(Trích sách “MAO
TRẠCH ĐÔNG NGÀN NĂM CÔNG TỘI” của Tân Tử Lăng)
Kỳ 4: ĐÃ ĐẾN LÚC ĐÁNH GIÁ LẠI MAO TRẠCH ĐÔNG ĐỂ XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI DÂN CHỦ
Sai lầm lớn nhất của Mao sau ngày dựng nước là đã từ bỏ lý
luận kiến quốc dân chủ mới, vội vã thực hiện giấc mơ xây dựng xã hội đại đồng.
Mao tự nhận mình là Mác + Tần Thuỷ Hoàng, dựa vào tuyên truyền và bạo lực để
cải tạo xã hội.
Lý luận chủ nghĩa xã hội không tưởng trong “Tuyên ngôn Đảng
cộng sản” kết hợp với truyền thống phong kiến Trung Quốc đã hình thành mô hình
chủ nghĩa xã hội bạo lực “lấy đấu tranh giai cấp làm then chốt” của Mao. Hai
mươi năm kể từ 1956 khi hoàn thành cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông
nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, đến 1976 khi
Mao qua đời, Đại cách mạng văn hoá kết thúc, là 20 năm văn minh vật chất và văn
minh tinh thần của chủ nghĩa xã hội dân chủ lớn mạnh vượt bậc, cũng là 20 năm
chủ nghĩa xã hội bạo lực Mao Trạch Đông vội vã hình thành, phát triển ác tính,
và hoàn toàn tan rã.
“Nghị quyết về một số vấn đề lịch sử từ ngày dựng nước đến
nay” do Đặng Tiểu Bình chủ trì định ra tháng 6-1981 đã có vai trò lịch sử và
công lao vĩ đại trong việc uốn nắn sai lầm của Mao sau ngày dựng nước, xoay
chuyển phương hướng lịch sử của Trung Quốc, đưa nước ta đi lên con đường cải
cách-mở cửa, nhưng do những hạn chế lịch sử tức nhu cầu sách lược đấu tranh, nó
cũng để lại vấn đề uốn nắn sai lầm “tả” khuynh không triệt để.
Ngày 15-1-1993, Hội nghị Thường vụ Bộ Chính trị mở rộng họp
tại Thượng Hải. Đến dự ngoài các uỷ viên Thường vụ Bộ chính trị khoá 14 Giang
Trạch Dân, Lý Bằng, Kiều Thạch, Lý Thuỵ Hoàn, Chu Dung Cơ, Lưu Hoa Thanh, Hồ
Cẩm Đào, còn có Đặng Tiểu Bình, Trần Vân, Bành Chân, Vạn Lý, Bạc Nhất Ba, Dương
Thượng Côn, Vương Thuỵ Lâm.
Tại cuộc họp, Đặng Tiểu Bình đã phát biểu về một số năm sau
cần đánh giá khoa học và toàn diện vị trí lịch sử, công lao và sai lầm của Mao
Trạch Đông. Giang Trạch Dân đề nghị coi kỷ yếu phát biểu của Đặng và một số đồng
chí khác là chủ đề của Hội nghị Thường vụ Bộ chính trị mở rộng. Hội nghị biểu
quyết, nhất trí thông qua. Đặng Tiểu Bình thẳng thắn nói:
- Do những hạn chế của tình hình trong đảng và ngoài xã hội
lúc đó, đánh giá của Hội nghị Trung ương 6 khoá 11 đối với vị trí lịch sử, công
lao và sai lầm của Mao Trạch Đông có phần không đúng sự thật lịch sử. Nhiều
đồng chí gượng ép tiếp nhận. Lịch sử do chúng ta tạo ra, không thể đảo ngược,
không thể thay đổi. Vẫn có những cuộc tranh luận về công lao và sai lầm của Mao,
tôi đã nói với các đồng chí Bành Chân, Đàm Chấn Lâm, Lục Định Nhất: ý kiến của
các ông đúng, nhưng phải từ từ, xét tình hình, có thể lùi đến đầu thế kỷ 21, để
thế hệ sau đánh giá toàn diện. Công tội của Mao còn sờ sờ ra đó, không thể di
dời, cũng không thay đổi được. Có người lo ngại đánh giá toàn diện Mao Trạch
Đông sẽ dẫn đến việc phủ định công lao lịch sử của Đảng cộng sản Trung Quốc,
làm hại vị trí lãnh đạo của Đảng. Tôi thấy chẳng có gì đáng ngại. Tôi kiến nghị
có thể đánh giá toàn diện cuộc đời Mao Trạch Đông sau khi thế hệ chúng ta ra
đi. Đến lúc ấy, môi trường chính trị có lợi hơn, những ý kiến cố chấp sẽ giảm
bớt. Đảng viên cộng sản là những người theo chủ nghĩa duy vật, việc sửa đổi
những sai lầm, những việc làm trái với lòng mình và những nghị quyết không hoàn
chỉnh thể hiện Đảng Cộng sán tự tin, có sức mạnh, phải tin rằng tuyệt đại đa số
đảng viên và nhân dân sẽ thông cảm và ủng hộ.
Mười ba năm qua đi, trong và ngoài Đảng đều vang lên tiếng
hô dữ dội: thời cơ đánh giá lại Mao đã chín muồi. Di chứng lớn nhất của “Nghị
quyết về một số vấn đề lịch sử“ là đã khẳng định cuộc “cải tạo xã hội chủ
nghĩa” đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, và công thương nghiệp tư bản tư
doanh, dành cho nó địa vị chính thống trong lịch sử, từ đó khiến công cuộc cải
cách-mở cửa ngay từ đầu đã mang tội “phục hồi chủ nghĩa tư bản”. Từ thực hiện
“khoán sản tới hộ” đến đưa vấn đề bảo hộ chế độ tư hữu vào hiến pháp, lịch sử
cải cách mở cửa là lịch sử phá vỡ sự ràng buộc tiến tới hoàn toàn phủ định lịch
sử của “ba cuộc cải tạo lớn”. Để giữ sự nhất trí với nghị quyết, cải cách-mở
cửa mỗi bước đi lên đều phải “bật tín hiệu rẽ trái, bẻ tay lái sang phải”, bước
đi loạng choạng, Đặng Tiểu Bình và những người kế tục ông phải thận trọng từng
bước lãnh đạo đất nước này trong những tiếng công kích họ “phục hồi chủ nghĩa
tư bản”.
Phòng nghiên cứu văn kiện trung ương căn cứ vào “Nghị quyết”
trên viết ra cuốn “Truyện Mao Trạch Đông”, vẫn khẳng định “ĐCSTQ cải tạo công
thương nghiệp tư bản và các nhà tư bản là một sáng tạo chưa từng có trong lịch
sử loài người”, tạo căn cứ lý luận cho việc quay trở lại đường lối “tả” khuynh
và tiến hành “cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa” lần thứ hai. Theo phái “tả”, chỉ
cần anh thừa nhận “sáng tạo chưa từng có” này, thì cải cách-mở cửa đã “phản bội
con đường xã hội chủ nghĩa do Mao Chủ tịch mở ra, phục hồi chủ nghĩa tư bản”.
Việc đó đã cổ vũ mạnh mẽ và tăng thêm niềm tin cho họ lật đổ chính sách mới cải
cách mở cửa.
Thanh kiếm sắc đó treo lơ lửng trên đầu các doanh nghiệp tư
nhân. Nhiều doanh nghiệp tư nhân lớn chuyển trụ sở chính ra Hồng Công hoặc nước
ngoài, chứng tỏ họ nghi ngại và hoảng hốt, rất không lợi cho sự phát triển kinh
tế của Trung Quốc. Những năm gần đây, nhiều xí nghiệp Trung Quốc đã mượn đường
sang các nơi miễn thuế như Virgin thuộc Anh để chuyển thành vốn nước ngoài,
biến mình thành xí nghiệp bên ngoài, rồi mua các xí nghiệp trong nước. Quần đảo
Tây Ấn Độ Dương diện tích chỉ có 154 km2 này đã liên tục mấy năm vượt các nước
phát triển Âu Mỹ, trở thành nguồn vốn nước ngoài lớn thứ hai ở Trung Quốc, sau
Hồng Công.
Ngày 16-4-2005, Lý Thành Thuỵ và 72 nhân vật “phái tả” khác
gửi thư cho Tổng Bí thư ĐCSTQ, đưa ra “kiến nghị về xây dựng tư tưởng trong
đảng” họ dùng sách lược lôi kéo Hồ Cẩm Đào, đề cao Mao Trạch Đông, hạ thấp Đặng
Tiểu Bình, phê phán Giang Trạch Dân, chia rẽ đường lối, mưu toan khôi phục toàn
diện lý luận và đường lối cực tả Mao Trạch Đông. Phối hợp với đòi hỏi trên,
phái “tả” ồ ạt tung lên mạng nhiều bài đổi trắng thay đen, bóp méo lịch sử,
miêu tả những năm tháng bi thảm làm mấy chục triệu người chết đói thành thế
giới thần tiên. Họ nói cải cách-mở cửa làm hỏng hết mọi việc, cổ động quay lại
thời đại Mao.
Trong tim óc những người Trung Quốc 50 tuổi trở lên, chủ
nghĩa xã hội bạo lực Mao Trạch Đông đã sớm mất hết tính chính danh, hoàn toàn phá
sản; điều quan trọng nhất hiện nay là phải cho lớp trẻ biết bộ mặt thật về thời
đại Mao.