An Viên
Việt
Nam không phải là Trung Quốc, nhưng Trung Quốc sẽ là Việt Nam tiếp theo trong
tương lai.
Foreign
Policy ngày 6.6 nhận định, Việt Nam sẽ không thể là Trung Quốc.
Bài
viết này đến từ quan điểm nêu trên, mặc dù bản thân ý thức hệ cũng như những
giải pháp chỉnh đốn Đảng thời ông Nguyễn Phú Trọng khiến nhiều người sa sút
niềm tin về sự độc lập, tự chủ trong quản trị đường lối quốc gia.
Xét
trên thuộc tính kế thừa, kể từ thời điểm Khúc Thừa Dụ, người mở đầu thời đại tự
chủ dân tộc, và Ngô Quyên, người mở đầu kỷ nguyên độc lập của quốc gia Việt Nam
thì đến nay, lòng tự tôn dân tộc chưa bao giờ cạn trong con người Việt. Nhắc
đến Trung Quốc là sự dè chừng cho đến căm phẫn, bởi lịch sử giao tranh hàng
ngàn năm và những mưa đồ của lãnh đạo quốc gia này đối với người Việt. Nhưng số
phận của dân tộc Việt dường như là sự đánh đố, khi chịu ảnh hưởng văn hóa và
chính trị Bắc Kinh, cho đến tận thời điểm hiện nay.
Khi
Trung Quốc sử dụng chính sách bảo hộ để ngăn chặn Facebook và Google, thì tại
Việt Nam, sau những nỗ lực yếu ớt từ phía chính quyền, cả hai "công cụ
khai sáng" này đã hiện diện như một thành tố thiết yếu đối với đại đa số
người Việt Nam. Và khi Trung Quốc sử dụng "Vạn lý trường thành trên
internet" để chặn các trang web của Washington Post, Guardian, Wikepedia
để điều hướng một thời kỳ nhạy cảm về chính trị,... thì tại Việt Nam, các trang
này vẫn truy cập bình thường.
Bắc
Kinh thành công trong việc tạo ra một thế hệ mất trí nhớ (thế hệ không biết gì
về sự kiện Thiên An Môn), cũng như bản thân nước này thiết lập thành công hệ
thống chấm điểm công dân - biến công dân trở thành một con súc vật trong cái
chuồng xã hội lớn,... thì giới trẻ Việt Nam - với công cụ Facebook và Google
đang đi tìm lại những mảnh ghép lịch sử đã bị che mờ bởi lịch sử Đảng CSVN.
Điều
tốt nhất mà một người Việt Nam được hưởng so với Trung Quốc đó chính là một nền
tảng internet thông thoáng hơn, nơi họ được trao đổi nhiều vấn đề. Và ở Việt
Nam, "thế hệ mất trí nhớ" không tồn tại, bởi nhờ có mạng xã hội.
Gạc
Ma, Len Đao,... hay Biên giới Tây Nam, Tây Bắc,... đã được những người Việt,
đặc biệt là người Việt trở lĩnh hội, hấp thu và trở thành một phần của sự hiểu
biết. Nói cách khác, chính internet hay mạng xã hội đã tạo nên dáng hình độc
lập và tự chủ, và đặt ra yêu cầu về độc lập, tự chủ đối với lãnh đạo nhà nước.
Khi
người dân không ưa chuộng một lãnh đạo nào đó, thì hoặc là người đó bất tài yếu
kém, hoặc người đó có xu hướng thân Trung Quốc. Tại Việt Nam, cũng từng xảy ra
câu chuyện về một lãnh đạo cao cấp, một ủy viên Bộ Chính trị, công thần cách
mạng, nhưng lại có quan điểm thân Trung, và ông đã bị thất sủng vì điều này
(Hoàng Văn Hoan).
Không
cho phép sự tồn tại lãnh đạo thân Trung, chỉ cho phép một lãnh đạo biết ứng đối
với Trung. Câu chuyện đó không chỉ là câu chuyện của những người quan tâm đến
chính trị, mà cả đối với một bộ phận dân chúng Việt, những người sinh ra - lớn
lên và hít thở một bầu không khí "không thân Trung".
Chính
một lớp người như vậy, đã giữ cho Việt Nam không là Trung Quốc, và vĩnh viễn sẽ
không thể là Trung Quốc tiếp theo, bất chấp sự tương đồng về mặt ý thức hệ hiện
nay.
Tính
cách "không ưa Trung" của người Việt cũng sẽ phán xét tính chính danh
cầm quyền của một lãnh đạo, thậm chí là một đảng phái chính trị bất kỳ. Và nếu
đối diện sự thật, thì "thân Bắc Kinh" sẽ là hố chôn công danh đối với
một chính trị gia, hoặc một đảng phái trong tương lai.
Trong
bài trả lời phỏng vấn về nhân sự Đảng trước ĐH 13, nhà nghiên cứu Vũ Hồng Lâm
nhận định rằng, ông Phạm Minh Chính dù tạo ấn tượng tốt với giới doanh nhân và
ngoại giao Đông lẫn Tây, nhưng dự luật Đặc khu do ông chủ xướng bị phản ứng, và
quá trình tìm hiểu dự án người ta nhìn thấy một phần mối quan hệ của ông với
Trung Quốc, khiến người không ưa trở nên nghi ngại hơn. Nhận định này là xác
hợp với tâm tính dân tộc Việt, và với ngay cả ông Nguyễn Phú Trọng, cũng khiến
không ít người nghi ngại vì vị trí Tổng Bí thư cũng như câu khen ngợi,
"trà Việt Nam không ngon bằng trà Trung Quốc".
Những
nhân vật, dự án,... có yếu tố Trung Quốc cũng gặp nhiều sự phỉ báng tại Việt
Nam, đến mức ông Phùng Quang Thanh, thời kỳ còn đương chức Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng cũng phải bày tỏ lo lắng vì, "xu thế ghét Trung Quốc từ trẻ con đến
người già".
Cuộc
biểu tình phản ứng Formosa, chống xâm lấn chủ quyền của HD-981, hay mới đây là
dự Luật đặc khu,... thu hút hàng vạn con người đã cho thấy "quốc
tính" về Trung Quốc sẽ là như thế nào.
Đảng
CSVN có thể học tập Trung Quốc về đổi mới kinh tế, về xây dựng cơ sở hạ tầng,
về chỉnh dốn đảng,... Bởi chính đảng với sự độc tôn quyền lực cho phép họ làm
như thế, và bản thân sức mạnh cưỡng chế nhà nước còn đang trong tư thế sẵn sàng
cho mọi biến cố. Tuy nhiên, nếu tiếp tục "học tập" theo mọi yếu tố
Bắc Kinh, thì chính bản thân Đảng CSVN sẽ tự tước bỏ đi tính chính danh của
mình, đặc biệt, những cách thức "nhập học" liên quan đến chỉnh đốn
đảng, nhưng lại tác động đến quản trị xã hội như luật an ninh mạng, đặc khu,
hay vấn đề về xã hội dân sự.
Việt
Nam hoàn toàn khác Trung Quốc, và lãnh đạo mà người dân hướng tới không phải là
thân Trung. Những điều kiện về internet, cơ sở hạ tầng, quốc tính cũng làm cho
Việt Nam riêng biệt so với Bắc Kinh, và có những thuận lợi lớn hơn so với Bắc
Kinh.
Năm
2019 đánh dấu 100 năm phong trào "Ngũ tứ" tại Trung Quốc, nhưng với
những gì Bắc Kinh đã làm để kiềm chặt dân chúng trong sự ngu dốt, thì Việt Nam
có thể là quốc gia có cơ hội làm tốt điều đó hơn.
Đó
là bao gồm việc đòi hỏi, giành chủ quyền đất nước, trừng trị bọn bán nước; trả
Việt Nam cho người Việt Nam,... Điều này càng ý nghĩa trước thềm ĐH 13 của
ĐCSVN, thời điểm đưa ra các quan điểm và yêu cầu cải cách, để Việt Nam trưởng
thành hơn bên cạnh Bắc Kinh, vượt Bắc Kinh về dân trí và ý thức tự cường, khả
năng chớp lấy các cơ hội bên ngoài, và là quốc gia trả quyền lực về tay nhân
dân.
Việt
Nam không phải là Trung Quốc, nhưng Trung Quốc sẽ là Việt Nam tiếp theo trong
tương lai.
A.V.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét