Công bố lần đầu tiên một chương hồi ký của nhà văn Nguyên Ngọc
Đôi
lời cùng bạn đọc
Diễn Đàn xin
đăng dưới đây, lần đầu tiên, toàn văn một chương hồi ký của nhà văn Nguyên
Ngọc. Bắt đầu từ năm 1978, khi ông được cử làm Phó tổng thư ký Hội Nhà văn
Việt Nam, Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn, viết bản "Đề dẫn" đọc trước
hội nghị đảng viên – bản "đề dẫn" cho đến nay chưa hề được công bố
ở trong nước, và đã gây sóng gió một thời – chương hồi ký kết thúc ở thời
điểm cuối năm 1988, khi tác giả phải chấm dứt công việc Tổng biên tập
báo Văn nghệ – độc giả còn nhớ mãi những số báo Văn
nghệ "thời Nguyên Ngọc".
Tôi
được gặp Nguyên Ngọc, lần đầu tiên, vào mùa hè 1981, tại trụ sở "phía
Nam" của báo Văn nghệ, 43 Đồng Khởi, Sài Gòn. Đến thăm nhà thơ Nguyễn Duy,
như mọi lần, và lần này tình cờ được gặp tác giả "Đất nước đứng
lên", "Đường chúng ta đi", "Đất Quảng I", và tác giả
"Con trâu" (nhà văn Nguyễn Văn Bổng) vừa từ Hà Nội vào.
Không
cần nhắc, mọi người đều nhớ tình hình Việt Nam khó khăn ra sao vào đầu thập
niên 80 (chiến tranh Campuchia, Trung Quốc tiếp tục bắn phá ở biên giới sau
khi thất bại trong cuộc chiến "dạy cho Việt Nam một bài học" 1979,
Mỹ cấm vận, thuyền nhân, kinh tế khủng hoảng…). Làm báo Việt kiều, tôi càng
lo lắng thêm khi đọc bài viết của nhà thơ Chế Lan Viên (hình như dưới một bút
hiệu khác, nhưng dễ nhận ra văn phong tác giả) lên án một đường lối văn nghệ
"chống Đảng" thể hiện qua một bản "đề dẫn" (không nói tên
ai viết) và bài viết nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến về "văn học phải
đạo". Giọng điệu của họ Chế khiến tôi tự hỏi: Sẽ có chăng một vụ Nhân
văn Giai phẩm? Rồi hậu quả sẽ ghê gớm đến đâu?
Chính
vì nỗi lo ấy, mà ngay phút đầu, hai anh vừa ở Hà Nội vào, tôi vừa chân ướt
chân ráo từ Paris về, tôi đành liều hỏi thẳng thừng: Chuyện gì đang xảy ra ở
Hội Nhà văn? Tại sao anh Chế Lan Viên viết như vậy? Điều khá bất ngờ, là gần
như ngay tức khắc, anh Nguyên Ngọc đã trả lời không tránh né, tuy ngắn gọn,
nhưng đủ để tối hiểu bản chất vấn đề. Năm sau, tôi bị cấm cửa, mãi mùa thu
2001 mới có visa về nước. Ở Hà Nội, đến thăm anh Nguyễn Văn Bổng. Nhắc lại
cuộc gặp trước, Hè 1981, anh Bổng mỉm cười, nói sau đó Nguyên Ngọc nói với
anh, câu hỏi thật bất ngờ, lại đến từ một người chưa quen biết, từ xa về,
nhưng anh ấy đã quyết định trả lời thẳng thắn. Quan hệ giữa chúng tôi đã bắt
đầu từ cuộc hỏi thẳng thừng, đáp thẳng thắn như thế. Từ đó là gần ba mươi
năm. Những năm đổi mới, báo Văn nghệ khởi sắc, tôi vẫn bị cấm cửa, nên chỉ trao đổi
với anh bằng những dòng thư ngắn. Sau này, ở Paris, hay trên đường xe hơi chở
anh sang dự hội thảo hè ở Munich, hay chuyến đi thăm Đà Nẵng, Tam Kỳ, được
anh dẫn đi ăn mì Quảng, tôi có thời gian trò chuyện với anh, nhưng chủ yếu
chỉ nói chuyện hiện tại, chuyện dự án (anh dự định mở Trường đại học Phan
Châu Trinh ở Hội An, rồi lập Quỹ văn hoá Phan Châu Trinh...). Tôi không hỏi
anh về thời gian 1978-99 ở Hội Nhà văn, có lẽ chỉ vì muốn tiết kiệm thời giờ.
Khi có dịp nói về quá khứ, tôi thường hỏi anh về Khu V thời kháng chiến chín
năm và thời đánh Mỹ vì đó là địa điểm và thời điểm tôi ít hiểu biết... Còn
một lẽ nữa, là khoảng giữa thập niên 90, một người bạn thân của anh ghé qua
Pháp, đã cho tôi một bản chụp bản thảo chương hồi ký Hoà bình khó
khăn, với điều kiện "chỉ để anh đọc, không đưa ai, không nói với
ai".
Quen
làm báo, tuân thủ nguyên tắc bảo vệ nguồn tin, tôi giữ đúng lời hứa, đọc xong
cất kỹ. Kỹ tới mức đôi khi muốn đọc lại mà tìm không ra. Vừa qua, đi xem phim
Trang giấy trắng của đạo diễn Hồ Quang Minh, trong cuộc thảo luận của câu lạc
bộ YĐA xoáy quanh tình hình Campuchia dưới thời Pôn Pốt, tôi chợt nhớ tới
những trang viết của Nguyên Ngọc về chuyến đi "quyết định" của anh
năm 1979 ở Campuchia, và hứa với các bạn, tôi đang dọn nhà, cho mấy ngàn cuốn
sách vào thùng để tặng các thư viện, sẽ cố tìm lại tập hồi ký Nguyên Ngọc và
xin phép công bố.
May
thay, năm ngày sau, mở ra thùng các-tông gần chót trong phòng, tôi tìm ra 35
trang ấy. Sau một đêm đọc lại, tôi viết ngay thư cho tác giả, đề nghị, nếu
anh không tính đợi khi hoàn thành hồi ký mới công bố, thì thiết tha mong anh
cho công bố ngay tập bản thảo, mà chủ đề là câu chuyện văn học và không khí
chính trị Việt Nam cách đây vừa đúng 40 - 30 năm; và nếu anh dành cho Diễn đàn vinh dự ấy, thì tôi sẽ xung
phong làm "cậu đánh máy" vì thấy có khả năng "giải mã"
mấy chục trang viết tay "xấu như đơn thuốc bác sĩ" của anh.
Dưới
đây là toàn văn chương hồi ký ấy của nhà văn Nguyên Ngọc. Nó đã được tác giả
kiểm lại, không thay đổi, chỉ thêm một đoạn (chữ nghiêng) để giữ mạch lạc
giữa hai phần của chương sách.
Diễn đàn trân
trọng giới thiệu với bạn đọc. Cùng với lời cảm ơn tác giả, chúng tôi mong nhà
văn Nguyên Ngọc sớm hoàn thành tập hồi ký chứng từ quý báu này.
Nguyễn
Ngọc Giao
15.6.2019
|
HOÀ BÌNH KHÓ NHỌC
Giữa năm 1978, từ chiến trường miền Nam ra và đang ở 4 Lý Nam Đế
(1), tôi được quân đội gửi đi học trường Nguyễn Ái Quốc. Học chưa xong, lại có
lệnh gọi về: Ban bí thư Trung ương Đảng vừa quyết định thành lập Đảng đoàn Hội
Nhà văn Việt Nam. Đảng đoàn gồm chín người: Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Chế Lan
Viên, Hoàng Trung Thông, Nông Quốc Chấn, Giang Nam, Nguyễn Khải, Anh Đức và
tôi. Tôi được chỉ định làm bí thư. Để tiện công việc, một Hội nghị Ban chấp hành
Hội Nhà văn bổ sung tôi làm phó tổng thư ký Hội (hội nghị là hình thức thôi, ai
cũng biết). Tổng thư ký: Nguyễn Đình Thi. Một phó tổng thư ký nữa: Tô Hoài.
Theo chỗ tôi biết, tất cả là do ông Tố Hữu xếp đặt. Ý định khá rõ: tạo một
ê-kíp lãnh đạo mới, trẻ, đồng thời bảo đảm “có sự kế tục” – đường lối cán bộ
của ta trước nay vẫn thế.
Tôi còn giữ được một bức ảnh chụp ở ghế đá trước sân Hội, 65
Nguyễn Du, dịp Đảng đoàn họp phiên đầu tiên. Trong ảnh vắng Tô Hoài và Hoàng
Trung Thông. Tô Hoài lỉnh đi đâu đó, tính anh vẫn thế. Còn Hoàng Trung Thông
thì chắc chắn là đi uống rượu.
Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam năm 1979. Hàng
đứng: Nông Quóc Chấn, Trần Độ (Trưởng ban Văn Hóa Văn nghệ Trung ương), Nguyễn
Khải, Hoàng Trung Nho (phái viên Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương), Vương Linh
(Chánh văn phòng Hội Nhà văn). Hàng ngồi: Giang Nam, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình
Thi, Nguyên Ngọc, Anh Đức
Nhìn ảnh tôi kinh ngạc: ngày ấy, 1978-79, tôi vẫn còn trẻ thế.
Sau mười mấy năm chiến trường miền Nam trông tôi vẫn còn rất thư sinh, nho nhã,
trán chưa một nếp nhăn, tóc đen tuyền, hơi gầy, và có vẻ vô tư… Ra hòa bình, và
cuộc vật lộn trong cái hòa bình đó lại làm mình già đi nhanh gấp mấy lần chiến
tranh. Cũng phải thôi. Gập ghềnh, ác liệt hơn nhiều…
… Mấy năm sau 1975, tôi vẫn chưa viết được gì. Văn nghệ
Quân đội tung một số anh em đi các chiến trường cũ, viết về cuộc đại
thắng 75. Nguyễn Khải viết Tháng ba Tây Nguyên, Xuân Thiều Mùa
mai đỏ, Hữu Mai, Hồ Phương, Nam Hà, Nguyễn Trọng Oánh… đều có sách. Riêng
tôi, đi rồi về tay không. Đất Quảng tập II, tập III viết rồi
lại xé. Rồi lại viết, lại xé. Lại viết, lại xé.
Con gái tôi bắt đầu học chuyên Toán, bảo:
Bố cứ viết thật nhiều đi, để con có giấy làm nháp toán.
Mẹ nó mắng:
Hỗn!
Nhưng cô ấy mừng: Con bé hóm, tức là thông minh. Cô vẫn lo nó bị
ảnh hưởng chất độc hóa học của bố mẹ, trí óc phát triển không bình thường.
Hồi 1971-72 ở chiến trường tôi không viết tiếp được Đất
Quảng vì bị Giả của tôi đâm một phát đúng tim (2), choáng váng. Bây
giờ không phải thế nữa. Không thể đổ lỗi cho nhân vật nữa. Vết thương cũ đã
nguôi ngoai.
Hàng nghìn trang bản thảo bị xé vì cầm bút lên, lại… Đường
chúng ta đi (3)! Quán tính rất mạnh. Tôi muốn cưỡng lại. Cưỡng không
nổi. Muốn viết khác, biết phải viết khác. Nhưng khác thế nào? Chưa biết.
Những ngày ấy, chắc chẳng ai ngờ, tôi thành một kẻ thất nghiệp
hoàn toàn. Ngày ngày lao vào làm đủ thứ công việc eo sèo của một cặp vợ chồng
son ngơ ngác và vụng về. Giặt giũ quần áo cho vợ cho con, bốn giờ sáng đã dậy,
hối hả chạy ra cửa hàng Đặng Dung chen lấn với mấy bà nội trợ và một lô bà phục
vụ của các ông to giành giật xếp cho được một hòn gạch để chen lấy chỗ mua cho
vợ được một cái chân giò, một lạng thịt nạc. Lại chen chúc đi đong gạo, mua
dầu, mua cá biển đầy xương là xương và ướp đá lạnh ngắt từ Hải Phòng chở lên.
Chen chúc, cả chửi bới nữa, van xin, lạy lục nữa cũng có, để xin cho được một
cái phiếu sữa, một phiếu đậu phụ… Rồi nấu nướng. Rồi bế con đi nhà trẻ. Rồi dẫn
con đi mẫu giáo. Rồi lo cho con vào cấp I, vào chuyên toán… Bận rộn, tíu tít,
cố mà bận rộn, mà tíu tít, tự đánh lừa mình và đánh lừa bạn bè… để khỏi phải
ngồi vào bàn, đối mặt với trang giấy trắng, khỏi phải viết. Bởi vì biết viết
thế nào? Bí rị. Chữ viết ra cứ nằm bẹp trên mặt giấy, chết khô, chán ngán!
Thật ra, cố mà bận rộn vẫn không hết được thì giờ. Vẫn cứ rảnh
rỗi một cách xấu hổ, đau đớn. Tôi lêu lổng khắp các phố, nhiều đêm lang thang
ngắm các cô gái Hà Nội mới lớn lên, đẹp không chịu được mà nói tục cũng không
chịu được. Lêu lổng như một thằng ma-cà-bông vô nghề nghiệp, vô tích sự. Nửa
đêm mới về. Vợ tôi không bao giờ nghi chồng. Cô chỉ lo:
Sao anh về khuya thế?
Anh đi có việc.
Thôi anh nằm xuống đây, nhè nhẹ cho con ngủ. Anh sờ trán xem,
hình như nó hơi ấm.
Tôi không dám nói với vợ cái điều ghê gớm này: Tôi là một thằng
bất tài.
Anh có biết cái cảm giác ấy không? Anh cầm bút mấy chục năm
trời, anh có tác phẩm, có danh tiếng, sách được đưa cả vào chương trình nhà
trường, trung học, đại học, sinh viên làm cả luận văn về anh, các thầy ra rả
giảng dạy về anh…, vậy rồi đến một lúc, tự anh, anh mới nhận ra: có lẽ nhầm
đường, nhầm nghề mất rồi. Tất cả những cái đã qua chỉ là tình cờ, ngẫu nhiên,
chó ngáp phải ruồi, chứ thật sự anh chẳng có tài cán gì ráo. Anh không thể,
không phải là nhà văn.
Nhà văn sao chẳng viết được gì, chẳng biết viết gì cả.
Nhiều bạn bè rất thân bảo tôi:
Mày cầu toàn bỏ mẹ. Cứ viết bừa đi. Có cái hay cái dở là chuyện
thường. Viết đi. Vốn sống đầy ắp ra đấy. Cầu toàn!
Lời trách nghe rất sang trọng. Tôi im lặng, một cách dối trá, để
cho người ta trách. Để không viết, chưa viết chỉ vì quá cầu toàn, sang quá, oai
quá rồi còn gì!
Thật ra, lần này thì tôi không tự dối mình, không những tôi
không biết viết thế nào, đơn giản hơn nhiều: tôi không biết viết gì cả. Chẳng
có gì trong mình để viết ra cả.
Sau này tôi có đọc ở đâu đó của nhà phê bình Pháp rất tinh tế
Maurice Blanchot: “Dấu hiệu chứng tỏ tầm quan trọng của một nhà văn, là ở
chỗ anh ta chẳng có gì để nói cả” (4). Tất nhiên, tôi là loại nhà văn chẳng
có tầm quan trọng gì. Nhưng sao cái ông Blanchot tận bên Tây ấy giỏi thế!
Tầm quan trọng của bước chuyển của một nền văn học là ở chỗ nó
đột ngột cảm thấy “chẳng có gì để nói cả”. Một khoảng chân không tuyệt đối.
Cái cũ đã nói rồi. Cái mới chưa có.
Tôi cho rằng văn học ta khoảng từ 75 đến gần 80 là như vậy (thời
gian cụ thể nói ở đây chẳng có gì chắc chắn lắm đâu).
Không làm gì có chân không tuyệt đối. Vẫn có vật chất và vận
động trong ấy. Cái cũ “đã nói rồi” vẫn còn lải nhải được nói tiếp, nhạt nhẽo,
vô vị, theo quán tính. Và cái mới đã manh nha đâu đó, mơ hồ, mò tìm, cảm giác,
thiểu số, rất thiểu số.
Có lẽ Nguyễn Minh Châu là một trong ít người cảm giác ra sớm hơn
cả. Nhưng anh không nói, cả với tôi, dẫu chắc anh có biết tôi cũng đang đau khổ
đi tìm. Anh quờ quạng viết. Hãy nhớ lại một ít truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ngày
ấy. Đọc rất khó hiểu, chẳng biết anh định nói cái gì. Có lẽ chính anh cũng
không hiểu. Anh mới cảm giác thôi.
Tôi thua anh xa. Tôi cảm giác kém hơn, mơ hồ hơn. Và tôi im
lặng.
… Tôi bắt đầu làm Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn trong tình trạng
như vậy, chắc ông Tố Hữu khi sắp xếp tôi không hề ngờ đã giao trọng trách cho
một kẻ dao động đến thế.
Duy có một điều – điều này chính cuộc chiến đấu lâu dài, chính
Đảng đã rèn luyện cho tôi –, tôi biết phải thay đổi, quyết phải thay đổi. Không
phải chỉ tôi. Cả văn học ta.
Một hôm tôi đến làm việc với anh Trần Độ, bấy giờ là Phó ban
Tuyên huấn, trực tiếp phụ trách văn hóa văn nghệ. Tôi có biết anh Trần Độ trước
đây, đã lâu lắm, một lần tôi đi cùng anh Văn Phác xuống Quân khu Hữu ngạn đóng
ở Nam Định, anh Độ đang làm Chính ủy quân khu ở đấy, đâu khoảng 1960, 1961.
Biết, chứ chưa hề quen. Chống Mỹ, anh Độ ở Nam Bộ, tôi ở Khu 5, không hề gặp
nhau.
Tôi đến báo cáo với anh ý định công việc của Đảng đoàn. Cũng
không còn nhớ hôm ấy tôi đã trình bày những gì. Đại thể là khá dông dài, suốt
cả một buổi chiều. Anh Độ kiên nhẫn nghe. Cuối cùng tôi nói: Cố gắng làm thế
nào, giỏi thì khoảng mươi năm, dở thì mười lăm hai mươi năm, đưa văn học ta lên
một bình diện khác, tạo nên được một số đỉnh cao mới.
Anh Độ rót nước cho tôi, rồi nói, rất thong thả:
– Kế hoạch của cậu, mình tán thành cả. Nhưng mà, cậu ạ, mình
nghĩ trong nghệ thuật, muốn có đỉnh cao mới thì phải có trường phái mới.
Tôi kinh ngạc.
Và từ đó, tôi thân anh.
Sao con người ấy, vị tướng thú thực trước tôi nghĩ là giản dị,
đáng yêu, nhưng chắc cũng võ biền thôi, không phải người sáng tạo, không ở
trong nghề, vậy mà anh lại cảm nhận được điều đó?
Về sau, quen thân, làm việc, chơi bời với nhau nhiều nữa, tôi
chưa lần nào hỏi lại anh hồi đó anh nói trường phái mới là thế nào. Tôi chắc
anh cũng cảm giác thôi. Và anh diễn đạt như vậy.
Không phải ngẫu nhiên mà sau này Nguyễn Minh Châu cũng đến với
anh Độ.
Nhiều người ác mồm hay bảo anh Độ và một số anh em chúng tôi có
những âm mưu ghê gớm lắm. Có âm mưu thật đấy: âm mưu thực hiện cái cảm giác ấy.
*
Tôi về làm việc ở Hội Nhà văn chưa được vài tháng thì nổ ra
chiến tranh biên giới phía Bắc. Anh Nguyễn Đình Thi bảo:
– Phải đi sơ tán, lên Đà Lạt, bảo vệ lực lượng.
Tôi ngạc nhiên:
– Ơ, sao lại sơ tán? Phải lên biên giới chứ.
Tôi đi Cao Bằng, cùng anh Hồng Nghi.
Rồi đi Campuchia, cùng Nguyễn Khải và anh Nguyễn Văn Bổng.
Đi được là nhờ có Nguyễn Chí Trung. Sau 1975, Nguyễn Chí Trung
tập hợp được một số anh em thành cái gọi là Trại sáng tác ở Đà Nẵng, nhà số 10
đường Lý Tự Trọng. Thu Bồn, Thái Bá Lợi, Nguyễn Trí Huân, Ngô Thế Oanh, Nguyễn
Bảo, Bùi Minh Quốc, Thanh Quế, Trần Vũ Mai… Về sau, trại giải thể, một số ở lại
Quảng Nam, một số ra Hà Nội. Nguyễn Chí Trung về Văn nghệ Quân đội số
4 Lý Nam Đế. Tính Trung không ở nổi 4 Lý Nam Đế, tôi biết. Anh quá hăng hái,
việc gì cũng xông vào, hết mình, can thiệp vào mọi việc, mọi chỗ, hết sức vô
tư, chẳng có gì cho mình hết, một cái quần đùi, theo đúng nghĩa đen, cho riêng
mình cũng không. Mà 4 Lý Nam Đế bây giờ đã khác, cuộc sống hòa bình đã khác.
Mỗi người đã có cái riêng. Trung vừa hiểu vừa không hiểu…
Sau một thời gian lục đục nội bộ ở Lý Nam Đế, Trung bỏ đi. Anh
là người của chiến trường. Lại ra chiến trường. Đánh giặc cực giỏi. Tổ chức chiến
đấu cực kỳ điêu luyện, thấu đáo, tỉ mỉ, tháo vát, thông minh, và dũng cảm ít ai
bằng. Còn tổ chức cuộc sống thì cực vụng. Bị tất cả mọi người lừa một cách
trắng trợn, dễ dàng, kể cả người thân, họ hàng.
Một tính cách đặc biệt của Trung: nhất thiết phải có mặt ở những
thời điểm, địa điểm của lịch sử. Anh mãi mãi là người của “Đường chúng ta đi”.
Sáng 30 tháng 4-1975, trong khi chúng tôi còn lẽo đẽo hỏng xe ở
Phan Rang, Phan Thiết, Trung đã có mặt trên cầu Cỏ May Vũng Tàu trong đội hình
Sư đoàn 3; và ngay chiều đó lại có mặt ở Dinh Độc Lập Sài Gòn. Ngày 7 tháng
1-1979, Trung ngồi trên chiếc xe tăng đầu tiên đánh chiếm Nông Pênh.
Trung quen, hiểu và có uy tín lớn trong tất cả các đơn vị quân
ta ở Campuchia, kể cả các phi đoàn không quân, từ cấp Tư lệnh tiền phương bộ
tổng, cấp Quân đoàn, cho đến Đại đội, Ttrung đội, Tiểu đội. Anh em đùa:
– Máy bay quân sự đang bay, cần đi nhờ, ông Trung vẫy một cái,
nó dừng lại ngay.
Trung tổ chức cho chúng tôi đi Campuchia bằng máy bay quân sự,
từ Tân Sơn Nhất lên Nông Pênh, từ Nông Pênh về Tân Sơn Nhất, rồi lại từ Tân Sơn
Nhất lên Xiêm Riệp, từ Xiêm Riệp lại trở về Nông Pênh.
Đối với tôi, đó là chuyến đi quyết định.
Tôi đến Xiêm Riệp, gặp anh Thuận, anh em quen gọi là Thuận Nẹt,
để phân biệt với Thuận Lạc, anh này hồi ở trên núi thời chiến tranh, sáng ra đi
vệ sinh sau nhà, chẳng biết làm thế nào đi lạc luôn trong rừng suốt một tuần.
Thuận Nẹt là người quen cũ thời chống Mỹ, bây giờ làm Tư lệnh Mặt trận Xiêm
Riệp, cỡ tương đương Tư lệnh quân đoàn. Đến Xiêm Riệp, đương nhiên phải đi thăm
Angkor. Tàn quân Pôn Pốt vẫn còn bắn tỉa. Tư lệnh Thuận cho một Đại đội có cả
xe tăng đi trước dọn đường và bố trí bảo vệ chúng tôi đi xem Angkor.
Tôi gặp may: người hướng dẫn tôi hôm đó là Vik Keo.
Phải nói rõ điều này: người Pháp có công lớn với Angkor. Họ đã
phát hiện ra Angkor, đã công phu bền bỉ nghiên cứu, gìn giữ, tu bổ công trình
nghệ thuật kỳ vĩ này cho Campuchia, cho nhân loại. Họ có những chuyên gia tuyệt
vời về Angkor và suốt hơn trăm năm họ đào tạo cả một đội ngũ những người chuyên
bảo tồn Angkor (conservateur d’Angkor) hết sức thông thạo, có hiểu biết chuyên
môn và nghệ thuật cao, say mê, suốt đời sống và chết vì Angkor. Cho đến trước
1975 ở Campuchia còn được 50 nhà bảo tồn Angkor quý giá như vậy. Bọn Pôn Pốt
tàn sát hết. Còn sống sót duy nhất một người: Vik Keo.
Còn ta, ta có mỗi cái đàn Nam Giao, đã bị một “nhà văn hoá” phá
mất!
Angkor là cả một thế giới, toàn bằng đá, hoàn chỉnh, trọn vẹn,
mênh mông, phong phú và hài hòa, tương đương với cái thế giới ta đang sống đây,
có lẽ còn hơn thế nữa. Và Vik Keo, như một vị đạo sĩ giàu phép thần thông, dẫn
tôi đi vào cái thế giới vừa khép kín vừa không cùng ấy. Anh thuộc lòng từng
phiến đá, từng mẩu rêu, từng nét cong và từng vành môi mỗi pho tượng. Anh thì
thầm kể cho tôi, dạy cho tôi tỏ, chi tiết mà không vụn vặt, bao quát mà lại tỉ
mỉ về cái thế giới Angkor của anh, tôi như một chàng Lưu Nguyễn may mắn được
một vị thần linh cầm tay dắt đi và giảng giải thâm trầm về buổi hình thành, sự
tồn tại và sự vĩnh cửu của vũ trụ. Tôi được chỉ cho biết trời đất đã được tạo
lập nên như thế nào, buổi khai thiên lập địa đã từ hỗn mang được sắp xếp lại ra
sao, con người từ đâu đến, để làm gì, và rồi sẽ đi đâu. Vik Keo nói và đá
Angkor nói. Tôi như một kẻ tín đồ, vốn là một tên vô đạo bỗng một phút đốn ngộ,
im lặng lắng nghe, không dám nói một lời, hỏi một câu. Bởi vì, đi trong Angkor,
anh nghe không phải lời nói của con người, mà là sấm truyền của đá. Tiếng nói
của tạo hóa…
Chúng tôi lang thang từ mờ sáng đến sẩm tối, trong thế giới của
đá, Angkor Thom, Angkor Wat, Bayon, Sân Voi… cho đến tận dãy “hành lang ú tim”
(galerie de cache-cache) ngoằn ngoèo sâu lút đầu người, hẹp đến phải lách
nghiêng người mới lọt qua được vậy mà hai vách vẫn đầy tượng là tượng, tuyệt
đẹp, chẳng biết ai tạc, tạc để làm gì…
Mãi đến lúc tưởng đã kết thúc cuộc hành trình kỳ diệu, Vik Keo
bảo tôi, giọng rất nhỏ:
– Còn một kỳ diệu này nữa, của riêng tôi, hôm nay tôi tặng anh.
Anh nắm tay tôi, dẫn lên một đài đá cao, trước mặt là một tháp
sừng sững:
– Anh xem kìa!
Tôi ngửng lên. Trên đỉnh tháp, một nàng Apsara đang múa. Chỉ có
Vik Keo mới biết được điều này, và anh dành cho tôi hạnh phúc ấy: Bấy giờ đã
hơn năm giờ chiều, tất cả rừng đá Angkor mênh mông đã chìm trong màn đêm tím
sẫm. Chỉ còn một ngọn nắng cuối cùng, có lẽ chỉ lớn bằng hai bàn tay, óng muột,
và ngọn nắng ấy chiếu đúng lên đôi má nàng Apsara trên đỉnh tháp, chỉ chiếu vào
đôi má ấy thôi, khiến nàng bỗng đẹp đến mê hồn. Đôi má ửng hồng của một người
con gái vừa dậy thì cách đây hàng vạn hay hàng triệu năm.
Đâu chỉ một phút.
– Thôi ta chào nàng rồi về đi anh, Vik Keo nói.
Ngọn nắng cuối cùng cũng vừa tắt. Cô gái dậy thì “của Vik Keo”,
mà hôm nay anh cho phép tôi được hạnh phúc ngắm đúng một phút, đã lại chìm mất
trong bóng đêm vĩnh cửu.
Cảm ơn, cảm ơn vô cùng Vik Keo. Từ ấy đến nay đã mấy chục năm,
mấy chục năm loạn lạc trên cái đất nước đau khổ ấy. Vik Keo nay ở đâu? Còn
không? Người bảo tồn Angkor cuối cùng…
Tôi hỏi Nguyễn Chí Trung. Anh bảo để anh sẽ cố tìm xem.
Đêm ngủ ở chỗ anh Thuận Nẹt Xiêm Riệp tôi cứ nghĩ mãi, có lẽ
không phải con người đã làm nên Angkor. Nó quả quá sức con người… Nhưng vậy thì
ai?… Vẫn chỉ có thể là con người thôi.
Con người kỳ lạ đến thế đấy. Hình như các học thuyết của chúng
ta đã ra sức giải thích con người một cách trần tục quá chăng? Hãy đến Angkor
một lần. Có thể anh sẽ bớt “duy vật” đi một ít.
Cứ đến Angkor, cũng có thể anh sẽ nghĩ: hình như dân tộc này
chẳng cần đến văn học nữa. Họ viết tiểu thuyết bằng đá. Và đã viết xong rồi!
Sao Angkor lại rơi vào tôi đúng lúc tôi về làm Đảng đoàn Hội Nhà
văn? Nó có khiến tôi bắt đầu hiểu nghệ thuật khác trước đi chăng? Có phải trước
nay chúng ta, cả chính tôi, đã hiểu về nó quá thực dụng? Nó là gì trong đời
sống con người? … Thôi, ít ra Angkor cũng buộc tôi tự đặt cho mình những câu
hỏi vớ vẩn như vậy…
Những ngày Xiêm Riệp rất lạ. Hôm vừa bước xuống sân bay, anh
Nguyễn Văn Bổng khóc òa.
Nguyên là chúng tôi đến Xiêm Riệp bằng máy bay quân sự Liên Xô.
Có một phi đội như vậy ở Tân Sơn Nhất. Hàng ngày bay Tân Sơn Nhất – Nông Pênh,
Nông Pênh – Tân Sơn Nhất. Tân Sơn Nhất – Xiêm Riệp, Xiêm Riệp – Tân Sơn Nhất.
Chở đồ tiếp tế sang cho bộ đội. Và chở thương binh về.
Chúng tôi vừa đổ xuống sân bay Xiêm Riệp thì đã thấy ba, bốn
chục thương binh ngồi chờ ở đấy để được đưa về Sài Gòn. Tất cả đều trẻ măng, má
còn lông tơ. Thanh niên Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẵng, Nghệ Tĩnh… Và hầu như tất cả
đều… cụt chân. Mìn Trung Quốc. Sân bay chẳng có nhà ga. Họ ngồi bệt ra đường
băng. Những đôi chân chỉ còn một nửa, đến đầu gối, quấn băng trắng.
Tôi quay mặt đi. Cố nén để khỏi kêu thét lên: Lại một cuộc chiến
tranh nữa ư? Đến bao giờ?
Mới sáng nay, mới một tiếng đồng hồ trước đây, là Sài Gòn. Là
bia rượu. Là xô bồ. Là các thứ đấu tranh nội bộ, chen chúc, giành giật.
Bỗng tất cả đều trở thành vô nghĩa. Tôi biết tôi yếu đuối và sai
rồi. Cái bên kia, một giờ trước, là thật. Cái này cũng là thật. Đừng có lộn
xộn, mơ hồ.
Nhưng văn học làm gì?
Tại sao cứ thánh thót mãi một bản hùng ca quán tính?
Ở Xiêm Riệp, tôi làm quen với một Đại đội trưởng trinh sát nổi
tiếng tên là Trung, người Vĩnh Phú. Một đêm anh dẫn chúng tôi đi chơi trên Biển
Hồ. Trong đời, chẳng dễ gì có một đêm kỳ thú như thế nữa. Trung quen khắp mặt
dân Campuchia vùng này. Là ân nhân của rất nhiều gia đình người Khơme ở đây:
Đầu 1979, Đại đội trinh sát của anh đã cứu hàng trăm người khỏi tay Pôn Pốt. Ở
đây anh có vô số mẹ nuôi, chị nuôi, em nuôi. Anh về đây như về làng, về nhà.
Hôm ấy tôi thấy rõ ràng có một cô gái Khơme yêu Trung đến mê mệt, bộc lộ, trắng
trợn.
Tôi bảo:
– Đã sao, Trung!
Trung nói:
– Nhưng em đã có.
– Vĩnh Phú à?
– Không, Sài Gòn. Éo le lắm, để rồi em sẽ kể anh nghe…
Chúng tôi thả thuyền rong chơi Biển Hồ suốt đêm. Nghe dân
Campuchia hát. Ăn cháo cá và uống rượu. Cá Biển Hồ, cứ vục tay xuống nước, túm
lên ngay được một con, to tướng, béo ngậy.
Trung kể cho tôi nghe trận anh suýt chết trên biên giới Thái
Lan. Anh bị thương, và bị lạc, một mình, sang cả bên đất Thái. Chưa bao giờ tôi
nghe nói về cái khát ghê gớm như vậy. Dãy Đang Rek, biên giới Miên-Thái, sáu
tháng mưa tầm tã, sáu tháng khô, tuyệt không một giọt nước. Rừng toàn gai. Và
mìn. Mìn dày hơn cả gai. Trung bị thương, lạc, và khát. Mười ngày. Ngày thứ ba,
liếm hết giọt nước cuối cùng trong bình-đông. Ngày thứ năm, nuốt hết giọt nước
đái cuối cùng tự mình cố sức rặn ra. Khát đến điên dại. Khát đến cháy thiêu tận
từng tế bào. Xé hết quần áo. Khát đến hôn mê. Trung kể rằng trong một cơn mê,
anh thấy anh thoả thuê uống cạn sạch cả cái Biển Hồ Tonlêsáp Campuchia. Một cơn
mê khác, dữ tợn hơn, anh thấy anh bắt được một tên lính Pôn Pốt. Anh rút dao
găm, đâm ngay vào cổ họng nó và… ừng ực uống cho kỳ hết máu.
Lần ấy dân Khơme quanh Biển Hồ nhà nào cũng đã lập bàn thờ cúng
anh bộ đội Trung. Nhưng rồi Trung trở về: đồng đội tìm được anh trên đất Thái,
đúng lúc anh đang hấp hối…
Người ta đã định phong tặng Anh hùng cho Trung. Nhưng Trung có
một cái “phốt” nặng. Việc này, hai năm sau tôi mới biết.
Ngày giải phóng Sài Gòn, Trung đi làm công tác quân quản một
phường quận 10, gặp một cô gái gốc Huế, đâu quãng 16 hay 17 tuổi. Anh yêu. Cô
gái thật đẹp. Về sau có lần họ dẫn nhau ra Hà Nội, có ghé lại thăm nhà tôi. Vợ
tôi bảo:
– Em mà là con trai, em cũng yêu mất!
Nhưng cô gái có một người anh là “sĩ quan nguỵ ác ôn” đang đi
cải tạo.
Đơn vị ngăn cản, tất nhiên. Trung không nghe. 1975-1979, rồi 80,
81. Bao nhiêu lần kiểm điểm, Trung một mực không chịu thua.
Cuối cùng anh vứt tất cả, danh hiệu đảng viên, chức vụ đại đội
trưởng trinh sát nổi tiếng, cả cái Anh hùng Quân đội suýt được phong…, tất cả,
anh về Sài Gòn và cưới cô gái Huế của anh.
Anh bị đuổi khỏi chiến trường.
Năm ngoái vào Sài Gòn tôi có ghé thăm Trung. Anh chị ở Quận 10,
trong một hẻm rất khó tìm. Họ đã có hai cháu và sống hạnh phúc. Bây giờ Trung
làm một chân bảo vệ ở công viên Tao Đàn. Chị ở nhà, nội trợ. Chị bảo tôi:
– Đêm nào anh ấy về khuya quá, em lo cồn cào, chắc cũng giống
như lần anh ấy sắp chết khát trên biên giới Thái…
Cuộc sống, con người đấy. Sao văn học ta xoàng thế.
Định từ Xiêm Riệp quay xuống Nông Pênh, nhưng máy bay không có
chuyến, phải về Tân Sơn Nhất rồi mới quay lên.
Nông Pênh khiến tôi bàng hoàng.
Pôn Pốt là một cái gì đó rất kỳ lạ, có lẽ chỉ có một trong suốt
lịch sử.
Có người đã nói đến một thứ vũ khí sinh học gì gì đó, một cuộc
chiến tranh tưởng tượng, chỉ giết sạch người, còn thì tất cả đều nguyên vẹn,
không chút sứt mẻ.
Nông Pênh sau Pôn Pốt là một thành phố như vậy, còn lại nguyên
vẹn, không sứt mẻ. Tôi có đi thăm Hoàng Cung, Chùa Vàng, đài Độc Lập… Đến những
pho tượng giát toàn vàng vẫn còn nguyên.
Chỉ có con người đã biến mất.
Nguyễn Chí Trung bảo tôi:
– Ông có để ý không, tất cả các nhà đều không có số.
Trung tinh thật. Nhà cửa còn nguyên, sang trọng, lịch sự. Chỉ có
các số nhà đã bị xóa hết. Một dấu hiệu rất nhỏ của thời tàn phá Pôn Pốt: trên
đời này không còn bất cứ cái gì có tên, có một số hiệu để gọi cũng không.
Dấu vết tàn phá rõ nhất có thể thấy được có lẽ chỉ có cái nhà
Ngân hàng: tiền riêng, hàng đống, vô số, mới tinh, rất đẹp, màu
xanh và dài, từa tựa đồng đô-la, vứt đầy đường, từng xấp dày. Tôi có nhặt một
xấp, mang về cho con gái tôi chơi, bây giờ vẫn còn: không có người, không có
bất cứ sự quan hệ, giao lưu, đối thoại người-người nào nữa, nên đồng tiền vứt
đi là phải.
Tất cả còn nguyên. Chỉ có một cái biến mất: con người.
Nó biến đi đâu?
Hàng triệu người bị giết, ta biết rồi. Hàng triệu người đã bị
giết theo cách thức đơn giản nhất, thô sơ, nguyên thủy nhất: một nhát cuốc vào
đầu. Tôi đến nhà tù Tuol Sleng, xưa là trường học. Tuol Sleng nay thành bảo
tàng tội ác Pôn Pốt. Có một tấm bản đồ nước Campuchia lớn, chiếm cả một bức
tường, kết toàn bằng đầu lâu. Hôm tôi đến, mấy anh thợ bảo tàng đang làm cái
công việc kỳ dị ấy: kết tấm bản đồ toàn bằng đầu lâu. Mỗi chiếc đầu lâu đều có
một vết cuốc bổ toác. Không ở đâu trên thế gian này còn có một tấm bản đồ đất
nước như vậy.
… Nhưng có lẽ đấy vẫn không phải là cái chính. Hàng triệu người
bị giết. Nhưng cũng còn hàng triệu người không bị giết. Vậy ai bị giết?
Những ngày ở Nông Pênh, ở Campuchia, tôi hiểu ra điều này: Pôn
Pốt chỉ giết những người muốn còn là một đơn vị. Một đơn vị người.
Có tên, có tuổi, có quá khứ, có hiện tại, có tương lai, có số phận riêng, có
cuộc đời riêng, có cái khác riêng, dấu hiệu riêng dầu nhỏ nhất của riêng mình.
Nó không công nhận đơn vị, không công nhận cái riêng.
Không có đơn vị.
Chỉ có bầy.
Không có sự hữu danh.
Chỉ có bầy, tập thể vô danh.
Bầy vô danh và hoàn toàn trong sạch. Gia đình, vợ-chồng, cha-mẹ,
anh-em, bạn bè, xóm giềng, tình yêu, tình bạn… đều phải xóa hết, nghiền nát,
hủy diệt hết. Dấu hiệu của cái riêng mà!
Đó là chủ nghĩa tập thể tuyệt đối. Cái đồng nhất tuyệt đối. Sự
trong sạch nguyên khối, tuyệt đối.
Lịch sử, các nền văn minh nối tiếp làm nên lịch sử đã làm cho
bầy đàn hồng hoang vô danh, tiến hóa, biến dần thành những con người, từng đơn
vị con người hữu danh. Lịch sử phải chấm dứt. Phải trả lại sự tinh nguyên ban
đầu, sự trong sạch đồng khối nguyên vẹn đầu tiên và vĩnh cửu.
Đó là chủ nghĩa Pôn Pốt. Nỗi kinh hoàng thảng thốt lớn nhất của
nhân loại.
Nó tìm ở đâu ra cái lý tưởng kinh hoàng ấy?
Ở Nông Pênh tôi gặp một cặp vợ chồng trí thức còn sống sót một
cách kỳ diệu, anh là Kiến trúc sư, từng học ở Nhật, ở Nga, chị là Kiến trúc sư
nội thất. Họ còn sống sót vì họ đã khéo léo tự vô danh hóa mình, tự diệt tính
đơn vị của mình trước con mắt bọn Angka (5). Anh chị nói cho tôi biết rằng cả
Pôn Pốt lẫn Iêng Sari, và mấy tên lãnh tụ Khơme đỏ cao cấp nhất khác nữa đều
từng học ở Pháp về. Chính ở phương Tây chúng học được, chúng nung nấu lòng căm
thù đối với văn minh, mọi nền văn minh đã dẫn đến nền văn minh tư sản, bởi vì
chính văn minh, đặc biệt văn minh tư sản, đã đưa đến sự phát hiện ra cá nhân
sáng chói trong cộng đồng, dẫn đến sự hình thành cá nhân. Cá nhân là sa đọa.
Chỉ có bầy đàn mới trong sạch…
Mấy năm sau, trong một lần cãi nhau với Chế Lan Viên, anh ấy
nói:
– Loài người phát triển từ dị biệt đến đồng nhất, càng phát
triển cao càng đồng nhất cao.
Tôi, từ Campuchia trở về, tôi cãi:
– Không đâu, ngược lại, loài người phát triển từ đồng nhất đến
dị biệt. Đồng nhất cao trong sự dị biệt cao. Trong sự long lanh của từng cá
thể. Đi ngược lại thì sẽ dẫn đến Pôn Pốt! Nếu là xã hội chủ nghĩa, thì đó mới
là chủ nghĩa xã hội. Còn có một thứ “xã hội chủ nghĩa” khác: chủ nghĩa xã hội
Mao, và đỉnh cao của nó, chủ nghĩa xã hội Pôn Pốt. Đừng tưởng Pôn Pốt không
thành tâm làm chủ nghĩa xã hội. Nó có lý tưởng lớn đấy: chủ nghĩa xã hội bầy
đàn.
Chuyến Campuchia ấy đối với tôi là quyết định. Nó định hướng cho
mọi suy nghĩ và công việc của tôi.
*
Công việc Hội Nhà văn, ai từng ở đấy đều biết, muốn làm thì làm
bao nhiêu cũng không hết; không làm cũng chẳng sao. Người viết vẫn viết. Người
viết hay cứ viết hay. Người viết tồi cứ viết tồi.
Dạo ấy tôi cố gắng làm hai việc: hết sức góp phần lập Trường
Nguyễn Du. Và ra tờ Văn học nước ngoài.
Trường Nguyễn Du là để cố gắng dần dần tạo một thế hệ cầm bút
mới, đỡ thất học như chúng tôi.
Tờ Văn học nước ngoài là cố gắng để cho kinh
nghiệm văn học thế giới thẩm thấu dần vào ta.
Xin mãi, không ra chính thức được, chúng tôi làm nội san vậy, in
ronéo, in xê-len, rồi in typo. Có lần Bộ Văn hóa muốn bêu riếu những anh bất
hợp pháp, tổ chức triển lãm những tờ báo in lậu, Văn học nước
ngoài cũng vinh dự có mặt trong cuộc đó. Anh Đào Xuân Quí giúp tôi
trong công việc nội san này, bài vở, dịch thuật, mi báo, in
ấn, gần như một mình anh ấy chống chọi. Văn phòng Hội kiềng riềng vì kinh phí
không có, tiền báo không thu được. Tôi đánh bài lờ.
Công việc linh tinh khác cũng nhiều: đối nội, đối ngoại, chế độ,
chính sách, họp hành, trợ cấp, già, trẻ… Anh Tô Hoài cùng làm việc với tôi rất
ăn ý. Đã làm, anh làm đến nơi đến chốn, và gọn, nhanh. Nguyễn Khải đêm nào cũng
cùng tôi chụm đầu bàn bạc, trên căn phòng của anh ở 4 Lý Nam Đế. Anh em tâm đầu
ý hợp.
Công việc trước mắt là chuẩn bị Đại Hội Nhà văn lần thứ III.
Đại hội II họp năm 1962, lúc ấy tôi đã vào Nam. Gần 15 năm rồi
còn gì. Và riêng tôi, tôi nghĩ đã đến lúc có chuyện để mà họp.
Để chuẩn bị cho một Đại hội có chất lượng, thật sự có chuyện mà
nói, chúng tôi chủ trương triệu tập hội nghị đảng viên, thử cùng nhau bàn bạc
trước một số vấn đề dự kiến sẽ đưa ra Đại hội. Tôi được phân công viết một tài
liệu gọi là “Đề dẫn”, có tính cách gợi ý cho cuộc thảo luận sắp tới ở hội nghị.
Anh Tô Hoài lo công việc hàng ngày ở Hội. Nguyễn Khải lo việc tổ chức hội nghị
(danh sách đảng viên, triệu tập…). Anh Nguyễn Đình Thi nói rõ: anh sẽ góp ý
kiến mọi việc, nhưng xin để cho anh được dành nhiều thì giờ sáng tác. Giang Nam
làm Tổng biên tập báo Văn nghệ. Các anh còn lại trong Đảng
đoàn thì hoặc ở cơ quan khác, hoặc ở xa, ít trực tiếp tham gia công việc Hội.
Tư tưởng của chúng tôi, ít ra của chính tôi, là khá rõ ràng,
nhưng cách thức làm việc thì thật luộm thuộm và vội vã. Chúng tôi hối hả, lụp
chụp chuẩn bị hội nghị đảng viên.
Sau này nhớ lại, tôi có lần nghĩ: tại sao ngày ấy tôi lại hối hả
như vậy. Chậm lại, chắc hơn, suy nghĩ, tính toán, viết Đề dẫn kỹ, chậm hơn ít
nữa đã sao. Vậy mà tôi đã ngồi viết Đề dẫn hối hả, ngày đêm, bỏ ăn, bỏ ngủ,
viết đến đâu in ronéo đến đấy, bộ máy văn phòng Hội cứ chạy tíu tít lên.
Tại sao?
Ra tôi vẫn là người sáng tác chứ không phải người lãnh đạo.
Người lãnh đạo sẽ từ tốn hơn, cẩn thận hơn, biết kìm mình lại hơn, nhất là khi
đang toan tính một việc lớn như thế này.
Quả thật tôi có toan tính một việc lớn: bắt đầu cú đột phá cho
sự thay đổi văn học mà tôi mường tượng từ lâu, nay đang rõ dần trong đầu, trong
mong ước. Tôi bị sự thúc đẩy mãnh liệt hệt như người nghệ sĩ khi cảm hứng tích
lũy từ rất lâu, rất lâu, chợt ào đến, không cầm bút, không chộp ngay lấy bảng
màu, không ngồi ngay vào bàn… thì không kịp nữa, chậm mất, hỏng mất!
Tôi viết bản Đề dẫn hệt như sáng tác một thiên tùy bút, say mê,
bị cuốn hút ngay bởi những ý tưởng vừa hiện hình trên trang giấy, ý tưởng này
gợi ý tưởng kia, nối nhau, cuốn nhau, dồn lên nhau ào ào chảy ra.
Tôi nói văn học ta từ sau 75 bỗng đột ngột lâm vào một tình
trạng rất kỳ lạ: nó bỗng trở nên nhạt nhẽo. Người đọc, trước đây từng say mê nó
thế, từng coi nó là đời sống tinh thần thắm thiết, thống thiết không thể thiếu
của mình, nay bỗng đột ngột quay lưng lại với nó, thờ ơ. Họ không thèm đọc ta
nữa. Họ đi đọc sách nước ngoài. Họ bỏ ta.
Chính Chế Lan Viên ngày ấy, trong một cuộc họp Đảng đoàn, cũng
nói: Sách bây giờ nhiều, nhưng tác phẩm thì không có.
Vì sao?
Câu hỏi đầu tiên, bức bách, để đặt vấn đề mở đầu bản Đề dẫn là
như vậy.
Vì sao?
Tôi cố gắng cắt nghĩa:
Bây giờ ta có thì giờ hơn, bình tĩnh, yên ổn hơn, hết chiến
tranh rồi, kinh nghiệm cũng nhiều hơn, từng người viết, từng quyển sách viết ra
rõ ràng khá hơn, văn chương chỉn chu hơn, chương hồi rành mạch khôn khéo hơn,
sách “hay” hơn. Nhưng tất cả những cái hơn đó là để nói về một chuyện đã cũ, đã
qua, đã xong. Chúng ta vẫn tiếp tục, theo quán tính, trả lời một câu hỏi cũ: sự
mất còn của cộng đồng dân tộc trước hiểm họa ngoại xâm.
Câu hỏi ấy, nóng cháy trong suốt thời kỳ trước, nay lịch sử đã
trả lời xong rồi. Mà văn học thì cứ tiếp tục, theo quán tính, lải nhải trả lời
một câu hỏi đã có lời giải rõ ràng của lịch sử.
Trong khi lịch sử đã sang trang. Cuộc sống đã đặt ra những câu
hỏi mới, một loạt câu hỏi mới.
Người ta chán mình, bỏ mình là phải. Người ta đã đứng trước hàng
vạn câu hỏi cháy lòng, ngồn ngang, phức tạp mới, mà sách của anh, viết hay hơn,
dày hơn, in đẹp hơn, cứ lẩm cẩm vô duyên bắt họ nghe câu trả lời của anh về cái
chuyện họ đã vượt qua rồi. Anh lạc hậu, đáng đời nhà anh!
Vậy vấn đề số một của văn học hiện nay, theo tôi, là tìm ra
những câu hỏi mới của đời sống. Là nói về nó.
Chính ông Tố Hữu ngày ấy cũng nói: 30 năm nay chúng ta mới giải
quyết một vấn đề: sống hay là chết; bây giờ mới bắt đầu giải quyết vấn đề: sống
như thế nào?
Chính sự thay đổi câu hỏi cơ bản đó quyết định bước biến đổi cơ
bản hôm nay của văn học.
Vậy câu hỏi mới là gì?
Tôi quả quyết: Vấn đề số phận chung của cộng đồng đã xong. Bây
giờ là vấn đề số phận riêng của từng con người, trong cộng đồng.
Trước kia chưa có câu hỏi đó, chưa thể đặt ra, nó chìm lấp trong câu hỏi lớn
chung. Bây giờ nó trồi lên hàng đầu.
Tư tưởng cơ bản của Đề dẫn là như vậy. Nó nêu vấn đề mà nó cho
là lớn nhất của văn học bấy giờ ấy ra, và đề nghị hội nghị, rồi Đại hội cùng
suy nghĩ, cùng thảo luận.
Tất nhiên, tôi viết hối hả, dông dài, nhiều khi khá rối rắm,
không chặt chẽ, nhưng cái ý tưởng ấy là rất rõ ràng. Tôi nói: công việc của văn
học bây giờ là tham gia, là đi hàng đầu trong công cuộc giải phóng năng lượng
tiềm tàng và vô tận của từng cá thể con người.
Tôi nói: tập thể phải là sự tập hợp tự do và sinh động của từng
cá thể tự do, và long lanh sáng tạo. Không thể là tập thể vô danh, vô chủ, tập
thể bầy đàn…
Những đêm tôi ngồi viết, Nguyễn Chí Trung thường đi tới. Anh
hỏi:
– Đến đâu rồi?
Tôi buông bút. Hai anh em ngồi trao đổi, bàn luận, tranh cãi.
Nguyễn Chí Trung còn thấm Campuchia hơn cả tôi. Nguyễn Chí Trung là người rất
lạ: anh là nhà quân sự thực thụ, hết sức thực tế, chi li, tỉ mỉ đến lạnh lùng trong
tổ chức một chiến dịch, một trận đánh. Nhưng cũng lại là người nặng suy nghĩ
trừu tượng, thích đi đến những kết luận khái quát lớn. Những con người như thế
thì thường rất quyết liệt trong tư tưởng và hành động.
Sau này nhiều người phê bình tôi, thường bảo: Nguyễn Chí Trung
là đồng tác giả của bản Đề dẫn. Và như thế thì tôi rất vô nguyên tắc: Trung
không có chân trong Đảng đoàn, ngay trong Ban chấp hành Hội cũng không. Thật
tình bảo Trung là đồng tác giả cũng không hoàn toàn sai đâu. Từ Campuchia trở về,
anh còn quyết liệt hơn cả tôi đối với cái chúng tôi gọi là xu hướng chủ nghĩa
tập thể bầy đàn. Anh không trực tiếp tham gia bản Đề dẫn, nhưng anh làm rõ rệt,
mạnh mẽ hơn những ý tưởng của tôi.
Hai anh em ngồi bàn bạc đến khuya. Rồi Trung đi nằm. Tôi lại
ngồi cắm cúi viết, đến sáng. Trung cũng không ngủ. Anh đang thao thức một khái
quát lớn nào đó nữa để ngày mai anh sẽ nói với tôi, tôi biết.
Nguyễn Khải cũng hay đến. Trong thâm tâm, ở chỗ lắng đọng sâu
kín nhất của anh, Khải là một nghệ sĩ thực thụ. Chỉ có điều, trong một số hoàn
cảnh căng thẳng, nguy hiểm trực tiếp nào đó, nhiều khi anh không đủ sức đừng để
cho những lo toan khác lấn át, che lấp cái chất sâu kín ấy đi. Hồi bấy giờ chưa
có nguy hiểm trực tiếp. Anh tâm đắc với mọi ý tưởng của tôi, có khi còn giúp
tôi mài dũa cho những ý tưởng ấy sắc nhọn hơn…
Bản Đề dẫn được viết rõ rệt nhưng vội vàng ấy, được thông qua
trong tập thể Đảng đoàn cũng qua quýt vội vàng.
Nguyễn Đinh Thi nói đôi ý kiến phân vân dè dặt.
Tô Hoài ừ ào, không nói gì, và khi làm cái động tác gọi là thông
qua, anh đi ra ngoài có việc gì đó, không có mặt.
Giang Nam bảo: mới, mới lắm.
Chế Lan Viên bắt tay tôi:
– Rất được.
Ngay khi thông qua, có đoạn tôi còn chưa viết xong, chỉ trình
bày những ý chính, các anh trao đổi, góp ý kiến, tôi về mới ngồi viết tiếp.
Hội nghị được triệu tập cũng rất vội vàng, luộm thuộm, sai sót
lung tung. Nhiều đảng viên không nhận được giấy mời. Vài người không phải là
đảng viên cũng đến.
Không khí rất vui. Cái kiểu họp nhà văn bao giờ chả thế: anh em
đến, gặp nhau là vui rồi. Uống bia, bù khú, tán đủ thứ chuyện.
Tôi đọc bản Đề dẫn. Mọi người đều ủng hộ. Cãi lại, chỉ có Vũ Đức
Phúc. Anh ấy là một người “bảo thủ chân chính”, nhất quán, đến nay tôi vẫn tin
thế.
Anh Nguyễn Văn Bổng nói riêng với tôi:
– Không phải ngẫu nhiên mà người ta cử cậu làm bí thư Đảng đoàn.
Chưa hoàn chỉnh, nhưng được. Mở ra một cái gì mới.
Anh Xuân Diệu nói:
– Tớ thích nhất chỗ nói “triết học” về lịch sử phát triển con
người. Có thế chứ.
Nguyên Hồng cười ha hả.
Hoàng Trung Thông vừa đi uống rượu ở đâu đó về, nói rất dài, lý
luận nghiêm trang. Chúng tôi biết anh rồi: càng say càng lý luận nghiêm trang.
Anh nói về nhu cầu phải giải phóng cho sáng tạo.
Nguyễn Đình Thi cũng phát biểu dài, nói uyên bác đông tây kim
cổ. Và tôi không nhớ rõ dẫn dắt như thế nào, anh lại nói đến những kinh nghiệm
đau đớn của văn học Xô Viết: Essénine tự sát, Maiakovski cũng tự sát…
Trong số những người hăng hái hơn cả, có Chế Lan Viên. Anh phản
kích thông minh và cay độc những người bảo thủ, đòi cách chức Vũ Đức Phúc.
Anh em trẻ càng vui hơn. Họ tố khổ sự kìm chế sáng tạo.
Trước hội nghị vài ngày, tôi đã gửi bản Đề dẫn và giấy mời tới
ông Tố Hữu. Ông đến vào ngày thứ hai của hội nghị. Chế Lan Viên ra đón tận
cổng.
Ông bước vào, đi ngang đến chỗ Nguyên Hồng, nắm lấy chòm râu
Nguyên Hồng:
– Râu thật hay râu giả?
Nguyên Hồng chỉ cười. Nhưng không khí đột ngột không vui. Đám
nhà văn vốn nhạy: có một cái gì khác thường rồi…
Cho tôi ngừng lại một chút để nói về Nguyên Hồng.
Vài năm sau, anh mất, rất đột ngột. Hôm trước, chúng tôi đang
họp gì đó trên gác 65 Nguyễn Du, bỗng thấy Nguyên Hồng đẩy cửa bước vào. Vẫn
như mọi lần, quần áo bà ba nâu lôi thôi bạc thếch, tóc bờm xờm, trông rất bẩn,
chòm râu muối tiêu, mặt đỏ gay. Ý Nhi tả anh trong bài thơ rất đúng: tay ôm cặp
bản thảo (có thể của người khác) to đùng. Nói oang oang:
– Họp hả?… Mình mới ở Quảng Ninh đến, chấm giúp cuộc thi cho
chúng nó dưới ấy, vui lắm. Thôi chào. Họp thì cứ họp tiếp đi. Chào!
Nói xong quay ra ngay. Tôi tưởng anh sang phòng khác, thế nào
cũng còn ở lại Hội chơi một hai bữa như thường lệ, đi uống rượu với ông Nguyễn
Tuân, ông Tô Hoài, tối lại về Hội, cởi trần nằm ngay trên chiếc bàn dài chỗ văn
phòng Hội, mở quạt vù vù, ngủ chẳng màn chiếu gì cả.
Không ngờ, trưa họp xong, tôi xuống văn phòng hỏi, anh em bảo
anh đã đi mất rồi. Anh đi khắp các phòng, sang cả Nhà xuất bản Tác phẩm mới, cả
báo Văn nghệ, tạt qua mỗi chỗ một chút, chào tất, rồi đi. Sau này
nghĩ lại, mới thấy hơi bất thường: sao anh lại đi chào tất cả thế? Những lần
trước có thế đâu. Nhưng lúc ấy chẳng ai để ý. Cũng thường thôi, chẳng có gì lạ.
Sáng hôm sau, chúng tôi đang họp Thường vụ Ban chấp hành, bỗng
nhiên được điện. Vắn tắt có mấy chữ
“Ông Nguyên Hồng mất. Lên ngay.
Ký tên: Bà Nguyên Hồng”.
Tôi vội lấy xe đi ngay lên Nhã Nam. Cùng với Huy Hiền, con gái
anh Nguyễn Huy Tưởng, bấy giờ là cán bộ văn phòng Hội. Tôi vẫn hi vọng anh ốm
nặng đột ngột, chị Nguyên Hồng đánh điện thế để chúng tôi lên gấp. Nếu vậy sẽ
dùng xe này chở anh về bệnh viện Hà Nội, mong còn kịp.
Lên đến nơi, hóa ra anh đã mất thật.
Anh nằm đó, trên chiếc giường mộc, giữa căn nhà xơ xác, thanh
thản, yên tĩnh như một người ngủ say, chòm râu lốm đốm bạc, nước da vẫn còn
hồng hào.
Chị Nguyên Hồng kể: sáng nay anh ra ngồi đắp lại cái vách đất
nhà bếp bị chuột rúc, đang làm thì kêu mệt, chắc là bị trúng gió. Anh bảo chị
trải chiếc chiếu, nằm ngay gốc khế trước sân, định nghỉ một lát rồi lại dậy làm
tiếp. Nhưng càng lúc càng thấy khó thở. Chị dìu anh vào nhà, vừa kịp nằm xuống
giường thì anh đi luôn. Lúc ấy chỉ có mỗi chị Nguyên Hồng. Người đi đánh điện
cho chúng tôi chính là bà cụ hàng xóm sau nhà anh.
Tôi ra bưu điện Nhã Nam đánh điện gấp về Hà Nội, rồi quay lại
bàn với gia đình việc tổ chức tang lễ.
Đến chiều tối, anh em các nơi đã kéo lên rất đông. Hội liên hiệp
Văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà văn, Nhà xuất bản Văn học, Tác phẩm mới,
báo Văn nghệ, Uỷ ban tỉnh, huyện, Hội văn nghệ Hà Bắc… Cả Hải Phòng
cũng lên.
Hội Nhà văn là cơ quan chủ quản chủ trì lễ tang. Tôi phải viết
ngay bản điếu văn. Nhưng ở Nhã Nam lúc nào cũng đông đúc, ồn ào, bận rộn quá, e
ngồi viết không yên. Tôi lấy xe, đi thẳng về Bắc Giang, mượn một phòng vắng ở
cơ quan Hội văn nghệ tỉnh, ngồi viết suốt đêm. Chẳng có tư liệu gì trong tay,
tôi viết theo trí nhớ và lòng yêu mến của tôi đối với anh.
Bấy giờ Hà Bắc đã in tập I tiểu thuyết Núi rừng Yên
Thế của Nguyên Hồng. Bản thảo tập II đang dở dang. Tôi viết rằng anh
không phải người quê gốc Nhã Nam – Yên Thế. Anh vốn người Hải Phòng. Vậy mà
hàng chục năm nay, anh bỏ Hà Nội, cũng không về Hải Phòng, mang cả gia đình vợ
con lên định cư ở Nhã Nam – Yên Thế là để quyết cắm sâu vào mảnh đất lịch sử
Hoàng Hoa Thám này mà viết quyển tiểu thuyết lớn của đời anh. Một nhà văn quyết
sống và làm việc như thế, đẹp biết bao!…
Mờ sáng, viết xong, lại hộc tốc chạy lên Nhã Nam. Vừa kịp đọc điếu
văn trong lễ tang.
Lễ tang anh Nguyên Hồng là lễ tang nhà quê, có cờ phướn đi
trước, có phường bát âm ò í e, áo quan đặt trên chiêc xe tang thô sơ bốn bánh
xe đạp, người kéo người đẩy, cả làng xóm và bạn bè rồng rắn kéo qua cánh đồng
Tân Yên, ra an táng tại nghĩa trang chung của xã…
Một tuần sau, tại Hà Nội cũng tổ chức lễ tưởng niệm. Tôi đọc lại
bài điếu văn hôm nọ. Không khí thương tiếc bùi ngùi.
Lúc ra về, Tô Hoài kéo tôi cùng đi, bảo:
– Điếu văn cậu viết được, nhưng có một điểm sai toét. Cậu bảo thằng
cha Nguyên Hồng bỏ về cắm sâu đất Yên Thế là để viết Hoàng Hoa Thám. Nghe cảm
động đấy, nhưng đếch phải. Nguyên do thế này kia…
Thì ra – chuyện này, chắc chắn Tô Hoài biết rõ hơn tôi nhiều –
sau vụ đấu tranh Nhân Văn Giai Phẩm, cả Hội Nhà văn, nhất là báo Văn (tức
là Văn nghệ bây giờ) lại bị kiểm điểm một trận ra trò, từ trên
xuống dưới, chẳng thiếu mặt anh nào, gọi là vụ “Hậu Nhân Văn”. Anh nào cũng ít
nhiều bị dính.
– Cậu có biết thằng nào nhận khuyết điểm nhanh nhất, thành khẩn,
sâu sắc nhất không? Đố đấy!
Tôi chịu.
Tô Hoài cười:
Nguyễn Xuân Sanh!
Tôi phục Tô Hoài. Đúng quá! Tất cả các vị khác cọ quậy đôi chút,
rồi cũng nhận hết, tất nhiên nhiều vị nhận qua quýt cho xong. Nhận rồi, phải đi
thực tế, cải tạo tư tưởng. Đến như Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Văn Cao… cũng
phải kéo lên làm lại tư tưởng mãi tận nông trường Mộc Châu. Chính nhờ cái đận
ấy mà về sau Nguyễn Tuân viết được Sông Đà, Nguyễn Huy Tưởng thì
có Mười năm…
Riêng mỗi mình Nguyên Hồng, anh dứt khoát tuyên bố:
– Tớ đếch có sai lầm khuyết điểm gì hết! Không nhận gì hết!
Và anh vứt tất cả, quyết từ nay không dính dấp bất cứ nhiệm vụ
chức tước gì với cái “Hội Nhà văn của các ông” nữa. Anh vứt sạch mọi thứ ở Hà
Nội, cả tem phiếu bao cấp là thứ sinh tử ngày ấy, về Hải Phòng cũng chả thèm,
kéo toàn bộ vợ con gia đình đang nheo nhóc lên rừng Nhã Nam – Yên Thế mà ở,…
cho đến chết.
Ở Nhã Nam, xã Tân Yên, có một ngọn đồi, nguyên xưa là đồi hoang,
toàn sim dại, lau sậy, gọi là Đồi Cháy hay Cầu Đen. Hồi chống Pháp, một bộ phận
Văn nghệ Trung ương được đưa về đóng ở đấy. Phát hoang, làm nhà, sinh sống và
viết. Có cụ Ngô Tất Tố, họa sĩ Tạ Thúc Bình, Kim Lân, Nguyên Hồng… Chính họ là
những vị tiên hiền đầu tiên lập ra cái ấp này, sau dân mới dần dần kéo lên ở
ngày càng đông, thành làng, gọi là ấp Cầu Đen hay ấp Đồi Cháy. Cụ Tố mất ở đấy,
thời bắt đầu cải cách ruộng đất.
Hòa bình, các gia đình văn nghệ sĩ lần lượt trở về Hà Nội.
Nguyên Hồng, sau Nhân văn Giai phẩm tuyên bố “Tớ đếch sai lầm
khuyết điểm gì hết!” và anh quyết trở lại cái ấp kháng chiến ngày xưa của anh.
Xa xôi, hoang vắng, sống với dân quê, hoàn toàn trở thành một dân quê thực thụ,
xa lánh hết mọi cuộc đấu tranh linh tinh, vô nghĩa trong cái gọi là làng văn.
Nối anh với thế giới bên ngoài chỉ còn cái xe đạp cọc cạch, cọc cạch đạp từ Nhã
Nam về Hà Nội, cọc cạch đạp từ Hải Phòng ra Quảng Ninh. Anh đi giúp anh em trẻ
viết, bày vẽ, đọc của anh em mới tập tò vào nghề, chấm bài… và uống rượu với
anh em.
Đêm tôi ngồi viết điếu văn trong văn phòng mượn tạm của Hội văn
nghệ Hà Bắc, thấy có một cái xe đạp rất tàng dựng bên tường: chiếc xe nổi tiếng
của Nguyên Hồng. Chuyến ấy anh gửi xe đạp tại Hội Hà Bắc, đi xe đò về Nhã Nam.
Chắc anh đã cảm thấy trong người có gì hơi khác thường…
Nguyên Hồng là vậy.
N.N.
Chú thích:
1. Trụ sở tạp chí Văn nghệ quân đội ở Hà Nội.
2. Tôi viết Đất Quảng ngay trên chiến trường
Quảng Đà (bắc Quảng Nam). Xong tập I, đến tập II, Giả là nguyên mẫu nhân vật
chính (Thiệt) của tôi đi đầu hàng, tôi hoang mang, không sao viết được nữa.
3. Đường chúng ta đi là bài tùy bút từng nổi
tiếng của tôi kêu gọi đánh Mỹ khi Mỹ đổ 20 vạn quân vào Miền Nam năm 1965.
Giọng văn đầy hào sảng …
4. «Le signe de son importance, c’est que l’écrivain n’a rien à
dire» (L’espace littéraire).
5. Angka: tức “Tổ chức”, dưới thời Pôn Pốt
Nguồn: https://www.facebook.com/notes/diễn-đàn-forum/hồi-ký-nguyên-ng%E1%BB%8Dc-hoà-bình-khó-nh%E1%BB%8Dc-1/2407791615925980/?__tn__=H-R
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét