Posted by adminbasam on
29/07/2014
Ngày 28 tháng 07 năm 2014
THƯ NGỎ
Kính gửi: Ban Chấp hành Trung ương và toàn thể đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam
Từ nhiều năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) dẫn dắt dân tộc
đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình xô-viết,
được coi là dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin. Công cuộc đổi mới gần ba nươi năm qua
nhằm sửa chữa sai lầm về đường lối kinh tế nhưng chưa triệt để, trong khi vẫn
giữ nguyên thể chế độc đảng toàn trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc.
Đường lối sai cùng với bộ máy cầm quyền quan liêu, tha hóa tạo điều kiện cho sự
lộng hành của các nhóm lợi ích bất chính gắn với tệ tham nhũng, đưa đất nước
lâm vào khủng hoảng toàn diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh.
Trong khi đó, giới lãnh đạo Trung Quốc từ lâu đã theo đuổi mưu
đồ đặt nước ta vào vị thế lệ thuộc, phục vụ lợi ích của Trung Quốc. Sau Hội
nghị Thành Đô năm 1990 đến nay,Việt Nam đã có nhiều nhân nhượng trong quan hệ
với Trung Quốc, phải trả giá đắt và càng nhân nhượng, Trung Quốc càng lấn tới.
Gần đây, trong bối cảnh quốc tế phức tạp, Trung Quốc có nhiều hành vi leo thang
mới trong mưu đồ xâm lược và bá chiếm Biển Đông, coi Việt Nam là mắt xích yếu
nhất cần khuất phục trước tiên. Thực tế bóc trần cái gọi là “cùng chung ý
thức hệ xã hội chủ nghĩa” chỉ là sự ngộ nhận và “4 tốt, 16 chữ” chỉ
là để che đậy dã tâm bành trướng. Cho đến nay, thế lực bành trướng Trung Quốc
đã đi được những bước quan trọng trong mưu đồ biến Việt Nam thành “chư hầu kiểu
mới” của họ.
Thực trạng đau lòng này phơi bày sự yếu kém cả về trách nhiệm và
năng lực của lãnh đạo đảng và nhà nước trong thời gian qua.
Toàn thể ĐCSVN, trong đó có chúng tôi, phải chịu trách nhiệm
trước dân tộc về tình hình nói trên và phải góp phần tích cực khắc phục những
sai lầm đã gây ra; trong đó phần trách nhiệm chủ yếu và trước hết thuộc về Ban
Chấp hành Trung ương và Bộ chính trị.
Vì vậy chúng tôi, những người ký tên dưới đây, thấy cần bày tỏ
suy nghĩ của những đảng viên ĐCSVN trung thành với tâm nguyện vì nước vì dân
khi vào Đảng với mấy yêu cầu chính dưới đây:
1. Trước tình thế hiểm nghèo của đất nước,
với trách nhiệm và vị thế của mình, ĐCSVN tự giác và chủ động thay đổi Cương
lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang
đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn
trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa. Ngay từ bây giờ, cần thảo
luận thẳng thắn và dân chủ trong toàn Đảng và trong cả nước về tình hình mọi
mặt của đất nước và những thách thức trước bước đi mới rất trắng trợn của Trung
Quốc bá chiếm Biển Đông, vạch ra con đường chuyển đổi cơ cấu kinh tế lạc hậu và
lệ thuộc nghiêm trọng vào Trung Quốc hiện nay, xây dựng hệ thống nhà nước pháp
quyền thật sự dân chủ. Chỉ có như vậy mới phát huy được sức mạnh trí tuệ, tinh
thần và vật chất của dân tộc Việt Nam, tăng cường được đoàn kết, hòa hợp dân
tộc và tranh thủ được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân loại tiến bộ, mở ra một thời
kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ đất nước.
Quan điểm nêu trên cần được thấu suốt và thực hiện ngay trong
việc chuẩn bị và tiến hành đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần
thứ XII với các đại biểu được bầu chọn thật sự dân chủ, đáp ứng được yêu cầu
chính trị của đại hội. Đó là trách nhiệm của các tổ chức đảng các cấp và của
từng đảng viên có tinh thần yêu nước. Đồng thời, kỳ bầu cử Quốc hội sắp tới
phải thật sự dân chủ, tạo lập một Quốc hội chuyên nghiệp, xứng đáng đại diện
cho dân, đáp ứng yêu cầu lập pháp chuyển đổi thể chế chính trị.
Việc cần làm ngay để thể hiện sự thực tâm chuyển đổi thể
chế chính trị, tạo niềm tin trong dân là các cơ quan công quyền chấm dứt các
hành động sách nhiễu, trấn áp, quy kết tùy tiện đối với người dân biểu tình yêu
nước, đối với các tổ chức xã hội dân sự mới thành lập, trả tự do cho những
người đã và đang bị kết án hình sự chỉ vì công khai bày tỏ quan điểm chính trị
của mình.
2. Lãnh đạo đảng và nhà nước thống nhất
nhận định về mưu đồ và hành động của thế lực bành trướng Trung Quốc đối với
nước ta, từ bỏ những nhận thức mơ hồ, ảo tưởng; và có đối sách trước mắt và lâu
dài bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống,
thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc, xây dựng quan hệ láng giềng hòa thuận,
hợp tác bình đẳng, vun đắp tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.
Là người chủ đất nước, nhân dân có quyền được biết và phải được
biết sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc và những điều quan trọng đã ký
kết với Trung Quốc như thỏa thuận Thành Đô năm 1990, thỏa thuận về hoạch định
biên giới trên đất liền và vịnh Bắc Bộ, những thỏa thuận về kinh tế v.v…
Việc cần thiết và cấp bách hiện nay là phải nhanh chóng kiện
Trung Quốc ra tòa án quốc tế nhằm phát huy thế mạnh chính nghĩa của nước ta.
Đồng thời, Việt Nam cần chủ động cùng với các nước ven Biển Đông thỏa thuận
giải quyết những vướng mắc về chủ quyền trên biển với các đảo, bãi đá; củng cố
sự đoàn kết, thống nhất của các nước ASEAN, trước hết là giữa các quốc gia ven
biển, trong cuộc đấu tranh chống mọi hành động bành trướng của Trung Quốc muốn
độc chiếm vùng biển này thành ao nhà của mình.
Quan điểm “không liên minh với nước nào nhằm chống nước thứ ba”
là tự trói buộc mình, không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi.
Tổ quốc đang lâm nguy đồng thời đứng trước cơ hội lớn để thay
đổi! Trách nhiệm của các đảng viên yêu nước là phải cùng toàn dân nắm lấy thời
cơ này, vượt qua thách thức, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ
đất nước.
Bỏ lỡ cơ hội này là có tội với dân tộc!
______________________
DANH SÁCH CÁC ĐẢNG VIÊN KÝ THƯ NGỎ GỬI BCH TW VÀ TOÀN THỂ ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Nguyễn
Trọng Vĩnh, vào Đảng năm 1939, Thiếu tướng, nguyên Ủy viên dự khuyết Ban
chấp hành trung ương Đảng khóa III, nguyên Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam
tại Trung Quốc, Hà Nội.
2. Đào
Xuân Sâm, vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng khoa Quản lý kinh tế, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ
tướng Chính phủ, Hà Nội.
3. Trần
Đức Nguyên, vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng ban Ban nghiên cứu của Thủ
tướng Chính phủ, Hà Nội.
4. Nguyễn
Văn Tuyến, vào Đảng năm 1946, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.
5. Lê Duy
Mật, vào Đảng năm 1947, Thiếu tướng, nguyên Tư lệnh phó, kiêm Tham
mưu trưởng Quân khu II, Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang 1979 – 1988,
Hà Nội.
6. Tạ Đình
Du (Cao Sơn), vào Đảng năm 1948, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.
7. Vũ Quốc
Tuấn, vào Đảng năm 1948, nguyên Trợ lý Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hà
Nội.
8. Nguyễn
Hữu Côn, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên Tham mưu
trưởng Hậu cần Quân đoàn 2, Hà Nội.
9. Hoàng
Hiển, vào Đảng năm 1949, nguyên Trung tá Hải quân, Hà Nội.
10.
Đỗ Gia Khoa, vào
Đảng năm 1949, nguyên cán bộ cơ quan Bộ Công an và Tổng cục Hải Quan, Hà Nội.
11.
Hà Tuân Trung, vào
Đảng năm 1949, nguyên Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nguyên Tổng biên tập
tạp chí Kiểm tra, Hà Nội.
12.
Nguyễn Thị Ngọc Toản, vào
Đảng năm 1949, Đại tá, Giáo sư, Cựu Chiến binh, nguyên Chủ nhiệm khoa, Quân Y
viện 108, Hà Nội.
13.
Phạm Xuân Phương, vào
Đảng năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên chuyên viên Tổng cục Chính trị
Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hà Nội.
14.
Tô Hòa, vào
Đảng năm 1950, nguyên Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng.
15.
Võ Văn Hiếu, vào
Đảng năm 1950, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam.
16.
Hoàng Tụy, vào
Đảng năm 1950, Giáo sư Toán học, Hà Nội.
17.
Huỳnh Thúc Tấn, vào
Đảng năm 1951, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Hà Nội.
18.
Tạ Đình Thính, vào
Đảng năm 1951, nguyên Vụ trưởng Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
19.
Nguyên Ngọc, vào
Đảng năm 1956, Nhà văn, nguyên Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam, Hội An.
20.
Tương Lai, vào
Đảng năm 1959, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn
của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, TP. Hồ Chí Minh.
21.
Nguyễn Khắc Mai, vào
Đảng năm 1959, Giám đốc Trung tâm Minh Triết, Hà Nội.
22.
Đào Công Tiến, vào
Đảng năm 1960, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Phó
Chủ tịch Hội Kinh tế Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh.
23.
Vũ Linh, vào
Đảng năm 1962, nguyên Chủ nhiệm chương trình PIN mặt trời, Đại học Bách Khoa Hà
Nội, Hà Nội.
24.
Nguyễn Kiến Phước, vào
Đảng năm 1962, nguyên Ủy viên Ban Biên tập báo Nhân Dân, TP. Hồ Chí
Minh.
25.
Nguyễn Thị Ngọc Trai, vào
Đảng năm 1963, nhà báo, nhà văn, nguyên Phó Tổng biên tập báo Văn Nghệ của
Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội
26.
Võ Văn Thôn, vào
Đảng năm 1965, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
27.
Nguyễn Trung, vào
Đảng năm 1965, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, Hà Nội.
28.
Huỳnh Kim Báu, vào
Đảng năm 1965, nguyên Tổng thư ký Hội Trí thức yêu nước TP. Hồ Chí Minh,
TP. Hồ Chí Minh.
29.
Hạ Đình Nguyên, vào
Đảng năm 1965, nguyên Chủ tịch Ủy ban phối hợp hành động Tổng hội Sinh viên Sài
Gòn, TP. Hồ Chí Minh.
30.
Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), vào
Đảng năm 1966, nguyên thư ký của Bí thư Thành ủy Mai Chí Thọ, nguyên Phó bí thư Đảng ủy Sở
Văn hóa -Thông tin TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh
31.
Lê Công Giàu, vào
Đảng năm 1966, nguyên Phó bí thư Thường trực Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại, đầu
tư TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
32.
Kha Lương Ngãi, vào
Đảng năm 1966, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP.
Hồ Chí Minh.
33.
Tô Nhuận Vỹ, vào
Đảng năm 1967, nhà văn, nguyên Bí thư Đảng Đoàn kiêm Chủ tịch Hội Văn học Nghệ
thuật tỉnh Thừa Thiên – Huế, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương,
nguyên Giám đốc Sở Ngoại vụ tỉnh Thừa Thiên – Huế, TP. Huế.
34.
Phạm Đức Nguyên, vào
Đảng năm 1968, Phó Giáo sư Tiến sĩ ngành Xây dựng, 46 tuổi đảng, Hà Nội.
35.
Bùi Đức Lại, vào
Đảng năm 1968, nguyên Vụ trưởng, chuyên gia cao cấp bậc II, Ban Tổ chức trung
ương Đảng, Hà Nội.
36.
Lữ Phương, vào
Đảng năm 1968, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn Hóa Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền
Nam, TP. Hồ Chí Minh.
37.
Nguyễn Lê Thu An, vào
Đảng năm 1969, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP. Hồ Chí Minh.
38.
Nguyễn Đăng Quang, vào
Đảng năm 1969, Đại tá công an, đã nghỉ hưu, Hà Nội.
39.
Trần Văn Long, vào
Đảng năm 1970, nguyên Phó Bí thư Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
TP. Hồ Chí Minh.
40.
Nguyễn Thị Kim Chi, vào
Đảng năm 1971, Nghệ sĩ ưu tú, Đạo diễn điện ảnh, Hà Nội.
41.
Huỳnh Tấn Mẫm, vào
Đảng năm 1971, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, nguyên
đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Tổng biên tập báo Thanh Niên, TP.
Hồ Chí Minh.
42.
Võ Thị Ngọc Lan, vào
Đảng năm 1972, nguyên cán bộ công an TP. Hồ Chí Minh.
43.
Hà Quang Vinh, vào
Đảng năm 1972, cán bộ hưu trí, TP. Hồ Chí Minh.
44.
Nguyễn Đắc Xuân, vào
Đảng năm 1973, nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa, nguyên Trưởng Đại diện báo Lao
Động tại khu vực Miền Trung – Tây Nguyên, TP. Huế.
45.
Lê Đăng Doanh, vào
Đảng năm 1974, Tiến sĩ Kinh tế học, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ
tướng Chính phủ, Hà Nội.
46.
Chu Hảo, vào
Đảng năm 1974, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội.
47.
Nguyễn Xuân Hoa, vào
Đảng năm 1974, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Thừa Thiên – Huế,
TP. Huế.
48.
Nguyễn Vi Khải, vào
Đảng năm 1974, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, 40
tuổi đảng, Hà Nội.
49.
Cao Lập, vào
Đảng năm 1974, nguyên Bí thư Đảng ủy ngành Văn hóa -Thông tin TP. Hồ Chí Minh.
50.
Lê Thân, vào
Đảng năm 1975, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Tổng Giám đốc Liên doanh
SG-Riversite, TP. Hồ Chí Minh.
51.
Ngô Minh, vào
Đảng năm 1975, nhà báo, nhà văn, TP. Huế.
52.
Trần Kinh Nghị, vào
Đảng năm 1976, cán bộ Ngoại giao về hưu, Hà Nội.
53.
Hồ An, vào
Đảng năm 1979, nhà báo, TP. Hồ Chí Minh.
54.
Đoàn Văn Phương, vào
Đảng năm 1979, nguyên chiến sĩ thuộc Ban Giao lưu trung ương Cục, TP. Hồ Chí
Minh.
55.
Hồ Uy Liêm, vào
Đảng năm 1980, nguyên Quyền Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật
Việt Nam, Hà Nội.
56.
Trần Đình Sử, vào
Đảng năm 1986, Giáo sư Tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.
57.
Lê Văn Luyến, vào
Đảng năm 1987, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam, TP.
Hồ Chí Minh.
58.
Nguyễn Gia Hảo, vào
Đảng năm 1988, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội.
59.
Phạm Chi Lan, vào
Đảng năm 1989, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà
Nội.
60.
Đào Tiến Thi, vào
Đảng năm 1991, Thạc sĩ, Ủy viên Ban chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội
61.
Nguyễn Nguyên Bình, vào
Đảng năm 1996, Trung tá, cựu chiến binh, Hà Nội.
_____________________
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét