Nguyễn Văn Huy
Tiến sĩ Dân tộc học, Giáo sư phụ trách Khoa Các Dân tộc Ðông Nam Á
tại Ðại học Paris
IV. Người Thượng vẫn trên đường tìm chỗ đứng
Năm 1969, những đòi hỏi chính đáng của nhóm FULRO Thượng ôn hòa
đều được thỏa mãn, người Thượng được quyền tham gia trực tiếp vào các sinh hoạt
chính trị và đã cùng với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa xây dựng và bảo vệ miền
Nam. Giai đoạn từ giữa tháng 10-1969 đến đầu tháng 3-1975 có lẽ là thời kỳ vàng
son nhất của cộng đồng người Thượng từ khi được biết đến, nhưng thời gian đã
quá ngắn ngủi để những dự án hội nhập người Thượng vào cộng đồng Việt Nam trở
thành hiện thực. Hơn 200.000 trên tổng số một triệu người Thượng đã chết trong
cuộc chiến. Sau ngày 30-4-1975, dưới chế độ cộng sản, phong trào FULRO, được
dịp hồi sinh, đã tổ chức nhiều cuộc đánh phá chống lại chính quyền cộng sản và
bị trấn áp trong bạo lực. Cho đến nay người Thượng vẫn còn trên đường đi tìm
chỗ đứng.
Chính sách Thượng vụ thời Ðệ nhị Cộng Hòa
Tại miền Nam, sau 1969, nhiều định chế chính trị và xã hội đã được
thành lập để hội nhập người Thượng vào cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Dưới áp lực của Hoa Kỳ, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa chấp thuận
gần như toàn bộ những nguyện vọng chính đáng của người Thượng qua hai đại hội
sắc tộc họp tại Pleiku từ 15 đến 17-10-1964 và từ 25 đến 26-6-1967. Một số đòi
hỏi của nhóm FULRO Thượng – trừ các quyền có lãnh thổ và quân đội riêng, quyền
tiếp đón các phái đoàn ngoại giao quốc tế – cũng được thỏa mãn. Những cựu thành
viên của phong trào FULRO (gần 6.000 người) đã rời Kampuchea về lại Việt Nam
sinh hoạt bình thường, 23 cán bộ cao cấp được hồi ngạch và làm việc ngay tại
địa phương nơi cư ngụ.
Ðể tranh thủ sự hợp tác của những nhân sĩ Thượng ôn hòa trong sinh hoạt chính trị (dân cử hay bổ nhiệm), chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thành lập Phong trào Ðoàn kết các Sắc tộc Cao Nguyên Việt Nam, trụ sở đặt tại Buôn Alêa. Lễ ra mắt được cử hành trọng thể tại Buôn Ma Thuột ngày 22-4-1969. Ban chấp hành phong trào, đa số là người Rhadé, gồm có một chủ tịch danh dự (tổng thống Nguyễn Văn Thiệu), một chủ tịch chính thức (ông Y Bling, buôn Krong Pang), một đệ nhất phó chủ tịch (ông Y Dhắt Niê Kdam), một đệ nhị phó chủ tịch (ông Ya Dúk, người Kaho), một đệ tam phó chủ tịch (bà Hbi, buôn Ya), một tổng thư ký (ông Y Kuốt Ayun), một thủ quỹ (ông Y Buăn). Ban cố vấn gồm có các ông Paul Nưr (người Bahnar), Y Chôn Mlô Duôn Du và Y Bliêng Hmok. Ban chấp hành các tỉnh do chính phủ chỉ định. Tại Ðắc Lắc, các ông Y Chôn Mlô Duôn Du làm chủ tịch tỉnh bộ phong trào và Kpa Koi (người Djarai) làm phó chủ tịch. Phong trào Ðoàn Kết, trên thực tế, là cơ quan tuyển chọn người để đưa vào chính quyền. Việc làm đầu tiên là đề cử người vào Hội đồng Sắc tộc.