiệm về
nội bộ lục đục và bị tố cáo có âm mưu “diễn biến hòa bình”. Lân Dũng bảo, anh
nào tố cáo bậy bạ vậy? Anh không quen với một ông Bộ Chính trị nào hay sao? Tôi
nói, mình quen ít nhứt ba bốn ông chứ, nhưng để làm gì? Chẳng lẽ chạy đến xin
được giúp đỡ? Dũng hỏi, anh Phạm Thế Duyệt có biết chuyện này không? Không chờ
tôi trả lời, Nguyễn Lân Dũng quay chiếc điện thoại trên bàn tổng biên tập. “Thưa
anh Duyệt, tôi Nguyễn Lân Dũng đây! Tôi đang ở chỗ anh Công. Tại sao anh Công
nói ngày mai anh ấy về Sài Gòn, không ra nữa, anh đã biết chuyện này chưa ạ?
Vâng, vâng, anh Công đang ở đây, anh Duyệt muốn nói với anh”. Tôi bước lại cầm
ống nghe. Anh Duyệt hỏi, hai giờ chiều nay anh Công đến nhà mình được không?
Tôi nghĩ, đến từ giã người đã đưa mình ra Hà Nội là phải lẽ. Khi anh Phạm Thế
Duyệt từ chỗ là Chủ tịch công đoàn mỏ Mạo Khê, do “cơ cấu” đã vọt lên làm Phó
chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động, tôi đang kiêm nhiệm Phó tổng biên tập báo Lao
Động phụ trách miền Nam. Tôi đã đưa anh đi thăm các tỉnh Nam Bộ và Tây Nguyên
gần một tháng do đó đã nảy nở một tình thân. Dù là cấp trên, nhưng anh kém tôi
bốn tuổi, tham gia cách mạng và vào Đảng đều sau tôi gần mười năm cho nên tôi
cũng được anh nể trọng. Khi tôi bị Thành ủy Sài Gòn cách chức, anh đã vào xin
Thành ủy cho chuyển tôi về cơ quan miền Nam của báo Lao Động.
Anh
Phạm Thế Duyệt ra tận cổng đón tôi vào. Từ ngày anh rời Tổng Liên đoàn Lao
động, làm Bí thư Thành ủy Hà Nội cho đến nay tôi mới tới nhà anh. Chỉ có hai
anh em trong phòng khách, nhưng anh hạ giọng thầm thì: Bộ Chính trị có một
phiên họp đặc biệt về báo Lao Động. Tống Văn Công bị kết luận bốn “vấn đề”: Một
là anh tổ chức nhân sự báo Lao Động làm cho cơ quan an ninh không yên tâm; hai
là từ ngày anh làm tổng biên tập có nhiều loạt bài khiến Bộ Chính trị lo lắng;
ba là báo Lao Động, cơ quan ngôn luận cấp Trung ương, theo nguyên tắc phải ở Hà
Nội mà anh tự tiện để tòa soạn ở thành phố Hồ Chí Minh; bốn là anh có trách
nhiệm trong việc để xảy ra lục đục trong cơ quan và bị tố cáo có âm mưu diễn
biến hòa bình. Bộ Chính trị kết luận, anh và một số anh ở báo Lao Động không
đảm bảo tiêu chuẩn chính trị để tiếp tục làm báo trong giai đoạn này.
Nếu
không có Nguyễn Lân Dũng đưa đến cuộc gặp Phạm Thế Duyệt thì tôi cứ nghĩ mình
“về vườn” vì chuyện lục đục nội bộ! Chỉ cần một tội là để “lục đục nội bộ” cũng
đủ cho tôi về vườn rồi, do đó Đảng đoàn Tổng Liên đoàn Lao động không công khai
ba tội kia vì nó quá “nhạy cảm chính trị”. Về tội thứ nhất: Người ta muốn nói
về hai người có vị trí trong làng báo thời Việt Nam Cộng hòa là Lý Quý Chung
(Bộ trưởng Thông tin Chiêu hồi trong chính phủ Dương Văn Minh), Trần Trọng Thức
cán bộ Việt tấn xã. Họa sĩ Chóe bị tù do vẽ bức biếm họa ông Lê Đức Thọ chìa
răng hô (vẫu) xé toẹt Hiệp nghị Paris. Nhà thơ Hoàng Hưng đi tù vì giữ tập thơ
“Về Kinh Bắc” của Hoàng Cầm. Cả hai anh này vừa ra tù, tôi đã mời về báo Lao
Động. Về tội thứ 2, trong một tháng báo Lao Động có 4 bài phê bình 4 Bộ trưởng
của Chính phủ (Bộ trưởng y tế Phạm Song, Bộ trưởng Bộ Năng Lượng Vũ Ngọc Hải,
Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp Phan Xuân Đợt, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Cao Sĩ
Kiêm). Về tội thứ 3, thì phải nói tôi không hề vụng trộm đặt tòa soạn ở Sài
Gòn. Người có trách nhiệm cao nhất của Đảng về tuyên huấn, báo chí là ông
Nguyễn Đức Bình đã nhiều lần tới thăm Cơ quan miền Nam báo Lao Động ở 120 Nam
Kỳ Khởi nghĩa, nghe tôi giới thiệu mạng thông tin kỹ thuật số (sớm nhất các báo
Trung ương) đã làm cho văn phòng Hà Nội và văn phòng Sài Gòn như ngồi chung
trong một gian phòng, có thể cùng thảo luận, tranh cãi với nhau. Tội thứ tư là
có trách nhiệm của tôi đối với tình trạng nội bộ đấu đá nhau. Thực ra nguồn gốc
của tình trạng này có nguyên nhân chủ yếu từ sự phân biệt đối xử của Đảng đối
với những người từng làm việc trong chế độ cũ, dùng họ nhưng không bao giờ tin
họ! Chị Kim Hạnh nguyên Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ đã cảnh báo điều đó với tôi
khi tôi nhận các anh Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức về báo Lao Động.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét