1/ Không ít người bây giờ vẫn tưởng "Việt Nam"
nghĩa là "nước Nam của người Việt". Hoặc là, qua một số em sinh viên
trẻ cho tôi biết ở trường giải thích: "Việt Nam" nghĩa là nước Việt
nằm về phương Nam (so với Tàu). Mắc giống gì mà danh xưng một quốc gia lại đi
lấy một quốc gia khác làm "hệ qui chiếu"? Coi đi, quốc gia của người
Hàn nằm về phía đông nước Tàu, họ đâu giải thích nước họ là ... "Hàn
Đông".
Ý nghĩa của hai chữ "Việt Nam" bấy lâu nay thường
được diễn giải theo chủ quan của hậu thế, NHƯNG cho dù diễn giải vi diệu/hay
ho/cao siêu tới đâu đi nữa thì - xin nhấn mạnh - hãy nhớ rằng tên nước VIỆT NAM
越 南 là do Nhà Nguyễn chính thức định danh.
Thành thử phải tìm hiểu Nhà Nguyễn gọi vậy với ý nghĩa gì (chớ đừng nhồi nhét
cách diễn giải của đời sau vào miệng tiền nhân)!
... Hệt như có một làn gió mát mẻ, hết sức khỏe khoắn sau
khi tôi may mắn biết được ý nghĩa đích xác của tên nước "VIỆT NAM"
khi vua Gia Long định danh.
"Việt" trong quốc danh "Việt Nam" 越 南, té ra không phải làm một với
"Việt" trong quốc danh "Đại Việt" 大 越 (mặc dù nhìn vô mặt chữ hệt nhau)!
Nói vào ngay, "Việt" đàng nào cũng có cái hay,
nhưng lại không giống nhau.
2/ VIỆT NAM trở thành quốc danh chính thức, lần đầu tiên là
vào đời vua Gia Long, năm 1804.
2a) Ban đầu, năm 1802 (Nhâm tuất) vua Gia Long đặt tên nước
là "Nam Việt" 南 越.
Nhưng nhà Thanh e ngại hai chữ 南 越 (Nam Việt) lặp lại quốc danh "Nam Việt" mà Triệu Võ
Đế (Triệu Đà, năm 204 TCN - năm 137 TCN) đặt ra, bấy giờ lãnh thổ không chỉ có
Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (đồng bằng sông Hồng cho tới Hà Tĩnh) mà bao trùm
luôn Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây).
2b) Để tránh sự e ngại từ nhà Thanh, đầu tháng hai năm Giáp
tý (1804) vua Gia Long đã đổi "Nam Việt" thành VIỆT NAM (越 南).
Dầu "Nam Việt" hoặc "Việt Nam" cũng đều
chung ý nghĩa. Trịnh Hoài Đức (1765-1825), sử gia nổi tiếng sống dưới thời vua
Gia Long, có mặt trong đoàn sứ qua Tàu đàm phán với nhà Thanh, cho biết:
"Việt Nam là quốc danh thích hợp để chỉ một lãnh thổ
hợp nhứt giữa Đàng Trong với Đàng Ngoài”, "chúng ta (Nhà Nguyễn) sở hữu
đất của Việt Thường trước, và vùng An Nam được thêm vào sau đó".
Hai chữ VIỆT NAM là sự kết hợp giữa VIỆT (THƯỜNG) với (AN)
NAM.
3/ Việt Thường là xứ mô?
Theo những sách cổ xưa như "Hậu Hán thư",
"Thượng thư đại truyện", "Tư trị thông giám cương mục" thì
nước Việt Thường 越 裳 nằm về phía
nam Giao Chỉ.
Trong cuốn "Đại Nam Chính biên Liệt truyện sơ tập"
thì xác định tên gọi VIỆT THƯỜNG "là tên cổ của xứ Champa"!
Một nguồn khác cho biết cách gọi "Việt Thường" là
để chỉ lãnh thổ về phía nam của Giao Chỉ, bao gồm cả Phù Nam (sau này trở thành
vùng Thủy Chân Lạp).
Khi Trịnh Hoài Đức viết "chúng ta sở hữu đất của Việt
Thường 越 裳 trước", là nhằm ghi nhận các bậc
tiền nhân của vua Gia Long (là các Chúa Nguyễn) đã hùng cứ tại Đàng Trong
(Champa, Thủy Chân Lạp). Sau đó Nguyễn Phúc (phước) Ánh (vua Gia Long) đã
"thêm vào vùng An Nam 安 南 " là xứ
lấy Thăng Long làm kinh đô (tức Đàng Ngoài).
4/ HÃNH DIỆN HAI CHỮ "VIỆT NAM"!
Trước đó, theo dòng lịch sử qua các đời Lý, Trần, Lê... cho
dù tự xưng quốc danh "Đại Việt, Đại Nam"... hay đại gì đi nữa. Tuy
nhiên, nước Tàu không tôn trọng mà họ cứ gọi xứ sở (lấy Thăng Long làm kinh đô)
là "An Nam" miết (và gọi các đời vua Lý, Trần, Hậu Lê đều là "An
Nam quốc vương")!
Đến đời Hoàng đế Gia Long, ban đầu triều đình bên Tàu ép vẫn
phải dùng quốc danh "An Nam", không chịu "Việt Nam". Nhưng
sứ giả của vua Gia Long không đồng ý.
Với quốc danh VIỆT NAM, quí bạn chú ý: Đây là LẦN ĐẦU TIÊN
trong suốt lịch sử cả ngàn năm, Tàu đã phải từ bỏ cách gọi truyền kiếp "An
Nam" đối với nước Việt chúng ta!
Đời nay chúng ta mỗi khi hãnh diện về hai chữ "Việt
Nam" thì nên nhớ tới cái danh xưng đó do Hoàng đế Gia Long đặt ra, thống
nhất sơn hà, và sau đó năm 1808 vua phân chia địa giới khu vực. Đừng uống nước
mà quên luôn cái nguồn quốc hiệu đó từ đâu, đừng bị nhiễm thói ăn cháo đá bát.
5/ THAY LỜI KẾT
"Việt" (trong "Đại Việt" 大 越 ) dùng để chỉ Việt tộc.
Còn "Việt" (trong "Việt Nam" 越 南 ) tuy cùng mặt chữ nhưng được lấy từ
trong danh từ kép "Việt Thường" 越 裳 (định danh về địa lý).
Ghép chữ "Việt" (trong "Việt Thường")
với "Nam" (trong "An Nam") thành quốc danh VIỆT NAM, là sự
ghi nhận đàng hoàng về nguồn gốc của từng vùng lãnh thổ!
Qua đó, vua Gia Long cho thấy niềm hãnh diện trước việc hợp
nhứt Đàng Trong với Đàng Ngoài. Lãnh thổ nước ta LẦN ĐẦU TIÊN trải rộng từ bắc
đến nam, từ ải Nam Quan cho tới mũi Cà Mau bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, nếu theo đường cái quan đi từ Quảng Ninh tới mũi Cà Mau thì thành đường
cong chữ S.
Tắt một lời, VIỆT NAM là quốc danh mang ý nghĩa về SỰ HỢP
NHỨT LÃNH THỔ.
Ý nghĩa nêu trên của hai chữ VIỆT NAM, thiệt hay hết sức,
độc đáo hết sức trong tinh thần đoàn kết các cộng đồng dân tộc ./.
PHAN LÊ (st)