Nguyên Ngọc
Khi tôi về làm Đảng đoàn ở Hội Nhà văn, anh Trần Độ có gọi
tôi đến hỏi tôi định làm những gì ở đấy. Tôi đã nói đủ thứ kế hoạch, nhưng cuối
cùng chốt lại hai việc cụ thể quyết sẽ tập trung chủ yếu: khôi phục lại thật
đàng hoàng tạp chí Văn học nước ngoài để chấm dứt sự đứt đoạn
gần thế kỷ của ta với văn học thế giới, và làm Trường Viết văn Nguyễn Du. Trước
đây, Hội Nhà văn đã thường có những lớp viết văn ngắn hạn ba tháng hoặc có khi
sáu tháng cho nhà văn trẻ. Tôi không quan niệm đào tạo nhà văn theo kiểu đó,
đấy là những lớp “truyền nghề”. Theo tôi văn chương là một thứ không thể truyền
nghề, người đi trước có thể nói một số kinh nghiệm gì đó cho người đi sau, song
cũng chẳng ích lợi bao nhiêu. Người viết văn trước hết phải là người có tài “do
trời cho”, và mỗi người có tài sẽ “biết” viết theo kiểu của mình, “tạng” của
mình, không ai giống ai, có lẽ cũng gần như vân tay của mỗi người, tuyệt đối
khác biệt. Vả chăng có hai nhà văn giống hệt nhau, thậm chí chỉ mại mại giống
nhau, thì vô ích. Có một ông Nguyễn Du là rất tuyệt, nhưng có hai ông Nguyễn Du
thì thừa một ông… Song tôi lại có một nhận xét, dường như ở ta tài năng văn học
đặc sắc thường bộc lộ rất sớm, Nguyên Hồng viết Bỉ vỏ năm 16
tuổi, Chế Lan Viên in Điêu tàn năm 17, nhưng rồi không ai đi
được thật xa, thường tự lặp lại mình, hay tàn lụi dần…
Vì sao? Có thể chăng ở mặt bằng văn hóa chung của xã hội
không cao, và đặc biệt một nền giáo dục nói chung, đặc biệt giáo dục đại học
còn quá lạc hậu, hoàn toàn không đủ sức tạo nền tảng cơ bản cho người cầm bút
có thể đi thật xa, sau khi đã tiêu tốn hết vốn tài năng bẩm sinh.
Chúng tôi nuôi tham vọng thay thế một trường đại học như cần
phải có, bằng cách làm Trường Viết văn Nguyễn Du.
Ngay từ đầu trường Đại học Viết văn Nguyễn Du đã không chủ trương
mời các nhà văn đến dạy nghề. Thỉnh thoảng các anh chị chỉ đến chơi với người
học, tâm sự đôi chút chuyện đời và công việc viết của mình. Cũng là để người
học làm quen dần với đời sống văn học…
Trường Viết văn Nguyễn Du có cái may lớn, nó được giao từ
đầu cho hai người chủ trì rất đặc sắc, thậm chí nghĩ lại không còn chọn lựa nào
hơn: Hoàng Ngọc Hiến và Phạm Vĩnh Cư.
Hoàng Ngọc Hiến từ Đại học Vinh đã quyết tìm mọi cách ra Hà
Nội để thoát khỏi tình trạng tỉnh lẻ. Anh có nền tảng tri thức toàn diện rất
vững chắc. Và lại rất độc đáo, thường đột ngột sáng chói bất ngờ, có phần gì đó
hơi giống Trần Quốc Vượng, người có “thính giác” đặc biệt về khảo cổ. Tôi có
mấy lần đi với anh Vượng, hai anh em cứ như lững thững dạo chơi. Đột ngột anh
dừng lại, đứng im một lúc, rồi bảo: Đào xuống đi, ngay dưới chân tớ đây… Và
khám phá ra cả một kho di vật thượng cổ cực kỳ quý hiếm. Hẳn nhiều người còn
nhớ Hoàng Ngọc Hiến là tác giả bài báo chấn động về “Văn học phải đạo”, xuất
hiện rất sớm, lúc anh Giang Nam còn phụ trách tờ Văn nghệ. Một
tiếng sấm giữa trời còn trong – hay đúng hơn trời còn đục ngầu. Anh vừa tài tử,
thường phá cách, lại vừa là một nhà sư phạm nghiêm cẩn và tinh anh…
Cùng với Hoàng Ngọc Hiến là Phạm Vĩnh Cư.
Phạm Vĩnh Cư được đào tạo ở Nga từ mẫu giáo cho đến trên đại
học, và ở Đại học Lomonossov, một kiểu Harvard của Moskva. Những nhà văn Nga
tôi từng quen thân đều bảo Cư còn am hiểu văn hóa và văn học Nga giỏi và sâu
hơn cả họ. Thấu hiểu tường tận và say mê. Tôi biết có những hôm Cư ra ngồi suốt
ngày cạnh mộ Gogol, nhà văn kinh điển đậm đặc tâm hồn Nga. Phạm Vĩnh Cư uyên
bác, và theo tôi so với Hoàng Ngọc Hiến, anh có phần ít nhiều bài bản, chỉn chu
hơn bên cạnh một anh Hiến hơi nghệ sĩ hơn. Bây giờ nhìn lại, hóa ra ở Nguyễn Du
các anh đã thực sự thực hiện cái mà mấy chục năm sau ta sẽ gọi là giáo dục khai
phóng, sớm và sâu sắc một cách khác thường. Đến với sinh viên ở đây hằng ngày
suốt ba năm không phải là các nhà văn đi trước hay giảng viên ở các trường đại
học khác, mà là các chuyên gia hàng đầu ở hầu hết các lĩnh vực khoa học xã hội
và nhân văn, đôi khi cả khoa học tự nhiên. Và họ nói về những nghiên cứu, tìm
tòi, trải nghiệm, suy nghĩ tâm huyết nhất của họ ở lĩnh vực mà họ cống hiến cả
cuộc đời. Đặc biệt những điều chính họ bằng trực cảm nhận ra còn mơ hồ. Họ tâm
sự và mong muốn người học thử cùng nghĩ, cùng họ đi tìm. Có người trình bày cả
một công trình nghiên cứu công phu lớp lang hoàn chỉnh, có người ngược lại hầu
như chỉ kể chuyện lang bang rất tài tử, thỉnh thoảng đột ngột lóe sáng một ánh
chớp… Cũng có khi hai chuyên gia cùng một lĩnh vực, nói cùng một chủ đề, mà ý
kiến, thậm chí cả quan điểm hoàn toàn ngược nhau. Và ở đây, các thầy tâm sự với
người học những điều họ không nói ở bất cứ nơi nào khác.
Tôi còn nhớ một “sự cố”: không hiểu vì sao mà người đầu tiên
đến nói ngay đầu khóa một (1979) là anh Hồ Ngọc Đại. Anh Đại thì ta biết rồi,
anh ăn nói sắc sảo mà ngang tàng, chẳng nể ai, chẳng kiêng bất cứ điều gì. Đang
giữa câu chuyện thao thao, anh đột nhiên dừng lại và hỏi: Các bạn có biết vì
sao mà Cách mạng tháng 8 năm 45 thành công không? Ấy là vì dân ta bấy giờ còn
ngu quá! Chứ như hôm nay ấy à, còn lâu!... Tôi gọi cậu bảo vệ: Ra đóng ngay
cổng trường ngoài kia lại, kẻo công an vào tóm đầu tất cả thầy trò chúng ta bây
giờ. Nghĩ lại cho kỹ, cho thật, Hồ Ngọc Đại đã không nói sai. Hai triệu người
đang chết đói, Việt Minh đã khôn khéo phá kho thóc, cả nước bỗng rùng rùng đứng
dậy như thác lũ, không gì ngăn nổi. Tất nhiên Cách mạng tháng 8 không chỉ có
thế, nhân dân tích tụ uất ức vì nô lệ cả trăm năm, chỉ cần một ngọn lửa nhỏ để
bùng cháy, nhưng kỳ thực lúc ấy đã có mấy ai gọi là giác ngộ cách mạng gì đâu.
Hiện tượng đám đông mà Gustave Le Bon từng nói là có thật. Hồ Ngọc Đại vốn có
tiếng nói bạo, nói ngược, cũng có phần ỷ thế con rể Tổng bí thư Lê Duẩn. Tuy
nhiên việc một “sự cố” như vậy diễn ra đúng từ ngày đầu tiên của khóa một, nói
theo cách nào đó, không hoàn toàn là ngẫu nhiên. Chúng tôi thật sự muốn gây
hoang mang cho người học vừa bước chân vào trường, khiến họ mất hết lòng tin
vào tất cả những gì vẫn đinh ninh trước khi đến đây. Họ nghi ngờ tất cả, và
thậm chí nghi ngờ cả những điều các thầy, các chuyên gia đầu ngành nổi tiếng sẽ
được mời đến nói với họ trong suốt ba năm sắp tới ở trường. Và tự làm lại chính
mình, độc lập và thật sự tự do.
Là một trường đại học dẫu sao cũng là của nhà nước nên tất
phải có phần gọi là chương trình “cứng” bắt buộc, bộ phận giáo vụ do anh Trần
Niêm phụ trách đã ghi rõ môn “Triết học Marx-Engels” (chứ không Marx-Lenin).
Phần này do các anh Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Trọng Chuẩn, Việt Phương, Tạ Văn
Thành trình bày, anh Lê Hữu Tầng mở đầu, và anh Dương Phú Hiệp tổng kết. Tôi
gọi là trình bày bởi có người giảng rất bài bản, có người chỉ trò chuyện nhẹ
nhàng cởi mở, người học nghe, hiểu và chấp nhận đến đâu là do tự chính mình.
Các anh Việt Phương, Ngô Thế Phúc, Nguyễn Khắc Dương nói về
triết học phương Tây. Triết học phương Đông, Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo là
phần của các anh Minh Chi, Quang Đạm, Trần Đình Hượu, Phan Ngọc…
Xã hội học có các anh Phạm Bích San, Tô Duy Hợp, Nguyễn Hồng
Phong. Mỹ học có anh Như Thiết. Anh Trần Niêm ở giáo vụ giới thiệu “Ghi chú về
nghệ thuật” của Nguyễn Quân và về Kagan.
Tâm lý học được coi là phần rất quan trọng. Trường mời được
chuyên gia hàng đầu Phạm Hoàng Gia. Phạm Minh Hạc nói về tâm lý học xô-viết, Hồ
Ngọc Đại về tâm lý học hành vi, Phạm Vĩnh Cư về tâm lý học nghệ thuật và Hoàng
Ngọc Hiến về phân tâm học.
Về ngôn ngữ học có các chuyên gia Nguyễn Tài Cẩn, Cao Xuân
Hạo, Hoàng Tuệ.
Các anh Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Phan Huy Lê, Trần Đình
Hượu, Phan Ngọc nói về lịch sử Việt Nam, lịch sử văn hóa và tư tưởng Việt. Về
lịch sử thế giới thì có các chuyên gia Lương Ninh, Nguyễn Quốc Hùng… Có cả một
lực lượng đông đảo, đa dạng và phong phú các anh chị cho phần văn học nghệ
thuật Việt Nam và thế giới, những Nguyễn Đăng Mạnh, Phong Lê, Phùng Văn Tửu,
Đặng Anh Đào, Đặng Thị Hạnh, Trần Ngọc Vương, Trần Nho Thìn, Huệ Chi, Đình
Quang, Nguyễn Thụ, Hoàng Ngọc Hiến, Phạm Vĩnh Cư…
Cũng có trường hợp thú vị hai nhà dân tộc học danh tiếng
Đặng Nghiêm Vạn và Nguyễn Từ Chi, đều là chuyên gia sâu về Mường, anh Vạn thuộc
trường phái Liên Xô, chỉn chu, bài bản, thông thạo cả Tây Nguyên, anh Từ Chi
gần phương Tây, đúng hơn là độc đáo gần như một mình, với Tây Nguyên, anh chỉ
“đá” qua một thoáng, chỉ viết một bài, nhưng là bài cực kỳ đặc sắc, nhiều phát
hiện mới mẻ, những dự báo, cả cảnh báo của anh về sau đều được chứng minh chính
xác hoàn toàn. Tôi thân anh Vạn hơn, nhưng lại “sợ”, phục Từ Chi hơn. Khi anh
Từ Chi mất năm 1995, nhà dân tộc học bậc thầy thế giới Georges Condominas viết:
“Việt Nam vừa mất một nhà bác học”…
Trong ba năm ở Nguyễn Du, các nhà văn trẻ được gần gũi hằng
ngày với những chuyên gia hàng đầu của rất nhiều lĩnh vực như thế, và tôi có
cảm giác các thầy đến đây cũng rất khác với khi đến với các đại học thông
thường. Họ biết trước mặt họ là những tài năng đang chớm nở, được chọn lọc hiếm
hoi, rất nhạy cảm, rất khao khát cái mới, cái lạ, cái thật, họ có thể nói hết,
cả những điều chính họ còn tìm tòi, trăn trở, thậm chí bế tắc chưa tìm được lời
giải. Họ đến không phải để truyền đạt những chân lý, cũng không phải chỉ để
truyền dạy kiến thức, mà còn tâm sự những nghi ngờ của chính họ… Điều thú vị là
chính cách dạy và học này mang lại thành quả giải phóng tư duy cho người học,
đánh thức tiềm năng vốn có sẵn trong họ, đặc biệt ở những người… học rồi quên
hết, như ở Bảo Ninh hay Trung Trung Đỉnh, để chỉ thử kể hai trường hợp nổi bật.
Và đương nhiên nó không đồng đều ở mọi người. Cũng có người học thế mà chẳng
“vào” được bao nhiêu. Bấy giờ có anh Đệ ở Thanh Hóa, rất nghèo, vợ chồng bán cả
nhà để Đệ ra học Nguyễn Du, nhưng rồi cũng chẳng đến đâu, tôi rất thương,
thường hỏi thăm, bây giờ Đệ làm biên tập ở một cơ quan truyền thông nào đó.
Chuyện văn chương là thế, trông vậy mà rất khắc nghiệt…