Thứ Hai, 24 tháng 5, 2021

Phản biện bài báo của GS Nguyễn Phú Trọng (Phần 4)

 Nguyễn Đình Cống

IV- Vấn đề xây dựng Đảng

So với văn kiện ĐH 13 thì vấn đề xây dựng Đảng của bài viết khá ngắn gọn, tuy vậy đầy chất giáo điều, không còn phù hợp với thực tế.

Tổ chức được gọi là đảng bắt đầu xuất hiện ở nước Anh vào thế kỷ 16 để vận động bầu cử, rồi phát triển ra khắp thế giới. Đó là các đảng chính trị, kể cả các đảng cộng sản thời Mác. Đảng chính trị nhằm mục đích cao nhất là cầm quyền nhà nước, thông qua bầu cử.

Đầu thế kỷ 20 Lênin đưa ra lý thuyết và thành lập đảng cách mạng, gọi là đảng kiểu mới và gắn cho nó vai trò đội tiên phong của giai cấp công nhân với nhiệm vụ lãnh đạo giai cấp làm cách mạng vô sản để giành chính quyền bằng bạo lực.

Cách mạng thể chế chính trị thỉnh thoảng xảy ra ở nước này nước nọ trong khoảng thời gian ngắn, khoảng vài ba tháng đến vài ba năm. Nó có khởi đầu và kết thúc chứ không kéo dài triền miên. Kết thúc thắng lợi của cách mạng thể chế là khi mà đảng cách mạng nắm trọn được chính quyền. Lúc này đảng hoàn thành nhiệm vụ cách mạng và trở thành đảng cầm quyền.

Có hai phương thức cầm quyền là dân chủ và độc tài. ĐCSVN tuyên truyền rằng họ chủ trương xây dựng thể chế dân chủ của dân, vì dân. Nhưng bên ngoài nhìn vào và từ nội bộ nhân dân đánh giá thì chính quyền là của Đảng, quyền cơ bản của dân đã bị Đảng chiếm lấy để thi hành sự toàn trị.

Nếu ĐCSVN thật sự muốn xây dựng chế độ dân chủ, thì điều kiện tiên quyết là phải tự chuyển đổi thành một đảng chính trị cầm quyền. Thế nhưng GS Trọng, người làm luận án tiến sĩ ngành xây dựng đảng, cố tình không nhận ra điều đó. Trong cương vị cầm quyền mà vẫn duy trì đường lối, quan điểm và tổ chức của đảng cách mạng thì thật sự không thích hợp.

Cho đến nay mà vẫn khẳng định rằng ĐCSVN là đội tiên phong của giai cấp công nhân (còn nếu hiểu hơi khác đi sợ bị phạm vào điều tối kỵ về quan điểm giai cấp), vẫn tin rằng công nhân là giai cấp lãnh đạo thì đó không những là giáo điều quá cỡ mà còn là sự bảo thủ nặng.

Hiện tại, dân VN, kể cả đảng viên và cán bộ các cấp có gì đó hiểu không đúng về đảng. Họ nghĩ rằng đảng là một tổ chức thiêng liêng, có sứ mệnh cao cả, là người dân chỉ được phép tôn thờ, kính trọng, tuân theo, không được làm khác, không được nói khác với nghị quyết của tổ chức đảng (kể từ chi bộ trở lên). Như vậy, phải chăng đã thần thánh hóa tổ chức đảng CS,

Ở các nước dân chủ người ta không nghĩ như thế. Họ biết rằng đảng chính trị, dù là đảng cầm quyền, chỉ là tổ chức của một số người cùng chí hướng, là công cụ của một số chính trị gia. Tác dụng của đảng thể hiện chủ yếu trong các cuộc vận động bầu cử. Ngày thường thì đó là hoạt động của các nhà chính trị, các cán bộ cao cấp của đảng ở trong cơ quan lập pháp và hành pháp.

Một vấn đề của lịch sử cận đại VN là, làm rõ quan hệ qua lại giữa ĐCS và dân tộc. Đã có người đưa ra hình tượng Đảng như cây tầm gửi bám trên thân cây chủ là dân tộc. Tầm gửi muốn và kích thích cây chủ phát triển bộ rễ, làm ra nhiều nhựa. Nói rằng làm ra nhựa để nuôi cây chủ tươi tốt, vì quyền lợi của cây chủ chứ không có gì hơn. Nhưng thực tế chỉ dùng một phần nhỏ nhựa để nuôi cây chủ còn phần lớn để nuôi tầm gửi. Đồng thời tầm gửi lại tiết ra một vài loại chất tỏa ra môi trường nhằm kìm hãm sự phát triển hoa lá của cây chủ, để bên ngoài nhìn vào thấy rõ tầm gửi bao trùm.

Chủ Nhật, 23 tháng 5, 2021

Phản biện bài báo của GS Nguyễn Phú Trọng (Phần 3)

 Nguyễn Đình Cống

Câu 4- Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên CNXH ở VN trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì?

Đây chủ yếu là phần kể công, khoe khoang. Phải chăng ý nghĩa là sự tự hào về tài năng, sáng suốt của Đảng nói chung, của lãnh tụ và các cá nhân lãnh đạo. Sự khoe khoang là không nên. Phải chăng vấn đề đặt ra là tiếp tục công cuộc xây dựng CNXH.

Giáo sư Trọng cho rằng trước đây nhận thức sai về kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền thì nay đã hiểu được, nhưng cần thêm định hướng XHCN, rằng từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về CNXH và thời kỳ quá độ đi lên CNXH… Quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp.

Tại sao trước đây nhận thức sai, phải chăng là do kém trí tuệ, do bảo thủ, nay bị thực tế soi rọi mới hơi tỉnh ngộ ra, nhưng cũng chỉ tỉnh ngộ được một phần, vẫn cố tình níu kéo. Hiểu được nhưng không phải để tìm cách vận dụng những mặt hay, những điều tốt mà là để thay đổi cách giải thích và tuyên truyền mà thôi.

Cho đến nay thì từ khi Mác vạch ra con đường XHCN đã trên 150 năm, từ khi Lênin bắt đầu xây dựng CNXH ở Liên Xô đã trên trăm năm, thế mà ông Trọng phải từng bước nhận thức để hiểu được, thế thì quá chậm. Nhân dân Liên Xô và Đông Âu đã thấy rõ sự hoang tưởng của CNXH nên kiên quyết từ bỏ, đảng viên Cộng sản ở các nước đó vì tương đối có trí tuệ nên nhận ra sai lầm mà một số lớn đứng về phía nhân dân. Ở VN cũng đã có nhiều người, kể cả cán bộ cao cấp của Đảng thấy được CNXH chỉ là cái bánh vẽ nên đã tìm cách từ bỏ, nhưng số đông lãnh đạo của Đảng đã đeo bám Trung Cộng, bị chúng nó lừa phỉnh mà tiếp tục ý thức hệ đã lỗi thời.

Tại sao ĐCSVN gặp phải sự nghiệp vô cùng khó khăn và phức tạp? Đó là vì đã cố tình làm sai quy luật. Giả dụ, nếu bưng tai, bịt mắt mà tin tuyệt đối vào Mác thì việc bỏ qua chế độ tư bản là làm sai quy luật do ông tìm ra. Người có trí tuệ không ai chọn cách làm sai như vậy, chỉ có những người muốn vác gậy chống Trời mới làm thế. Làm theo quy luật thì gặp thuận lợi, nhanh, còn làm trái quy luật thì phải lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp. Nhưng tại sao lại làm thế, rồi còn tự hào đã làm thế. Đó là vì muốn chứng tỏ ta đây có tài năng, có dũng khí hơn người, làm thế để thỏa mãn sự nóng vội và phần nào là kiêu ngạo. Người có trí tuệ cao không bao giờ nóng vội và kiêu ngạo như thế.

Theo Mác- Lênin thì bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ yếu là bỏ qua nền kinh tế thị trường mà kiên quyết thực hành kinh tế kế hoạch hóa, là xóa bỏ ngay tư hữu về tư liệu sản xuất. Cả hai việc đó là cơ bản và đều sai lầm. Biết thế nên GS Trọng đã sửa đổi mà viết rằng: “Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”.

Những điều viết ra đọc lên nghe hay, nhưng làm sao bỏ qua được những sự áp bức, bất công dưới chế độ toàn trị độc đảng, làm sao lại bỏ đi thể chế chính trị dân chủ với tam quyền phân lập là giá trị của nhân loại.

Giáo sư viết: Trước đổi mới VN vốn là một nước nghèo lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề. Sau chiến tranh, Mỹ và phương Tây đã áp đặt cấm vận kinh tế với Việt Nam trong suốt gần 20 năm. Lương thực, hàng hoá nhu yếu phẩm hết sức thiếu thốn, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ…. các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp”.

Trước năm 1986 VN tuy chưa có công nghiệp phát triển, tuy miền Bắc bị chiến tranh tàn phá (miền Nam cũng bị nhưng ít hơn, không đáng kể) nhưng không phải là nước nghèo. Với đồng bằng Nam bộ và đồng bằng sông Hồng, chỉ cần để cho nông dân tự do cày cuốc thì làm sao mà trên ba phần tư sống dưới mức nghèo khổ. Ai đã gây ra sự nghèo khổ ấy? Đảng lãnh đạo chứ ai vào đấy nữa. Đảng bắt nông dân vào hợp tác xã để trói buộc họ, Đảng phá nát nền kinh tế công thương của miền Nam bằng đường lối cải tạo. Tội ác ấy to lớn ngang với hoặc vượt qua tội ác cải cách ruộng đất.

Còn việc cấm vận của các nước. Lý do nào VN bị cấm vận. Có phải vì VN đã thống nhất, vì lãnh đạo muốn đi theo con đường XHCN. Không phải, hoàn toàn không phải mà vì những sai lầm trong việc không chịu rút quân khỏi Campuchia ngay sau khi đánh bại Khơme đỏ, là tạo ra tai nạn thuyền nhân, là việc trả thù người của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Các nước cấm vận để trừng phạt cho đến khi VN rút quân khỏi Campuchia và có biểu hiện tôn trọng nhân quyền. Thế mà Đảng chỉ đổ lỗi cho bên cấm vận mà không chịu nhận lỗi của mình tạo ra nguyên nhân cấm vận.

Thứ Sáu, 21 tháng 5, 2021

Phản biện Bài báo của GS Nguyễn Phú Trọng (Phần 2)

 Nguyễn Đình Cống

Câu 3- Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được CNXH ở VN?

Đây là vấn đề mấu chốt. Bài báo cho rằng, để xây dựng CNXH ở VN cần thực hành kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng nền văn hóa XHCN, nhà nước pháp quyền XHCN, phải trải qua thời kỳ quá độ và dưới sự lãnh đạo của ĐCS.

Về kinh tế thị trường định hướng XHCN

Thực chất là kinh tế thị trường có sự chỉ huy, điều tiết của nhà nước. Xin trình bày qua về nền kinh tế này.

Các nhà lý luận của Cộng sản VN khẳng định rằng, kinh tế thị trường định hướng XHCN là một sáng tạo đột phá của họ mà không nêu ra được ai là người đầu tiên phát hiện ra nó. Thật ra đó là sự nhận nhầm.

Kinh tế thị trường có quản lý của nhà nước là học thuyết kinh tế của John Maynard Keynes, ngưới Anh (1883-1946), nhằm khắc phục các nhược điểm của thị trường tự do (Adam Smith) và thị trường do nhà nước điều hành theo kế hoạch (Karl Marx). Người ta cho rằng Smith, Marx và Keynes là ba nhà kinh tế lớn nhất của thế giới. Hiện nay mọi nền kinh tế đều chịu sự chỉ đạo của nhà nước, không nơi nào còn có thị trường hoàn toàn tự do. Trung Quốc đã theo học thuyết của Keynes trước VN, mở nền kinh tế thị trường với sự điều tiết của nhà nước cộng sản. Một người VN nào đó không phát hiện ra bản chất nền kinh tế mà chỉ nghĩ ra mấy chữ định hướng XHCN để gọi. Thế mà dám cho rằng đó là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, có nói quá không nhỉ?

Bây giờ xem sự chỉ huy của nhà nước cộng sản như thế nào.

Kinh tế thị trường định hướng XHCN của VN, ngoài những điều thông thường như các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, sự cạnh tranh, quan hệ phân phối, hội nhập quốc tế, gắn kinh tế với xã hội v.v…thì có những điều được nhấn mạnh như: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; sự lãnh đạo của ĐCS, không vì tăng trưởng kinh tế mà “hy sinh” tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.

Hãy xét từng điều xem sao.

Kinh tế nhà nước giữ vai trò gì khi nhiều cơ sở làm ăn thua lỗ hàng trăm ngàn tỷ, là nơi phát sinh những vụ tham nhũng lớn, rất lớn, là nhiều công ty, nhà máy phải hóa giá để bán. Lãnh đạo Đảng biết rõ tình trạng, nhưng tại sao vẫn cứ phải ghi vào các nghị quyết rằng kinh tế nhà nước là chủ đạo. Tại vì Đảng vẫn kiên trì đường lối Mác Lê. Nếu kinh tế nhà nước không chủ đạo thì còn gì là Mác Lê nữa. Đây là một sự luồn lách về ngôn từ.

Sự lãnh đạo của Đảng về kinh tế rõ nhất là bắt nông dân vào các hợp tác xã nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp tư nhân, làm ra luật đất đai, tạo điều kiện cho nhiều vụ tham nhũng khắp các địa phương, tạo ra nhiều dân oan bị cướp đất. Một hệ quả của việc lãnh đạo của Đảng là sự kết hợp giữa các thế lực có quyền và có tiền, tạo ra các nhóm lợi ích để thao túng và phá nát nền kinh tế.

Thứ Năm, 20 tháng 5, 2021

Phản biện Bài báo của GS Nguyễn Phú Trọng (Phần 1)

Nguyễn Đình Cống

 I- Giới thiệu

Ngày 17/5/ 2021, các báo ở Việt Nam đồng loạt đăng bài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (gọi tắt là Bài báo). Bài báo ký tên Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.

Bài báo dài 8180 chữ, trình bày liền một mạch, có thể phân thành 10 đoạn với tiêu đề do tôi đặt như sau:

Đoạn 1- Đặt vấn đề với 4 câu hỏi về CNXH và xây dựng CNXH ở VN: 610 chữ

Đoạn 2- Nhận xét chủ nghĩa tư bản: 1080 chữ.

Đoạn 3- Việt Nam cần xây dựng XHCN: 1149 chữ.

Đoạn 4- Điểm qua những việc cần làm: 437 chữ.

Đoạn 5- Kinh tế thị trường định hướng XHCN: 703 chữ.

Đoạn 6- Phát triển văn hóa: 304 chữ.

Đoạn 7- Nhà nước pháp quyền XHCN: 537 chữ.

Đoạn 8- Xây dựng Đảng: 400 chữ.

Đoạn 9- Thành tích và tồn tại của thời kỳ 35 năm đổi mới: 1929 chữ.

Đoạn 10- Thời kỳ quá độ: 984 chữ.

Bài báo đã được sự quan tâm của báo chí cả hai phía, lề Đảng và lề Dân; của người trong nước và ở nước ngoài.

Nhiều báo lề Đảng không những đăng toàn văn mà còn rất nhiều bài hưởng ứng, ca ngợi lên tận mây xanh, cho rằng bài báo có tính khoa học và tính thực tiễn rất cao. Rất nhiều bài, không thể kể hết.

Báo lề Dân cũng khá kịp thời đăng một số bài phản biện. Chỉ trong vài ba ngày từ 18 tháng 5 đã có các bài của Phạm Trần, Lưu Trọng Văn, Đào Tiến Thi, Âu Dương Thệ, Nguyễn Mạnh Hùng, Tô Văn Trường, Nguyễn Tô Hiệu, Hoàng Dũng, Nguyễn Ngọc Chu, Hải Triều… Đài RFA và BBC cũng đã có vài bài bình luận. Ngoài ra một số trí thức quan tâm thời cuộc cũng có những trao đổi liên quan đến Bài báo như Nguyễn Khắc Mai, Mạc Văn Trang, Nguyễn Ngọc Lanh, Chu Hảo, Nguyễn Quang A, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Trung, Phạm Xuân Đại.

Viết bài này, tôi trình bày những suy nghĩ của cá nhân, trong đó có một số ý kiến trùng với các tác giả kể trong đoạn trên. Xin cám ơn các vị đã kịp thời nêu ra những nhận xét đúng, sắc sảo và xin thông cảm với những ý trùng nhau. Để tránh bài quá dài tôi không trích dẫn bài của các vị, tôi không cố tình đạo văn của các vị.

II- Nhận xét chung về Bài báo

Ký tên Bài báo bắt đầu bằng Giáo sư, Tiến sĩ. Ghi như thế phải chăng có ý nhấn mạnh rằng đây là một “Bài báo khoa học” của một nhà khoa học? Trên tinh thần xem là Bài báo khoa học mà tôi viết những lời trao đổi, có tính phản biện, với một giáo sư, tiến sĩ.