Lê Phú Khải
Tôi rời nghề giáo làng bước vào nghề báo từ năm 1974, đến nay
vừa tròn 45 năm. Làm đủ mọi thể loại báo chí, từ báo hình (truyền hình), báo
nói (phát thanh), đến báo viết, báo mạng (internet)… Có nhiều năm đi thường trú
ở vùng đất xa xôi Đồng bằng sông Cửu Long… Từ viết cho báo “lề phải” rồi chuyển
sang “lề trái”, từng được nhiều giải thưởng báo chí của nhà nước, rồi bỗng trở
thành “thế lực thù địch”!!!
Trong cái thời gian gấp ba lần cuộc lưu lạc của nàng Thuý Kiều
ấy, thật lắm kỷ niệm buồn vui… Nếu viết ra thì cũng có thể được vài trăm trang
sách. Thôi thì nhân ngày Nhà báo Việt Nam 21 tháng 6, tôi viết ra đây 3 kỷ
niệm, bảo nó là vui hay buồn cũng được, để tặng các đồng nghiệp trẻ rất tài ba
của tôi đang hành nghề ở thời công nghệ 4.0 này! Những câu chuyện này đều xảy
ra trong thời làm báo “lề phải”…
Câu chuyện thứ nhất: “Ba thằng bồi bút mới bằng một con bồi bàn”
Đó là vào đầu năm 1976, Quốc hội thống nhất họp phiên đầu tiên
sau ngày 30 tháng 4.1975. Tôi vô Quốc hội để tìm gặp luật sư Ngô Bá Thành. Gặp
bả, tôi nói: Thưa luật sư, tôi vừa làm một cuộc toạ đàm thu thanh cho Đài Tiếng
nói Việt Nam với các đại biểu Quốc hội là đoàn trí thức Nam bộ. Tôi đã toạ đàm
thu thanh được với giáo sư Lý Chánh Trung, luật sư Nguyễn Long, các anh Huỳnh
Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi… Rất tiếc là chỉ thiếu có luật sư Ngô Bá Thành. Vậy tôi
xin phép đưa tên luật sư Ngô Bá Thành vào lời giới thiệu trong đoàn trí thức
Nam bộ ở cuộc toạ đàm đó… Tôi chưa nói hết câu thì bà Ngô Bá Thành đã cười ngặt
nghẽo và nói: Tôi mà Nam bộ cái gì! Tôi là con mẹ Bắc kỳ sinh ra ở phố Nhà
Thương Chó Hà Nội đây… Anh muốn đưa tôi vào đâu cũng được!!! (Phố Nhà Thương
Chó là phố Yersin, xưa kia người Pháp nhốt chó ở đó để nghiên cứu chữa bệnh chó
dại, nên chết tên Phố Nhà Thương Chó).
Tôi đang mừng vì sự “hào phóng” của bà Ngô Bá Thành thì thấy ồn
ào ở một góc hành lang Quốc hội giờ giải lao. Thì ra các đồng nghiệp của tôi
đang tổ chức bốc thăm (!). Số là, thời đó là thời bao cấp, nên mỗi vị đại biểu
Quốc hội được một cái phiếu mua hàng. Hàng quý và giá rất rẻ. Lúc ấy phổ biến
câu “Mua như cướp, bán như cho”! Trong các hàng được mua có cả áo len, thời đó
là quý giá nhất. Các chị em là nhân viên phục vụ ở Quốc hội cũng được mỗi người
một phiếu. Không hiểu vì lẽ gì mà ba nhà báo mới được phát một phiếu, nên các
đồng nghiệp của tôi phải tổ chức bốc thăm! Bỗng một đồng nghiệp ở Thông tấn xã
Việt Nam nổi nóng quát lớn: Thế này thì ra, ba thằng bồi bút mới bằng một con
bồi bàn!!! Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn quá!
Thế là đến tai ông Trường Chinh, Chủ tịch Quốc hội. (Tôi nghĩ là
an ninh báo cáo). Ngay lập tức các phóng viên có mặt ở Quốc hội hôm đó được
thông báo là cuối giờ chiều ở lại để họp báo với Chủ tịch Quốc hội Trường
Chinh. Ông Trường Chinh đã thay mặt Quốc hội xin lỗi các nhà báo và biếu mỗi
người một phiếu mua hàng. Cái thời đó văn hoá xin lỗi còn giữ được. Còn bây
giờ…
Câu chuyện thứ hai: “Không bị cắt lưỡi là may!”
Đó là vào mùa lũ lớn năm 1991. Đã xế chiều mà Phó giám đốc Sở
Nông nghiệp tỉnh Tiền Giang còn đến rủ tôi và nhà báo Hải Bình ở Phân xã Tiền
Giang của Thông tấn xã Việt Nam đi gấp lên huyện Cái Bè. Anh nói: Hai anh đều
là nhà báo của Trung ương thường trú ở địa phương, mong các anh la lớn lên để
các vị lãnh đạo tỉnh và bà con biết là năm nay lũ rất lớn, phải đề phòng không
thì vụ lúa này mất trắng! Anh thông báo: Lũ trên An Giang – Đồng Tháp đã về đến
xã Hậu Mỹ Bắc A, Cái Bè rồi. Đến nơi thì thấy bà con đang gặt lúa gấp để né lũ.
Lũ ở đồng bằng sông Cửu Long chảy tràn trên một mặt bằng rộng nên nó “bò” từ từ
và nhích lên từng centimet một.
Đêm ấy chúng tôi ngủ lại trong một nhà dân. Lúc chúng tôi bỏ dép
lên giường ngồi nhậu lai rai với chủ nhà thì nền nhà còn khô ráo. Một lúc sau
quờ chân xuống đất thì dép đã bị nước cuốn trôi vô gầm giường! Sáng hôm sau thì
cả huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang đã là một biển nước mênh mông… Những gia đình
chưa kịp thu hoạch lúa xong thì phải gặt mò! Gia đình nào thu hoạch lúa xong
thì phải chở lên lộ cao phơi. Mọi người đi lại bằng chiếc xuồng ba lá bé nhỏ.
Tôi đứng nhìn cánh đồng ngập nước mênh mông và những chiếc xuồng con chống sào
đi lại trên cánh đồng… Cảnh sắc giống hệt vùng chiêm trũng Hà Nam - Phủ Lý mùa
mưa bão ngoài Bắc. Nhưng nên nhớ rằng, nước đồng chiêm trũng ngoài Bắc là thứ
nước chua có hại cho cây lúa mà nông dân miền Bắc gọi đó là vùng “chiêm khô mùa
thối”! Còn “nước nổi” mà chúng tôi đang cởi quần dài vắt lên cổ để lội ở Cái Bè
lúc này là nước ngọt phù sa rất tốt cho cây lúa. Nó là thứ phân bón hảo hạng
nhất, giúp cho đồng ruộng luôn “trẻ” lại. Nó diệt cỏ, diệt chuột bọ trên đồng
để mùa sau khỏi phải phun thuốc trừ sâu diệt cỏ. Cảnh vật quanh tôi lúc đó yên
tĩnh, êm ả, thanh bình, nhiều người chuẩn bị đi giăng câu bắt cá, có một chiếc
ghe lớn chở các cô các bà ăn vận loè loẹt – có lẽ họ đi ăn cưới – đang lướt qua
chỗ chúng tôi. Tôi đã nghĩ ra cái tứ “chung sống với lũ” từ cái đầu đang quấn
chiếc quần dài để né lũ và đôi chân đang ngâm dưới biển nước phù sa mát rượi ở
Cái Bè hôm đó. Thực ra dân đồng bằng sông Cửu Long đã chung sống với lũ từ lâu,
tôi chỉ đưa nó thành khẩu hiệu mà thôi.
Những bài phát thanh trên Đài Tiếng nói Việt Nam, trên các báo ở
Sài Gòn, ở Hà Nội mang nội dung “chung sống với lũ” của tôi đã lần lượt ra đời
từ mùa lũ năm 91 đó. “Chung sống với lũ” trở thành một khẩu hiệu, một cụm từ
trong lời nói, trong các văn bản… lúc nào không hay.
Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đọc những bài tôi viết về đồng bằng
sông Cửu Long, về lũ. Có lần ông hỏi tôi: Vợ chồng Phú Khải sống với nhau thế
nào? Câu hỏi đột ngột quá, khiến tôi chưa biết trả lời ra sao thì ông nói: Phải
sống hoà thuận, chứ như chung sống với lũ mà Phú Khải viết thì không ổn! Và sau
đó hàng loạt những chương trình để chung sống với lũ như khu dân cư vùng lũ, cơ
cấu lại thời gian gieo sạ lúa Hè Thu để né lũ, khai giảng sớm hơn cho các
trường học trong vùng lũ để né lũ, xây lại các trạm y tế xã trên gò cao để đồng
bào có thể đi xuồng đến khám chữa bệnh trong mùa lũ… đã được chính phủ dưới
thời ông Võ Văn Kiệt tiến hành có hiệu quả. Năm 1998, đồng bằng sông Cửu Long
lũ rất thấp, sâu bệnh hoành hành, mất mùa lúa, mất mùa cá, ông Võ Văn Kiệt lúc
đó là cố vấn Ban chấp hành Trung ương, trong một hội nghị lớn về Đồng bằng sông
Cửu Long, ông đã nói một câu bất hủ mà tôi chưa từng nghe thấy bao giờ: Với
Đồng bằng sông Cửu Long, không có lũ cũng là thiên tai!
Tháng 10-1997, anh Lê Huy Ngọ lên làm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn. Lần đầu tiên Bộ trưởng vô Sài Gòn, ông kêu anh Nguyễn
Nhiệm – chuyên gia thuỷ lợi đang làm việc ở Văn phòng 2 của Bộ ở TP HCM, giao
nhiệm vụ: Cậu tìm xem ai là người đầu tiên nêu khẩu hiệu “chung sống với lũ” để
tớ thưởng! Anh Nhiệm đến tìm tôi và nói: Bộ trưởng mới lên giao nhiệm vụ, nhà
báo gắng giúp tôi. Tôi bảo anh Nhiệm cứ về đi, mai tôi trả lời. Anh mừng lắm.
Hôm sau, tôi đem đến cho anh Nhiệm ba bài viết của tôi trên báo. Bài thứ nhất:
Ơi! Đồng bằng sông Cửu Long – Báo Xuân Sài Gòn Giải phóng (SGGP) Nhâm Thân
1992. Bài thứ hai nhan đề: Chung sống với thiên nhiên đồng bằng sông Cửu Long –
đăng liền 2 số báo SGGP ngày 31 tháng 10.1994 và ngày 1 tháng 11.1994. Bài thứ
ba: Né lũ, trang nhất báo Văn nghệ Hội Nhà Văn Việt Nam số ra ngày 5 tháng
11.1994. Tôi bảo anh Nhiệm, nếu anh tìm thấy văn bản nào có cụm từ “chung sống
với lũ” trước các số báo này thì tôi không phải là tác giả “chung sống với lũ”,
nếu không tìm được thì tôi là tác giả cụm từ “chung sống với lũ” đã in trong các
số báo này. Tôi còn đưa cho anh Nhiệm một băng nhựa (cát-xét) thu các bài viết
của tôi đã phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam về “chung sống với lũ”. Hai ngày
sau, anh Nhiệm đến kêu tôi lên Văn phòng Bộ ăn cơm với Bộ trưởng Ngọ và nhận
phần thưởng của Bộ trưởng.
Cuộc liên hoan nhỏ ấy có mấy nhà báo cùng dự và còn có cả chị
Năm Triều – Tổng giám đốc công ty Lương thực miền Nam. Khi khách về hết rồi,
anh Ngọ ra hiệu cho cậu thư ký tên là Nhạn mang phần thưởng là một chai rượu
tây ra và anh trao cho tôi.
Trong một bữa nhậu với người em họ tôi và là một vụ trưởng của
Bộ Tài chính ở Hà Nội, tôi “than”: Nêu một khẩu hiệu cả nước dùng (“chung sống
với lũ”) mà thưởng có một chai rượu! Chú em tôi nhìn thẳng vào mặt ông anh rồi
nói: Mồm bác bé thế mà lại nói một câu lớn như thế, người ta không cắt lưỡi là
may lắm rồi, còn than cái nỗi gì!!!
Sách Chung sống với lũ, viết chung với Tiến sỹ
Tô Văn Trường (NXB Thanh Niên – 2001)
Tác giả (phải) đi công tác trong Đồng Tháp
Mười mùa lũ lớn năm 2000
Câu chuyện thứ ba: “Bị nhốt một ngày”
Những năm 80 của thế kỷ trước, có nạn ngăn sông cấm chợ do chính
chính quyền chủ trương. Đến bây giờ tôi vẫn chưa thấy ai giải thích vì sao lại
có những việc làm dại dột đó!
Đồng bằng sông Cửu Long là nơi có nhiều hàng hoá nhất nên nạn
ngăn sông cấm chợ càng khủng khiếp. Tôi đi từ Bến tre về Mỹ Tho, qua phà Rạch
Miễu bao giờ cũng được các bà các chị dúi vào tay một ký đường hoặc một ký khô
nhờ mang hộ, sang sông rồi các chị “xin lại”… để tránh quản lý thị trường lục
soát thu mất.
Quốc lộ 1 đoạn giáp ranh giữa Tiền Giang và Long An có trạm kiểm
soát Tân Hương khét tiếng một thời. Ở đây có giai thoại, một anh bộ đội đi từ
Sóc Trăng về TP HCM, anh có mang theo 10 ký gạo. Khi bị quản lý thị trường trạm
Tân Hương bắt giữ 10 kg gạo, anh đưa giấy phép mang 10 kg gạo đó và nói: Đây là
giấy của ông Đỗ Mười cấp cho tôi để mang gạo lên thành phố nuôi mẹ ốm bệnh! Anh
quản lý thị trường quát: Đỗ Mười chứ Đỗ Mười Một cũng tịch thu!
Tôi hàng tháng phải từ Mỹ Tho lên TP HCM báo cáo công việc của
phóng viên thường trú đồng bằng sông Cửu Long nên sợ nhất phải qua trạm kiểm
soát Tân Hương. Xe bị chặn lại xếp hàng để quản lý thị trường lục soát đậu dài
cả cây số. Tôi quyết định làm một phóng sự điều tra có thu thanh về tệ nạn ngăn
sông cấm chợ này. Tôi cẩn thận còn trèo lên mui một chiếc xe đò để chụp cảnh xe
cộ bị chặn lại rồng rắn cả cây số! Nào ngờ mấy nhân viên quản lý thị trường
trông thấy, leo lên mui xe kè tôi xuống và giựt máy ảnh của tôi. Tôi chống cự
quyết liệt, hô hoán lên: Tôi là nhà báo của Trung ương, ai cho các anh cưỡng
bức tôi? Đồng bào vây quanh ngày một đông. Mọi người đều ủng hộ nhà báo. Nhưng
quản lý thị trường lúc đó chẳng khác gì đội cải cách ruộng đất ngày xưa ở miền Bắc.
Họ có quyền làm mọi chuyện…
Họ bẻ quặt tay tôi. Đau quá tôi la ầm lên. Một nhân viên trạm
Tân Hương quát: Tháo phim trong máy ảnh ra nộp. Tôi làm theo họ, nộp cuộn phim
để bảo toàn máy ảnh. Tôi sực nhớ ra và rút thẻ nhà báo giơ vào mặt các nhân
viên đang đứng quanh tôi. Tôi nói lớn để đồng bào chung quanh nghe thấy: Tôi là
nhà báo của Trung ương, có quyền giám sát việc làm của các địa phương, quyền đó
được ghi sau thẻ nhà báo đây. Tôi cầm thẻ đưa vào mặt một vị nhân viên. Thật
không ngờ, thấy tôi là nhà báo họ càng tấn công dữ dội hơn. Có lẽ họ thù nhất
là các nhà báo. Họ nhìn nhau ra hiệu, rồi hai người kè, xốc hai tay tôi kéo về
trạm. Họ đẩy tôi vào một cái “bốt” bằng gỗ, chỉ đủ một hai người ngồi trong đó
và khoá cửa lại. Chính thức “nhốt” một nhà báo (của TƯ)!
Tôi bị nhốt và bỏ đói như thế từ 8 giờ sáng cho đến 4 giờ chiều
mới được thả ra. Nhưng đau đớn nhất là bài phóng sự của tôi về trạm kiểm soát
Tân Hương đã được Giám đốc Nguyễn Thành của cơ quan thường trú Đài Tiếng nói
Việt Nam tại TP HCM duyệt và thu băng gửi ra Hà Nội, nhưng không được Đài Tiếng
nói Việt Nam phát sóng. Vì, cấm chợ ngăn sông là “chủ trương lớn của đảng và
nhà nước”!!!
L.P.K.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét