Hiển thị các bài đăng có nhãn CHÍNH TRỊ XÃ HỘI. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn CHÍNH TRỊ XÃ HỘI. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 23 tháng 3, 2022

Xung đột Ukraine sẽ dễ lặp lại nhất ở Việt Nam, không phải là Đài Loan

 Một sự cố trên Biển Đông có thể dễ dàng leo thang chiến tranh

NIKKEI ASIA by Derek Grossman – March 21, 2022 

Ba Sàm lược dịch

Cuộc chiến của Nga ở Đông Âu đã thúc giục những người theo dõi an ninh Ấn Độ – Thái Bình Dương đưa ra những so sánh giữa cảnh ngộ của Ukraine với tình trạng của Đài Loan liên quan tới Trung Quốc.

Có điều chắc chắn là, Ukraine và Đài Loan đều là hai quốc gia dân chủ xung đột với một cường quốc láng giềng theo chủ nghĩa xét lại (xem: Trung HoaNga) và độc tài. Lập luận của Vladimir Putin rằng Ukraine không phải là một quốc gia có chủ quyền thậm chí có vẻ giống như những lời của Tập Cận Bình và mọi nhà lãnh đạo Trung Quốc trước ông: Đài Loan chỉ là một tỉnh phản tặc và sẽ được “tái thống nhất”, dù thông qua hòa bình hay cưỡng ép nếu cần thiết.

Tuy nhiên, ngoài những điểm tương đồng đáng chú ý đó, thì Ukraine-Đài Loan lại không còn gì giống nhau. Sự tương hợp có thể được áp dụng hơn chính là một quốc gia Ấn Độ – Thái Bình Dương khác: Việt Nam.

Một nhà nước xã hội chủ nghĩa đồng minh do một đảng Cộng sản độc tài cai trị, Hà Nội đang chịu sức ép ngày càng tăng từ Trung Quốc, đặc biệt là xung quanh các yêu sách chủ quyền chồng chéo ở Biển Đông.

Thứ Bảy, 19 tháng 3, 2022

Tiểu quốc PHẦN LAN chiến thắng siêu cường LIÊN XÔ

 





Năm 1939, Phần lan chỉ là quốc gia tí hon với 4 triệu dân, còn Liên Xô là siêu cường có lãnh thổ lớn nhất thế giới với 170 triệu dân.

Stalin đề nghị Phần Lan trao đổi một phần lãnh thổ của nước này với Liên Xô, Chính phủ Phần Lan đã từ chối, Stalin liền huy động quân đội tấn công Phần Lan.

Tham gia vào Chiến tranh Mùa Đông 1939- 1940, phía Phần Lan chỉ có khoảng 300.000 quân trong khi đó phía Liên Xô huy động khoảng 1 triệu quân (gấp >3 lần), cùng rất nhiều phương tiện chiến tranh hạng nặng vượt trội Phần Lan như 5000 xe tăng (gấp 100 lần), 3800 máy bay (gấp >30 lần).

Ngày 30/11/1939, quân Liên Xô tấn công tám điểm dọc biên giới dài 1.000 dặm của Phần Lan và dùng không quân oanh tạc thủ đô Helsingfors. Máy bay Liên Xô tràn ngập bầu trời Phần Lan, tiến hành oanh tạc dữ dội nhiều thành phố, thị trấn. Vào lúc 6h sáng cùng ngày, 23 sư đoàn của 4 tập đoàn quân với 425.000 binh lính, cùng 6 sư đoàn thiết giáp với hơn 3.000 xe tăng, được yểm hộ bởi hơn 3.000 máy bay vượt biên giới Phần Lan.

Ban đầu người Nga tấn công chủ yếu vào công trình bố phòng trên biên giới Phần Lan ở eo biển Karel. Tuy nhiên xe tăng Liên Xô thường xuyên vấp mìn của quân Phần Lan nên nhiều chiếc bị phá huỷ, còn binh sĩ Liên Xô bị vướng rào kẽm gai trong phòng tuyến của đối phương nên phơi mình cho các ổ súng máy bố trí khéo léo trong rừng. Quân đội Phần Lan dựa vào địa hình quen thuộc và các công sự vững chắc đã chống trả quyết liệt. Họ chủ động rút lui nhử các binh đoàn Xô Viết với vũ khí hạng nặng vào sâu trong lãnh thổ. Khi quân Nga kéo sâu vào 30 dặm, người Phần Lan tổ chức phản công. Bị chặn lại tại các phòng tuyến Phần Lan được xây dựng trong rừng, ngày đêm bị tấn công dữ dội vào sườn, đường giao thông phía sau bị gián đoạn, các binh đoàn Nga phải rút lui về điểm xuất kích với tổn thất nặng nề.

Trong suốt tháng 12, gần 12 sư đoàn Liên Xô đồng loạt tấn công ồ ạt trên toàn phòng tuyến Mannerheim thuộc eo biển Karel nhưng đều thất bại.

Từ ngày 7/12/ 1939 đến ngày 8/1/1940, khoảng 45.000-50.000 quân Liên Xô có xe tăng yểm trợ tấn công mạnh 11.000 quân Phần Lan ở Suomussalmi, kết quả là khoảng 13.000 lính Nga bị thương vong và 2.100 bị bắt làm tù binh để đổi lấy 2.000 thương vong về phía quân Phần Lan. Đặc biệt là trong khoảng từ 4/1 đến 7/1/1940, 6.000 quân Phần Lan phục kích một lực lượng Xô viết khoảng 25.000 quân trên đường Raate, quân Phần Lan có 402 người chết để đổi lấy 7.000-9.000 quân Xô viết chết hoặc mất tích và 1.300 tù binh. 2 sư đoàn 163 và 44 Bộ binh Liên Xô bị kẹt trong đầm lầy nên bị chết rét dần dần, trong số 44.000 quân thì đã tử trận, chết cóng, bị thương hoặc bị ốm mất hơn 30.000, bị mất 86 xe tăng còn phía Phần Lan tịch thu làm chiến lợi phẩm 69 xe T-26 và 10 xe cơ giới các loại. Tàn quân Liên Xô rút chạy về hậu cứ.

Chủ Nhật, 6 tháng 3, 2022

Nga xâm lăng Ukraina : Đảo chính Putin để ngăn bóng ma nguyên tử ?

05/03/2022

Thụy My RFI

 


Nguy cơ tận thế nguyên tử chưa bao giờ cao như thế, kể từ sau khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962. Các tướng lãnh Nga cần hiểu họ có thể bị truy tố vì tội ác chiến tranh. Những tay chân phục tùng dưới trướng để tha hồ vơ vét, chứ không phải để ra trước tòa án La Haye. Phương Tây có thể âm thầm bảo đảm nếu họ lật đổ Putin, nước Nga sẽ có khởi đầu mới. Sa hoàng đỏ có thể lặng lẽ rút vào bóng tối.

Tất cả tuần báo Pháp ra số đặc biệt chuyên đề Ukraina

Tất cả các tuần báo uy tín kỳ này đều ra số đặc biệt dành gần như trọn số trang cho bài vở về sự kiện Nga xâm lược Ukraina. Trên mặt tiền các ki-ốt sách báo Paris nổi bật khuôn mặt trầm tư của tổng thống Ukraina, Volodymyr Zelensky. Ông xuất hiện trên trang bìa L’Express trong màu áo trận, nón sắt rằn ri đội đầu, và dòng tựa « Ai sẽ chận được Putin ? ». Cũng trong chiếc áo khoác « treilli », tay đặt lên ngực, mắt nhìn thẳng âu lo nhưng cương quyết, chân dung vị tổng thống trẻ nổi bật trên trang nhất Le Point bên cạnh tít lớn « Volodymyr Zelensky, anh hùng của tự do ». Đáng chú ý là tuần báo phá lệ, xuất bản ngay từ thứ Hai thay vì giữa tuần.

L’Obs chọn ảnh bìa là một phụ nữ bật khóc trước tòa nhà đổ nát, trước « Sự rung chuyển của thế giới ». Trang nhất The Economist đơn giản là hai mảng màu xanh và vàng – màu cờ của Ukraina – với những giòng máu đỏ đang nhỏ xuống ở giữa, nhấn mạnh « Sự kinh hoàng phía trước ». Paris Match đăng ảnh một bé trai Ukraina trong cảnh đổ nát, chạy tựa « Ukraina, tử đạo và anh hùng ». Chỉ có Courrier International dành trang nhất cho Putin, nhưng tượng trưng bằng một khuôn mặt đỏ rực hình cây nấm, theo sau là một vầng lửa nguyên tử, với dòng tít lớn « Không thể tưởng tượng ».

Vladimir Putin, kẻ thù số 1 của hòa bình thế giới

L’Express ghi nhận chỉ trong một ngày cuối tuần, Liên Hiệp Châu Âu (EU) bỗng thay đổi hẳn, lần lượt phá vỡ những cấm kỵ xưa nay. Châu Âu gởi vũ khí cho Ukraina với danh nghĩa tập thể, kể cả chiến đấu cơ ; đóng băng tài sản của Vladimir Putin và Serguei Lavrov, loại Nga khỏi hệ thống SWIFT, giới hạn hoạt động ngân hàng trung ương Nga. Đặc biệt Đức dám xếp xó dự án Nord Stream 2, viện trợ vũ khí sát thương cho Ukraina, tăng mạnh ngân sách quốc phòng. Trước đây những lúc EU biết đoàn kết chủ yếu để bảo vệ thị trường chung, lần này EU bắt đầu chuyển đổi cả về địa chính trị lẫn quân sự.

Theo L’Obs, khi điều các chiến xa đến Ukraina, Vladimir Putin không chỉ muốn xâm lăng một quốc gia có chủ quyền, mà còn là tấn công vào nền dân chủ phôi thai ở Kiev – với cuộc Cách mạng màu cam năm 2004 và Cách mạng Maidan 2014 – vì lo sợ sẽ lây lan sang Nga. Ông ta đã lộ mặt, công khai chứng tỏ với những người – ngây thơ hay đồng lõa – trong một thời gian quá dài từ chối công nhận sự thật : tổng thống Nga nay rõ ràng là kẻ thù số một của hòa bình thế giới.

Le Point trong bài « Những con chó ngoan của Putin » đả kích không chỉ một « Putin siêu quậy mặt bơm botox » đã đe dọa phương Tây bằng vũ khí nguyên tử. Đó còn là sai lầm chiến thuật khủng khiếp của Joe Biden, khi tuyên bố rằng lính Mỹ sẽ không hy sinh vì Ukraina trong bất cứ trường hợp nào. Đó là châu Âu nhu nhược, đã cố thương lượng cho đến giới hạn của sức chịu đựng. Bên cạnh đó là những người vận động hành lang ra sức bênh vực Putin, kể cả một số tên tuổi lớn.

Tờ báo đặt câu hỏi, vì sao kinh tế Nga đứng thứ 12 thế giới (sau Ý và Hàn Quốc), nhưng nếu tính theo GDP trên đầu người, thì đứng tận thứ 65 ? Tại sao ở đất nước rộng lớn nhất hành tinh, phong phú tài nguyên dầu khí, dự trữ ngoại hối khổng lồ, mà người dân lại nghèo đến vậy ? Bởi vì dưới sự trị vì của Vladimir Putin, được coi là một trong những người giàu nhất thế giới, nguồn lực đã bị ông ta và đồng bọn mafia thâu tóm. Những chú cún ngoan ngoãn của Putin cần nhớ rằng nghĩa vụ làm người là luôn phải đứng về phía các nạn nhân. Với một tội phạm chiến tranh như Putin ở ngay ngưỡng cửa, sẽ là thảm họa nếu châu Âu không nhanh chóng tự chủ về quốc phòng.

« Niet, thưa ông Putin »

Thứ Năm, 24 tháng 2, 2022

TÁC DỤNG CỦA TẦM NHÌN CHÍNH TRỊ QUA XUNG ĐỘT NGA- UKRAINE

Trần Trung Đạo



Bốn chữ “Ukraine thuộc Nga” đóng đinh trong đầu của TT Nga gốc sĩ quan tình báo Liên Xô tại Đông Đức Vladimir Putin. Theo tài liệu của Bộ Ngoại Giao Mỹ, trong một hội nghị của NATO 2008 tại Bucharest, Romania, Putin nhắc cho TT George W. Bush biết “Ukraine không phải là một quốc gia” mà là một phần của Nga. Trong một tiểu luận đăng trên website của chính phủ Nga ngày 12 tháng 7, 2021 “Về sự thống nhất lịch sử của người Nga và người Ukraine“, Putin cho rằng Nga và Ukraine là một dân tộc, một nền văn hóa, một tôn giáo và một truyền thống lịch sử: “Người Nga, người Ukraine và người Belarus đều là con cháu của Rus cổ đại, là nhà nước lớn nhất ở châu Âu.”

Sau nhiều năm tìm cách sáp nhập Ukraine vào Nga lần nữa bằng nhiều phương pháp, ngày 24 tháng 2, 2022 Putin chọn con đường vũ lực qua việc chính thức tấn công Ukraine.

Chiến tranh bùng nổ hôm nay là hậu quả phát xuất từ các chính sách đối ngoại và đối nội sai lầm suốt 31 năm của nhiều lãnh đạo và chính phủ Ukraine bất tài và tham nhũng bắt đầu với Leonid Kravchuk, đại diện Belarus tại lễ ký kết giữa các lãnh đạo Nga, Ukraine và Belarus để thành lập Cộng Đồng Các Quốc Gia Độc Lập (Commonwealth of Independent States).

Tổ chức này thực tế là cái tròng đã có từ thời Nga Hoàng do Boris Yeltsin đặt trên cổ các nước nhỏ sắp thoát khỏi Liên Xô. Liên Xô sụp hơn hai tuần sau đó. Ngoại trừ ba nước nhỏ vùng Baltics, phần lớn rơi vào chiếc bẫy sống chung trong thịnh vượng và độc lập này.

Chính sách an ninh của Nga dù trải qua nhiều thời kỳ từ phong kiến sang CS tới cộng hòa về căn bản đều giống nhau. Nga thiết lập và bảo vệ một vùng an ninh chung quanh biên giới. Hiệp ước bí mật giữa Stalin và Hitler 1939 cũng nằm trong chiến lược đó.

Sau 1991, Ukraine có nhiều cơ hội thoát khỏi ảnh hưởng Nga nhưng không thoát chỉ vì giới lãnh đạo có một tầm nhìn quá hẹp.

Ukraine trước 1994 là một trong ba quốc gia có khối lượng vũ khí nguyên tử lớn nhất thế giới, sau Mỹ và Nga. Năm 1994, Ukraine đồng ý hủy bỏ vũ khí nguyên tử nhưng không nhận lại một khoản lợi quan trọng hay cam kết của Liên Hiệp Quốc nào, chẳng hạn như gia nhập cộng đồng kinh tế Âu Châu, thành viên NATO, viện trợ hàng năm v.v… ngoài trừ những hứa hẹn trên đầu môi chót lưỡi của Anh, Mỹ, Nga tại hội nghị Budapest . Nga sáp nhập vùng Crimea cũng không tạo nên một phản ứng quốc tế lớn mạnh nào.

Từ một người dân thường cho đến lãnh đạo một quốc gia tầm nhìn vẫn là yếu tố quyết định cho tương lai của một gia đình hay một dân tộc. Biến cố Ukraine là một bài học cho mọi người Việt quan tâm đến vận mệnh đất nước.

———————————————————-

Hôm đó là ngày 8 tháng 12, 1991 tại một khu nhà nghỉ mùa đông thuộc Belarus, cách biên giới Ba Lan 8 km, đại diện ba nước Russia, Ukraine, and Belarus vừa tuyên bố độc lập khỏi Liên Xô gặp nhau.

Boris Yeltsin đại diện Nga, Stanislav Shushkevich đại diện Belarus và Leonid Kravchuk đại diện Ukraine. Cả ba lãnh đạo đều rất vui mừng, phấn khởi vì quốc gia họ đang đứng trước ngưỡng cửa mới đầy hy vọng cho tương lai.

Bắt đầu chỉ với 3 quốc gia trong số 15 nước “xã hội chủ nghĩa” Liên Xô, tham dự hội nghị nhưng trong thực tế ba nước này chiếm tới 73% dân số và 80% diện tích của Liên Xô. Trong ngày 8 tháng 12 hôm đó, ba phái đoàn tuyên bố thành lập Cộng Đồng Các Quốc Gia Độc Lập (Commonwealth of Independent States).

Đọc tin một thông cáo chung được ký, Mikhail Gorbachev trong diễn văn truyền hình ngày hôm sau tuyên bố văn bản đại diện ba nước ký là “bất hợp pháp”

24/2/2022 , Nga chính thức xâm lược Ukraina: "Nga trút mưa tên lửa hành trình" Ukraine

 Phạm Nghĩa

 


24-02-2022 - (NLĐO) - Mỹ và NATO vẫn giữ lập trường không gửi quân đội tới Ukraine. Thay vào đó, NATO tìm cách ngăn cuộc chiến lan sang các nước láng giềng như Ba Lan và vùng Baltic - Estonia, Latvia, Lithuania.

Reuters ngày 24-2 dẫn lời cố vấn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy cho biết ít nhất 40 binh sĩ Ukraine và 10 dân thường đã thiệt mạng trong các cuộc pháo kích của quân đội Nga. Sân bay Boryspil ở thủ đô Kiev được cho là bị tấn công

Cố vấn của Bộ trưởng Nội vụ Ukraine, ông Anton Gerashchenko, viết trên mạng xã hội Facebook rằng quân đội Nga đã thực hiện các cuộc tấn công bằng tên lửa vào các cơ sở chỉ huy quân sự, căn cứ không quân và kho đạn dược ở Kiev, Kharkiv, Dnipro.

Trong khi đó, Kiev tuyên bố họ đã "làm thiệt mạng khoảng 50 quân Nga" nhưng không cung cấp thêm chi tiết.

Theo Daily Mail, Nga phát động chiến dịch quân sự với các cuộc tấn công đồng thời từ phía Nam, Đông và Bắc Ukraine, bằng cả đường bộ lẫn đường hàng không. Tên lửa và bom được nhìn thấy trút xuống từ bầu trời. Xe tăng ào ạt đổ qua biên giới vào Ukraine, lính dù đổ bộ các khu vực phía Đông và các vụ nổ được báo cáo trên khắp Ukraine ngày 24-2.

Nga được cho là triển khai tên lửa hành trình, bom dẫn đường và rốc-két GRAD nhằm vào các mục tiêu từ Đông sang Tây ở Ukraine, bao gồm sân bay, căn cứ quân sự, kho đạn dược và trung tâm chỉ huy ở thủ đô Kiev.

Ukraine nói rằng 6 máy bay Nga đã bị bắn hạ ở vùng Donbass trước khi Moscow thông báo kiểm soát hoàn toàn không phận khu vực này. Lính biên phòng Ukraine cho biết họ bị tấn công bởi pháo binh, xe tăng và binh sĩ từ Nga và Belarus.

Các khu vực Luhansk, Sumy và Chernihiv ở miền Đông Ukraine bị tấn công, trong khi xe tăng xuất hiện ở vùng ngoại ô Kharkiv sau khi lính dù đổ bộ. Các vụ nổ cũng được báo cáo ở phía Tây Ukraine - tại Zhytomyr và Lviv, gần biên giới Ba Lan.

Một đoạn video chưa được xác nhận cho thấy "một tên lửa hành trình Kalibur đánh trúng sân bay Ivano-Frankivsk". Một căn hộ ở Kharkiv cũng bị tấn công, gây thương vong về phía dân sự, bao gồm một cậu bé.

Thứ Năm, 17 tháng 2, 2022

VietnamNet: Nguyên nhân cuộc chiến phi nghĩa xâm lược VN 1979 của nhà cầm quyền TQ

Đôi lời: hình như lâu rồi mới có một bài viết trên báo quốc doanh có lời lẽ rành rẽ, mạnh mẽ như vậy về cuộc chiến Trung-Việt 1979, trong đó nhắc tới kẻ thủ ác Đặng Tiểu Bình, đến “giới cầm quyền Trung Quốc“, với hành động “phi nghĩa“, “xâm lược“, “sát hại“, “cướp bóc“, …. Tựa bài được BS sửa lại, nhưng vẫn bám sát nội dung bài viết. BS

·                                 3122. Tại sao Việt Nam không dạy lịch sử cuộc chiến tranh Trung-Việt?

·                                 3120. Nguyên nhân của chiến tranh biên giới Việt-Trung

Chiến tranh biên giới: Nhìn lại để trân quý nền hòa bình hiện tại

TUANVIETNAM

17/02/2022    06:00 GMT+7

TS Phạm Minh Thế (Khoa Lịch sử, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội) 

Bài viết cung cấp cho độc giả cách nhìn nhận về nguyên nhân của cuộc chiến tranh từ tư liệu hồi ức của các cựu quân nhân Việt Nam.

Tuyên bố của Trung Quốc

Ông Đặng Tiểu Bình – lãnh đạo Trung Quốc đã có những phát biểu, tuyên bố trước về một cuộc chiến tranh đối với Việt Nam.

Trong chuyến đi thăm Mỹ vào cuối tháng 1, đầu tháng 2/1979, ông Đặng Tiểu Bình trao đổi với Tổng thống Jimmy Carter về một số chính sách của Trung Quốc, trong đó nhấn mạnh: “Trung Quốc vẫn phải dạy cho Việt Nam một bài học. Liên Xô có thể sử dụng Cuba, Việt Nam, và sau đó Afghanistan phát triển thành một nước ủy nhiệm. Trung Quốc đang tiếp cận vấn đề này từ một thế mạnh. Hành động sẽ rất hạn chế”.

Khi trao đổi với báo chí Mỹ, ông Đặng Tiểu Bình nhấn mạnh: “Vai trò của người Việt Nam sẽ còn tồi tệ hơn người Cuba”. Và rằng: “Chúng tôi gọi người Việt Nam là những người Cuba của Phương Đông. Nếu bạn không dạy họ những bài học cần thiết, thì điều đó sẽ chẳng xảy ra”. 

Rời nước Mỹ, ông Đặng Tiểu Bình qua Nhật nhằm lôi kéo nước này vào “mặt trận” cô lập Việt Nam. Trong cuộc trao đổi với Thủ tướng Masayoshi Ohira, ông nhắc lại quan điểm của Trung Quốc: Việt Nam phải bị “trừng phạt” vì Campuchia và cam kết: “Duy trì phát triển lâu dài của hòa bình và ổn định quốc tế… [nhân dân Trung Quốc] sẽ quyết định hoàn thành các nhiệm vụ của chúng ta, và sẽ không vô ngại những điều cần thiết”. 

Đó chính là những lời rào trước, đón sau hay nói cách khác là tuyên bố về việc sẽ tiến hành cuộc chiến tranh phi nghĩa mà lãnh đạo Trung Quốc quyết ý thực hiện đối với Việt Nam. 

Ngày 17/2/1979, giới cầm quyền Trung Quốc huy động 60 vạn quân chủ lực tấn công quân sự đối với Việt Nam trên toàn tuyến phía Bắc từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Móng Cái (Quảng Ninh) với chiều dài hơn 1.400km. 

Thứ Hai, 7 tháng 2, 2022

VÌ SAO VŨ NƯƠNG CHẾT ?

 (Hay việc đi tìm Di sản dân tộc)

THÁI HẠO

(Những sự thật đầy chua xót nhưng lại rất đúng, qua bài viết rất hay và công phu của nhà giáo Thái Hạo.)

***************

 

Buổi học đầu năm chuột, học trò thảo luận về “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ. Các em nói, đại ý, cái chết của Vũ Nương là do tội ác của chế độ phong kiến. Tôi hỏi, “thời này con người còn ghen tuông không ?”, “có ạ”; “bên Mĩ họ có ghen không ?” “có ạ”; “và họ có chọn cách chết như Vũ Nương không ?”, “không ạ”… “thế thì cái việc sống chết này là do ai?”, “do mình ạ”. “Tại sao người cung nữ đau khổ ?”, “vì bị thất sủng ạ” “Cái sướng khổ của người Việt do đâu mà có nhỉ ?”, “do người khác mang lại ạ”. “Các em có nhận xét gì về ý thức cá nhân của người Việt ?” “chưa phát triển ạ”… “Các em hãy thử so sánh nhân vật Pênêlốp trong Ôđixê của Hi Lạp và Vũ Nương của Việt Nam trong hoàn cảnh tương tự !”...

1. Chúng ta có gì?

Việt Nam là đất nước không có tư tưởng. Người Việt chưa bao giờ lập thuyết. Nhìn lại lịch sử dân tộc chỉ thấy một một nỗi xót xa của kẻ vong bản ngay trên quê hương mình. Khoảng 1 ngàn năm phong kiến “độc lập” chúng ta sống bằng tư tưởng của người Hán với Nho giáo, với Lão – Trang... Khi người Pháp vào chúng ta sống bằng tư tưởng Pháp (và phương Tây nói chung), đó là một sự biến thiên ghê gớm – vô tiền khoáng hậu. Lần đầu tiên người Việt bắt đầu nhìn, nghĩ và nói không phải bằng “giọng” Hán thuần nhất nữa. Một cơ hội vĩ đại cắm một cái mốc có tính Bigbang cho sự thoát Trung của dân tộc. Nhưng rồi lịch sử, như một định mệnh, đã đưa người Việt đến với tư tưởng, cũng lại là ngoại lai, chủ nghĩa cộng sản của người Đức – được thực hành bởi người Nga. Và đến thời điểm này, chúng ta đang dừng lại ở đây. 4000 năm (nếu con số này là thật), đã trưng ra một diễn trình tư tưởng mà ở đó chúng ta hoặc bị cưỡng bức, hoặc đi xin; nhưng dù là thế nào thì chúng ta cũng chưa bao giờ có triết học của mình. Một dân tộc luôn tự hào với văn hiến lâu đời, thật không thể hiểu nổi, khi nó lại không có “suy nghĩ” riêng, nó đã sống bằng cái đầu của người khác ít nhất là hơn 1000 năm qua, từ khi nó tuyên bố độc lập.

Triết học là suy tư ở cõi thế và cho cõi thế, tôn giáo ra đời bởi những câu hỏi có liên quan tới đời sống sau khi chết / một đời sống có tính bản thể / siêu hình. Xét ở góc độ nào đó, thì tôn giáo chứng tỏ một truy vấn sâu hơn triết học. Và chúng ta cũng không có tôn giáo! Chúng ta biến những tư tưởng / học thuyết xã hội của Nho, Lão thành tín ngưỡng, và biến những tư tưởng triết học của Phật giáo thành chuyện cầu cúng.

Cả 2 phương diện làm thành nền móng cho linh hồn một dân tộc là triết học và tôn giáo chúng ta đều không có. Người Việt đã sống tạm bợ suốt cả ngàn năm qua trên chính mảnh đất của mình. Điều ấy chỉ chứng tỏ rằng người Việt không có thói quen suy tư, là một dân tộc “lười suy nghĩ”. Nó lười tới mức không buồn sáng tạo ra chữ viết cho riêng mình ! Cái biểu hiện và dấu vết đầu tiên cho sự trưởng thành của một dân tộc là chữ viết, nhưng chúng ta ban đầu là dùng chữ của người Hán (chữ Nôm cũng chỉ là một loại “biến thể” Hán), đến khi người Tây vào thì dùng chữ La Tinh của người Tây. Chữ viết là phương tiện để ghi lại tiếng nói của một tộc người, nhằm truyền đạt và lưu giữ những giá trị tinh thần. Cái nhu cầu về chữ viết chỉ xuất hiện khi sự sáng tạo văn hóa đạt đến 1 trình độ nhất định ở chiều sâu và sự phức tạp của tinh thần mà tiếng nói truyền miệng không đảm bảo cho sự bảo lưu ấy được vẹn nguyên nữa; và đồng thời đó cũng là sản phẩm của ý thức đã trở thành tự giác nơi cộng đồng ấy với tư tưởng muốn khẳng định và tôn vinh nền văn hóa của mình…Nói tóm lại, chữ viết là sản phẩm đánh dấu một dân tộc đã bước vào ngưỡng của của văn minh. Và chúng ta đã không có điều ấy.

Người Việt không có văn học. Trước khi người Pháp vào chúng ta làm thơ Hán, văn học chữ Nôm chưa bao giờ trở thành chính thống bới cả về số lượng và chất lượng (trừ vài trường hợp đặc biệt); khi người phương Tây vào chúng ta sáng tác văn học theo kiểu phương Tây; những năm “cách mạng” chúng ta viết kiểu văn học Xô – Viết. Viên đá tảng của mọi nền văn học là sử thi thì chúng ta cũng không có. Việt Nam không có sử thi (trong khi các dân tộc “mọi rợ” lại sáng tác nên những pho sử thi hoành tráng – Đam Săn của người Ê Đê chẳng hạn). Việt Nam cũng không có truyền thống tiểu thuyết. Vài tác phẩm có giá trị cũng chỉ có dung lượng khoảng vài trăm trang (nếu viết dài hơn thì trở nên dở).

Và chúng ta hiểu, tại sao các nhà nghiên cứu văn hóa lại khó khăn đến thế khi đi tìm bản sắc văn hóa Việt Nam (tất nhiên là để ca ngợi).

2. Người Việt sống bằng gì ?

Thiền Sư Nhất Hạnh một đời dấn thân và những lầm lẫn

(Tựa gốc: Thiền Sư Nhất Hạnh một đời dấn thân).

“Về chính trị, nếu tôi không lầm, ông chỉ viết có một cuốn duy nhất là Hoa Sen Trong Biển Lửa, Trong sách này ông xem Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam là một lực lượng chính danh đại diện cho nhân dân miền Nam.”

“Ông lên án các vi phạm nhân quyền và tự do tôn giáo tại miền Nam mặc dù trong thời gian này quyền tự do tôn giáo được bảo đảm. Ông đòi hỏi chính quyền Saigon thương thuyết với MTDTGPMN để chấm dứt chiến tranh, mặc dù tổ chức này chỉ là công cụ của Hà Nội.”

“Thiền sư Nhất Hạnh chống chiến tranh mà chỉ chống Hoa Kỳ và miền Nam Việt Nam mà không chống miền Bắc mang quân vào xâm chiếm miền Nam. Ông chống Mỹ ném bom vào tỉnh Bến Tre và có những số liệu gây tranh cãi mà không chống CSVN tàn sát dân vào Tết Mậu Thân tại Huế. Ông chống miền Nam thiếu tự do, nhưng không chống miền Bắc độc tài đảng trị, chà đạp nhân quyền và tôn giáo tàn bạo. Chính Làng Mai của ông ở Lâm Đồng thiết lập vào 2005 bị tàn phá vào 2009 mà ông bất lực.”

3098. Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng kiến nghị để Phật giáo VN ‘tách khỏi Nhà nước’

3100. Thích Nhất Hạnh: Chánh niệm hay chánh trị?

3111. Thầy Nhất Hạnh mất đi, nỗi buồn Việt Nam vẫn còn đó

VOA Tiếng Việt

05/02/2022

Nguyễn Quốc Khải



Cuối đời Thiền Sư Thích Nhất Hạnh toan tính cảm hóa CSVN theo con đường nhân bản, cho tự do tôn giáo… nhưng ông đã thất bại.

Vài ngày nay có khá nhiều góp ý về Thiền Sư Thích Nhất Hạnh kể từ khi ông qua đời vào ngày 22/1/2022. Một cách tổng quát, có hai ý kiến trái ngược nhau ca ngợi và chỉ trích mãnh liệt. Xét cho cùng hai bên đều có thể đúng. Một bên ca ngợi ông về mặt triết lý của cuộc sống và mục tiêu là mưu cầu hạnh phúc, đặc biệt là phương pháp thiền của ông giúp con người sống an nhiên tự tại. Một bên phê phán ông về mặt chính trị dựa trên tinh thần quốc gia dân tộc.

Một đời viết sách

Tính đến 1/2019, thiền sư Nhất Hạnh đã xuất bản trên 130 cuốn sách, bao gồm trên 100 cuốn bằng Anh ngữ và bán được trên năm triệu cuốn trên thế giới. Sách của ông được dịch ra trên hơn 40 ngôn ngữ và viết về những đề tài như hướng dẫn về tâm linh, Phật điển (Buddhist texts), lời dạy về tỉnh thức (mindfulness), thơ và truyện, và những bài tiểu luận về thiền học.

Thiền sư Nhất Hạnh viết rất nhiều về cuộc sống, giúp ích cho mọi gia đình, mọi tôn giáo. The Art of Mindfulness (Nghệ Thuật Sống Tỉnh Thức) bán được 200,000 cuốn chỉ riêng tại Hoa Kỳ. Giám Đốc Ngân Hàng Thế Giới Jim Jong Kim gọi cuốn sách Phép Mầu của Chánh Niệm (Miracle of Mindfulness) là cuốn sách ưa thích nhất của ông. Ngoài ra ông Nhất Hạnh còn có nhiều sách nổi tiếng khác như Bông Hống Cài Áo, Muốn An Được An, Hạnh Phúc Cầm Tay, Giận, Chỉ Nam Thiền Tập Dành Cho Người Trẻ, Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức, Thả Một Bè Lau, Bước Tới Thảnh Thơi, Tâm Tình Với Đất Mẹ, Thiền Tập Cho Người Bận Rộn, Con Đường Chuyển Hóa, Gieo Trồng Hạnh Phúc, Để Có Một Tương Lai, Tìm Bình Yên Trong Một Gia Đình.

Ông viết ít hơn về đạo Phật. Sách về Phật giáo gồm Đạo Phật Cho Tuổi Trẻ, Đạo Phật Ngày Nay, Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời, Đường Xưa Mây Trắng, Đạo Bụt Nguyên Chất, Bụt Là Hình Hài, Bụt Là Tâm Thức, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Sen Nở Trời Phương Ngoại. Trong tác phẩm của mình, ông phát huy một ý niệm mới về Phật giáo dấn thân. Theo đó, triết lý và những điều răn dạy của Phật giáo, những bài học về đức tin, có thể áp dụng vào phúc lợi của con người trong các lãnh vực giáo dục, y tế và chính trị. Tức là đạo vào đời. Trong phần sau, người đọc sẽ thấy ông chủ xướng Phật giáo dấn thân, nhưng áp dụng tùy lúc, tùy nơi.

Về chính trị, nếu tôi không lầm, ông chỉ viết có một cuốn duy nhất là Hoa Sen Trong Biển Lửa, Trong sách này ông xem Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam là một lực lượng chính danh đại diện cho nhân dân miền Nam. Ông không trực tiếp tham gia hoạt động chính trị, nhưng thái độ và những hành động mang tính cách chính trị của ông gây nhiều tranh cãi và hậu quả về sau như chúng ta sẽ thấy ở một phần dưới đây.

Vận động hòa bình

Chủ Nhật, 30 tháng 1, 2022

Chúc mừng năm mới Nhâm Dần của trang web Bauxite Việt Nam

 


Đội ngũ cộng tác viên thân yêu và bạn đọc quý mến!

      Chúng tôi đang cùng quý bạn chia tay một năm Tân Sửu (2021) và bước sang một năm Nhâm Dần (2022) với nhiều cảm giác chẳng lấy gì làm ngọt ngào. Một năm Tân Sửu tiếp liền với năm Canh Tý (2020) trước đó là hai năm đại dịch bùng phát trên phạm vi toàn cầu, đẩy nhân loại vào vòng khốn khó với bao nhiêu nỗi đắng cay chồng chất: chạy dịch, trốn dịch, chết dịch, đeo khẩu trang, sống cách ly, ngoáy mũi hàng ngày vì dịch. Trường học đóng cửa, nhà máy dừng sản xuất, tàu xe đình trệ, bệnh viện quá tải, vacxin không có, lò thiêu xác hết chỗ, đi kèm theo đó là hàng hóa khan hiếm, lạm phát tăng cao, đói khát, mất việc… đều từ đại dịch mà liên tiếp phát sinh. Cả thế giới bị cuốn vào một cơn bão lốc cho đến hôm nay vẫn chưa thuyên giảm, mà hầu như tất cả mọi nạn nhân, hàng chục tỷ người trên khắp hành tinh, từ Bắc cực đến Nam cực, từ Đông bán cầu đến Tây bán cầu,… không một cá nhân, cá thể nào chủ động được hành xử của mình.

Tất nhiên Việt Nam không đứng ngoài cơn cuồng phong hỗn loạn. Ở chặng khởi đầu, Việt Nam có một may mắn là con covid-19 ghé thăm tương đối chậm. Khi đại dịch đã bùng lên khủng khiếp ở Vũ Hán và tràn sang hầu khắp các nước Âu và Mỹ khiến phương Tây cuống cuồng lo đối phó, thì ở VN chỉ mới lác đác xuất hiện một vài cho đến dăm ba chục vụ, chủ yếu là du khách người Việt trở về từ nước ngoài, rước theo cả covid cùng về. Và cả bộ máy ào lên đối phó, cố nhiên là đối phó được ngay. Các cas F0 đều bị chăng dây cách ly với cộng đồng. Những người dương tính mới đếm trên đầu ngón tay cũng lập tức được đem đi tập trung chữa trị, dứt điểm chóng vánh. Phải thừa nhận đó là một phản ứng tích cực. Kết quả sớm được thông báo lên đài: hết thảy những ai bị nhiễm covid ở Việt Nam thời gian qua đều đã được đội ngũ bác sĩ tận tình chữa trị xong, kể cả một ông khách người Anh nhiễm bệnh nặng. Còn ai mà không vui thích! Tuy vậy, mặt trái của thắng lợi này là làm cho tâm lý chủ quan có dịp trỗi dậy,  dự cảm tỉnh táo về những gì không hay sẽ có thể còn xẩy tới - điều cực kỳ quan trọng - bị đẩy xuống hàng thứ yếu, hoặc bị khuất lấp đi. Bộ máy tuyên truyền được dịp tăng tần số phát rộng rãi ra khắp năm châu, khiến thế giới sẵn lòng tin rằng tại mảnh đất hình chữ S ở vùng Đông Nam Á có một nhà nước biết xây dựng cả một chiến lược phòng và chống dịch hiệu quả và thần tốc. Dân chúng càng thêm phấn khởi khi nghe bề trên nói năng mạnh miệng: Nếu cột điện ở Mỹ mà biết đi thì nó cũng tìm cách về Việt Nam để chữa trị covid (1).

Thứ Bảy, 1 tháng 1, 2022

KIẾN NGHỊ 117: YÊU CẦU HỦY BỎ 3 ĐIỀU CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

 

 

(PETITION 117: TO ABOLISH 3 ARTICLES IN VIETNAM’S 2015 CRIMINAL CODE – English below)

XIN MỞ TRANG WEB SAU ĐÂY ĐỂ KÝ TÊN HƯỞNG ỨNG (PLEASE OPEN THE WEBSITE BELOW TO SIGN THE PETITION):

https://docs.google.com/forms/d/e/1FAIpQLSf5bTQIsffMCyQeJ6SUEAKr5CWBRSyW9x4cJoxQ3wHbdBfdUQ/viewform



KIẾN NGHỊ 117: YÊU CẦU HỦY BỎ 3 ĐIỀU CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

Ngày 01-01-2022

Kính gửi:
– Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trưởng ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp Nguyễn Xuân Phúc;
– Chủ tịch Quốc Hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Vương Đình Huệ;
– Các Đại biểu Quốc Hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thưa quý vị,

1) Bốn mươi năm trước, năm 1982, Việt Nam đã tham gia Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR). Đây là luật quốc tế và Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam phải có nghĩa vụ thực thi và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho công dân Việt Nam thực thi – và ngăn chặn các cơ quan chấp pháp vi phạm – các quyền dân sự và chính trị của mình được quy định trong luật quốc tế này.

2) Hiến pháp 2013 của CHXHCN Việt Nam quy định:

– “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 14.1).

– “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” (Điều 25).

Nghĩa vụ của Quốc hội là phải ban hành các (điều) luật để đảm bảo cho công dân có thể thực thi các quyền của mình. Các (điều) luật này có 2 khía cạnh. Một mặt (2.a) liên quan đến các hạn chế quyền, thì luật phải nêu chi tiết rõ ràng không thể hiểu lầm, nếu nêu quá rộng hay mơ hồ thì chính quốc gia tham gia ICCPR, tức là CHXHCN Việt Nam, vi phạm Điều 2 của luật quốc tế ICCPR. Mặt khác (2.b) liên quan đến những cá nhân và cơ quan vi phạm và cản trở các quyền của công dân, thì nhất thiết phải có quy định để trừng trị (nếu Quốc hội thực sự muốn người dân và các cơ quan công quyền tôn trọng Hiến pháp).

3) Đáng tiếc, Quốc hội đã không ra những luật cụ thể tạo thuận lợi cho công dân thực thi các quyền theo các Điều 14.1 và 25 của Hiến pháp và các hạn chế cụ thể, trong khi đó lại thông qua nhiều điều luật của các luật khác nhau liên quan đến hạn chế quyền, những điều luật này vi phạm đúng điều đã nêu ở điểm (2.a) nói trên: quá rộng và mơ hồ, dẫn đến những sự vi phạm nghiêm trọng luật quốc tế, bị các cơ quan của Liên Hiệp Quốc (LHQ) lên án gay gắt. Liên quan đến khía cạnh trừng phạt nêu ở điểm (2.b) nói trên, thì cũng không có quy định rõ ràng. Điển hình là 3 điều của các bộ luật Hình sự (1999 và 2015) hết sức mơ hồ và có thể bị một số cá nhân và cơ quan chấp pháp lạm dụng để cản trở công dân thực hiện các quyền hiến định của mình cũng như các quyền được quy định trong ICCPR, như thế chính những cá nhân và cơ quan chấp pháp vi phạm luật quốc tế, vi phạm hiến pháp và vi phạm luật chứ không phải công dân bị vu cho các tội ấy. Những kẻ lạm dụng, cản trở lại không bị trừng trị vì thiếu vế (2.b) trong các điều luật. Các vị đại biểu Quốc hội đã bỏ phiếu thông qua các luật này không thể thoái thác trách nhiệm của mình!

Ba điều đó là Điều 79 (BLHS 1999) tương ứng với Điều 109 (BLHS 2015), Điều 88 (BLHS 1999) tương ứng với Điều 117 (BLHS 2015) và Điều 258 (BLHS 1999) tương ứng với Điều 331 (BLHS 2015).

Do Quốc Hội còn nợ các luật liên quan đến Điều 25 Hiến pháp cho nên không có cơ sở pháp lý cho 3 điều này của Bộ Luật Hình sự.

3.1) Các Điều 79 (BLHS 1999) và 109 (BLHS 2015) về “tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” không được quy định rõ ràng nên trong thời gian qua đã có 52 người bị bắt tù theo hai điều luật này với 3 án tù chung thân, 2 người chưa xử và 47 người bị kết án tổng cộng hơn 550 năm tù giam; sự mơ hồ của điều luật này đã tạo cớ cho những sự vi phạm luật quốc tế, vi phạm Hiến pháp một cách nghiêm trọng và vì thế cần được hủy bỏ (hay sửa đổi với quy định rất rõ để không ai có thể hiểu lầm được). “Lật đổ” theo từ điển Tiếng Việt (Trung tâm Từ điển học) có nghĩa là “làm cho sụp đổ bằng bạo lực”. Tuyệt đại đa số những người bị tuyên án về tội này đều sử dụng các biện pháp ôn hòa và các quyền hiến định của họ [ngay cả Hồ Chí Minh khi nói “dân có quyền đuổi chính phủ” chắc cũng bị vu cho tội này nếu như ông còn sống].

3.2) Các Điều 88 (BLHS 1999) về “tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và Điều 117 (BLHS 2015) về “Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (điều này vẫn hết sức mơ hồ, và nặng hơn Điều 88 trước kia) với 59 người bị bắt vì các tội nêu trong hai điều trên, trong số đó 7 người chờ xử và 52 người còn lại đã bị kết án tổng cộng 400 năm tù giam. Quy định mơ hồ, dễ cho các cơ quan chấp pháp diễn giải và vu cho bất kể ai thực hiện các quyền hiến định trong Điều 25 của Hiến pháp là vi phạm pháp luật, có thể bị bắt, bị kết án tù nặng. Vì thế cần hủy bỏ Điều 117 và không quy kết bất cứ ai theo Điều 88 nữa (Phạm Đoan Trang đã bị quy kết theo Điều 88 khi Điều 117 đã có hiệu lực).

3.3) Kỳ lạ hơn nữa là các Điều 258 (BLHS 1999) và 331 (BLHS 2015) về “tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Cho đến nay đã có 23 người bị bắt trong đó 11 người đã bị tuyên phạt hơn 50 năm tù giam. Những điều luật này nhằm hạn chế các quyền được nêu trong các Điều 24 và 25 của Hiến pháp, rõ ràng vi phạm ICCPR. Việc lợi dụng các quyền trên từ phía công dân là vô nghĩa, và giả như ai đó (tổ chức, cá nhân) bị xâm phạm lợi ích thì người bị hại đó nên kiện người bị cho là xâm phạm ra tòa án dân sự. Trong tất cả các phiên xử 11 người theo Điều 258 hay Điều 331 không có sự hiện diện của bất cứ “người bị hại” nào bất chấp yêu cầu của các luật sư. Phải hủy bỏ hoàn toàn Điều 331 phi lý, vi hiến và vi phạm luật quốc tế này.

Những quy định mơ hồ của các Điều 109, 117 và 331 của Bộ luật Hình sự đã mở đường cho các cơ quan chấp pháp vi phạm nghiêm trọng Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, vì thế Việt Nam bị các tổ chức quốc tế, các nước dân chủ và cả các cơ quan LHQ lên án (thí dụ các phán quyết của Nhóm Công tác về Bắt giữ Tùy tiện của LHQ, Văn phòng Cao ủy LHQ về Nhân quyền gần đây, nhất là vụ liên quan đến nhà báo Phạm Đoan Trang) làm tổn hại nghiêm trọng đến danh dự của Việt Nam trước thế giới.

Trong số 134 người bị bắt và bị bỏ tù vì 3 điều này, số bị tù trong 5 năm qua (2017-2021) lên đến 93 người, trong đó trong hai năm (2020-2021) lên đến 35 người và chỉ riêng từ 14 đến 31 tháng 12 năm 2021 đã có 5 người bị tuyên các bản án hết sức nặng nề (Phạm Đoan Trang, Trịnh Bá Phương, Nguyễn Thị Tâm, Đỗ Nam Trung và Lê Trọng Hùng) khiến dư luận quốc tế hết sức bất bình.

Vì các lý do nêu trên, nhằm tôn trọng các quyền hợp pháp của công dân Việt Nam được nêu trong Hiến pháp, các luật quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, cũng như bảo vệ danh dự của Việt Nam trước thế giới, chúng tôi, các tổ chức và cá nhân ký tên sau đây yêu cầu trả tự do cho tất cả các tù nhân chính trị và đồng kiến nghị quý vị làm tròn bổn phận của mình bằng việc:

– Hủy bỏ các Điều 117 và 331 của Bộ luật Hình sự 2015;
– Hủy bỏ (hoặc sửa đổi bằng quy định rõ ràng để không ai có thể hiểu lầm) Điều 109 của Bộ luật Hình sự 2015.

Xin trân trọng cảm ơn.



—–

PETITION 117

To Abolish Three (3) Articles in Vietnam’s 2015 Criminal Code

January 1, 2022

To:

  • Nguyen Xuan Phuc – President of the Socialist Republic of Vietnam; Chairman of the Committee on Judiciary Reform
  • Vuong Dinh Hue — Chairman of the National Assembly
  • All Delegates to the National Assembly

Subject: Request that Article 117 and Article 331 of the 2015 Criminal Code be abolished, and Article 109 be either abolished, amended or modified.

Dear Sirs and Madams,

Exactly forty years ago, in 1982, the Socialist Republic of Vietnam became a signatory to the International Covenant on Civil and Political Rights (ICCPR). Consequently, Vietnam has an obligation to abide by the rules set forth therein, to make it easier for its citizens to exercise those rights which are protected by the Covenant, and to prevent law enforcement from violating those rights. The 2013 Constitution of Vietnam specifically states:

  • “In the Socialist Republic of Vietnam, human rights and the rights of citizens in the political, economic, cultural and social spheres are acknowledged, respected, protected, and guaranteed by the Constitution and the law.” (Article 14.1)
  • “Citizens have freedom of speech, freedom of the press, freedom to seek information, to meet, to form associations, to protest. Their ability to exercise these freedoms shall be encoded by legislations. (Article 25)

The National Assembly has the duty to create laws guaranteeing that citizens can exercise those constitutional rights. These laws have two main requirements. The first is to define the limits of a person’s rights — the laws must spell out precisely what’s not allowed so that there won’t be any confusion. If the laws are too broad or too vague then they won’t comply with Article 2 of the ICCPR. The second requirement is to make clear the consequences for those who violate or obstruct the rights of citizens..

Up to now, the National Assembly has not created any laws with enough specificity to make it easy for citizens to exercise their rights according to Articles 14.1 and 25 of the Constitution with clearly defined limitations therewith. At the same time, it has passed laws that limit citizens’ rights; these laws in fact violate the first requirement stated above: they are too broad and too vague, which have led to serious infractions of international rules and thus have been severely criticized by the UN.

Regarding appropriate punishment, as pointed out in the second requirement, there still are no clear guidelines. This can easily be seen in three Articles in the Criminal Codes of 1999 and 2015. Those articles are so opaque and so ill-defined that they can easily be, and indeed have been, abused by law enforcement to prevent citizens from exercising not only their constitutional rights but also those defined by the ICCPR. As a matter of fact, the people guilty of breaking international laws have been individuals who work in law enforcement and not the citizens whom they have wrongly accused.

Specifically, three Articles that must immediately be addressed are:  Article 79 of the 1999 Criminal Code (1999-CC) equivalent to Article 109 of the 2015 Criminal Code (2015-CC); Article 88 (1999-CC) or Article 117 (2015-CC); and Article 258 (1999-CC) or Article 331 (2015-CC). Because the National Assembly have yet to produce the required statutes related to Article 25 of the Constitution, there is no legal basis for the existence for these three articles at all.

Articles 79 (1999-CC) and 109 (2015-CC) —  “activities aimed to overthrow the people’s government” — are so vague that in the past some 52 people have been convicted for them — three life sentences, two have yet to be tried, and 47 prison sentences with a total of more than 550 years combined. Article 88 (1999-CC), “propaganda against the Socialist Republic of Vietnam,” and Article 117 (2015-CC), “create, store, distribute or propagate information, documents, products to oppose the Socialist Republic of Vietnam” (which is even more vague and much more severe than its 1999 version) have resulted in 59 arrests. Of those, seven are awaiting trial, the other 52 have been sentenced to more than 400 years in prison in total.

But most bizarre are Articles 258 (1999-CC) and 331 (2015-CC). The articles state that  “Whoever abuses the freedom of speech, freedom of the press, freedom of faith and religion, freedom of meeting, association and other freedom of democracy that violate the interests of the State, rights, legal interests of organizations, individuals [victims], shall be given warning, re-educated, detained no more than 03 years, or imprisoned from 06 months to 03 years.” As of today, twenty-three (23) individuals have been arrested for this; of those, eleven (11) have been sentenced to a total of more than 50 years in prison.

These laws are written to restrict the rights afforded by Articles 14 and 25 of the Constitution and therefore violate the ICCPR. The vagueness of Articles 109, 117 and 331 of the Criminal Code has opened up an avenue for law enforcement agencies to trample on the International Covenants on Civil and Political Rights.

Based on the above stated reasons, with the desire to respect the legal rights of Vietnamese citizens as stated in the Constitution and enshrined in international covenants which Vietnam is a signatory, and to protect the reputation of Vietnam before the world — we, the undersigned, respectfully request that all political prisoners be immediately released, and collectively recommend that this government fulfill its governing duties by doing the following:

  • Abolish Articles 117, 331 in the 2015 Criminal Code
  • Abolish (or modify in such a way to eliminate abuse by misinterpretation) Article 109 of the 2015 Criminal Code.

Thank you kindly.

The list of individuals and organizations signing this petition is attached below.

DANH SÁCH CÁC TỔ CHỨC VÀ CÁ NHÂN KHỞI XƯỚNG

TỔ CHỨC:

  1. Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng. Đại diện: Võ Văn Thôn, nguyên Gíam đốc Sở Tư Pháp TP HCM
  2. Ban vận động Văn đoàn độc lập. Đại diện: Nhà văn Nguyên Ngọc
  3. Diễn đàn Xã hội dân sự. Đại diện: TS Nguyễn Quang A
  4. Lập quyền dân. Đại diện: Nhà nghiên cứu văn hoá Nguyễn Khắc Mai
  5. Trung tâm nghiên cứu văn hóa Minh Triết. Đại diện: Nhà nghiên cứu văn hoá Nguyễn Khắc Mai
  6. Diễn đàn Bauxite Vietnam. Đại diện: GS Phạm Xuân Yêm
  7. Câu lạc bộ Nguyễn Trọng Vĩnh. Đại diện: TS Mạc Văn Trang

CÁ NHÂN:

1- Nguyễn Khắc Mai, Hưu trí Hà Nội

2- Nguyên Ngọc, Nhà văn, Hội An, Quảng Nam

3- Lê Xuân Khoa, nguyên GS Thỉnh giảng, ĐH Johns Hopkins, Hoa Kỳ

4- Phạm Xuân Yêm, GS Vật lý, Paris, Pháp

5- Nguyễn Huệ Chi, GS Ngữ văn, Hà Nội

6- Nguyễn Đình Nguyên, TS Y khoa, Australia

7- Phan Hoàng Oanh, TS Hóa Học, Sài Gòn

8- Nguyễn Mai Oanh, Ths Kinh tế Phát triển, Sài Gòn

9- Hoàng Hưng, Nhà thơ, cựu Tù nhân lương tâm (1982-1985), Sài Gòn

10- Đào Công Tiến, nguyên Hiệu trưởng Đại học Kinh tế TP HCM, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng

11- Hồ Ngọc Nhuận, Nhà báo, nguyên Phó chủ tịch MTTQVN TP HCM, nguyên Ủy viên trung ương MTTQVN, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng

12- Nguyễn Quang A, Tiến sĩ Tin học, Hà Nội

13- Nguyễn Nguyên Bình, Nhà văn, thành viên CLB Nguyễn Trọng Vĩnh, Hà Nội

14- Vũ Trọng Khải, Phó GS TS  Nông nghiệp, TP HCM

15- Phạm Đình Trọng, Nhà văn, thành viên CLB Lê 0Hiếu Đằng, Sài Gòn

16- Kha Lương Ngãi, nguyên Phó TBT báo SGGP, ban chủ nhiệm CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn

17- Mạc Văn Trang, Nhà giáo, Sài Gòn

18- Nguyễn Thị Kim Chi, Nghệ sĩ, Đạo diễn, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn

19- Nguyễn Hữu Vinh (Ba Sàm), Hà Nội

20- Hoàng Dũng, PGS TS Ngữ văn, TP HCM

21- Phùng Hoài Ngọc, Thạc sỹ, cựu giảng viên đại học, Hà Nội

22- Trần Bang, Kĩ sư, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn

23- Ngô Kim Hoa, Nhà báo tự do, Sài Gòn

24- Trần Minh Thảo, Viết văn, Bảo Lộc, Lâm Đồng

25- Lê Thân, Nhà hoạt động xã hội , ban chủ nhiệm CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn

26- Phan Trọng Khang, Thương binh 2/4, Hà Nội

27- Võ Văn Tạo, Nhà báo, Nha Trang

28- Trần Tiến Đức, Nhà báo độc lập, Đạo diễn truyền hình và phim tài liệu, Hà Nội

29- André Menras (Hồ Cương Quyết) thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Paris, Pháp

30- Bùi Nghệ, Công dân, Sài Gòn

31- Nguyễn Thị Thanh Bình, Nhà văn, Hoa Kỳ

32- Vũ Ngọc Tiến, Nhà văn, Hà Nội

33- Lại Thị Ánh Hồng, Nghệ sĩ , thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn

34- Hoàng Thị Hà, Hưu trí, Thanh Xuân, Hà Nội

35- Lê Nguyên Hoàng, Nghề tự do, Hà Nội

36- Nguyễn Tiến Dân, Nhà giáo về hưu, Hà Nội

37- Nguyễn Thị Khánh Trâm, Nghiên cứu viên, hưu trí, TP HCM

38- Đỗ Như Ly, Hưu trí, Sài Gòn

39- Hà Dương Tường, Nhà giáo về hưu, Paris, Pháp

40- Phạm Tư Thanh Thiện, Nhà báo, Paris, Pháp

41- Nguyễn Ngọc Giao, Nhà giáo, Paris, Pháp

42- Hoàng Cường, Kỹ sư giao thông, Hà Nội

43- Vũ Mạnh Hùng, Nhà giáo, Hà Nội

44- Nguyễn Xuân Diện, TS Hán Nôm, Hà Nội

45- Nguyễn Trường Thịnh, Nghệ sĩ tự do, Hà Nội

46- Bùi Minh Quốc, Nhà thơ, Đà Lạt, Lâm Đồng

47- Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nhà văn, Hoa Kỳ

48- Tô Lê Sơn, CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn

49- Trần Huy Quang, Nhà văn, Hà Nội

50- Hà Quang Vinh, Hưu trí, TPHCM

51- Nguyễn Đức Tùng, Nhà thơ, Vancouver, Canada

52- Nguyễn Hồng Hưng, Nghệ sĩ thị giác, Sài Gòn

53- Trần Kế Dũng, Australia

54- Nguyễn Văn Tạc, Nhà giáo về hưu, Hà Nội

55- Đinh Đức Long, Tiến sĩ-Bác sĩ, Sài Gòn

56- Hồ Sĩ Quyết, youtube Creator, Nghệ An

57- Nguyễn Thanh Hà, Tả Thanh Oai, Thanh Trì, Hà Nội

58- Phạm Thị Lân, Hạ Đình, Thanh Xuân , Hà Nội

59- Nguyễn Thị Lành, Quảng Xương, Thanh Hóa

60- Cao Vĩnh Thịnh, Nghệ An

61- Tạ Mạnh Hưng, Nghệ An

62- Phạm Đức Nguyên, Phó GS TS

63- Phan Quốc Tuyên, Kỹ sư tin học, Thụy Sĩ

64- Hà Dương Tuấn, nguyên chuyên gia CNTT, Paris, Pháp

65- Trần Hải Hạc, nhà giáo về hưu, Paris, Pháp

66- Tiêu Dao Bảo Cự, nhà văn tự do, Đà Lạt, Lâm Đồng

67- Lê Phú Khải, Nhà báo, ban chủ nhiệm CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn

68- Trần Thế Việt, nguyên Bí thư Thành ủy Đà Lạt, Lâm Đồng

69- Tử Đinh Hương, Nhà giáo, Hà Nội

70- Châu Văn Phận, nguyên Giảng viên Đại học, Sài Gòn

71- Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội

72- Nguyễn Viễn, Kĩ sư, Hải Phòng

73- Lê Quốc Quân, Luật gia, Hà Nội

74- Đặng Bích Phượng, Hưu trí, Hà Nội

75- Trần Thị Băng Thanh, PGS TS Ngữ văn, Hà Nội

76- Phan Tấn Hải, Nhà văn, California, Hoa Kỳ

77- Vũ Quang Việt, nguyên Vụ trưởng thuộc Cục Thống kê Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ

78- Mai Thái Lĩnh, Nhà nghiên cứu văn hoá, Đà Lạt, Lâm Đồng

79- Ngô Thị Hồng Lâm, Hưu trí, Vũng Tàu

Thứ Năm, 30 tháng 12, 2021

Những thông tin TUYỆT MẬT MÀ WIKILESKS CHÔM ĐƯỢC TRÊN MẠNG VỀ QUAN HỆ BÍ MẬT GIỮA LÊ KHẢ PHIÊU, NÔNG ĐỨC MẠNH VỚI TRUNG QUỐC

 NHÂN "NHÀ XUẤT BẢN THẾ GIỚI" XUẤT BẢN CUỐN SÁCH VIẾT VỀ "NHỮNG ĐIỀU TÂM ĐẮC CỦA TBT LÊ KHẢ PHIÊU"; SÁCH IN SONG NGỮ VIỆT-TRUNG

Xin giới thiệu những thông tin TUYỆT MẬT MÀ WIKILESKS CHÔM ĐƯỢC TRÊN MẠNG VỀ QUAN HỆ BÍ MẬT GIỮA LÊ KHẢ PHIÊU, NÔNG ĐỨC MẠNH VỚI TRUNG QUỐC

LÊ KHẢ PHIÊU-NÔNG ĐỨC MẠNH VỚI TRUNG QUỐC

Tài liệu của Wikileaks




Theo ông Hoàng Minh Chính cho biết không ai biết được ai trong Bộ Chính trị đã ký tên vào văn bản bán nước này; BCT Việt Nam đã dấu chuyện này. Sau đây là các diễn biến của vụ bán nước này:

1/Lê Khả Phiêu bị gài mỹ nhân kế, lấy cô Trương Mỹ Vân lúc Lê Khả Phiêu sang thăm Trung Quốc năm 1988 và sinh được một bé gái. Lê Khả Phiêu không dám đem con về vị sợ tai tiếng; Khi Lê Khả Phiêu mất Trung Quốc đã cho con gái Lê Khả Phiêu sang viếng và đi cùng đoàn Đại sứ quán Trung Quốc.

Nhiều lần Trung Quốc gửi Công hàm đòi lấn vùng biển; vào tháng giêng 1999, đồng thời đòi đưa ra ánh sáng vụ này nếu Lê Khả Phiêu không hợp tác và cuối cùng Lê Khả Phiêu đã đồng ý ký văn bản hiến biển vào 30/12/1999…

2/ Ngày 31/12/1999, Phái đoàn Trung Quốc Team Jung Xua, trùm tình báo Trung Quốc sang Việt Nam, gặp kín Lê Khả Phiêu bàn thêm về vấn đề Việt Nam hiến đất…

3/ Tháng 25/2/2000 Lê Khả Phiêu đã phái Nguyễn Dy Niên sang thăm Trung Quốc; Nguyễn Dy Niên cho biết: Lê Khả Phiêu đồng ý việc hiến thêm đất. Trung Quốc nghe tin rất hoan hỷ, mở tiệc chiêu đãi Nguyễn Dy Niên với nhiều cung tần mỹ nữ ăn nhậu cùng bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Tiền Kỳ Tham.

4/Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tiền Kỳ Tham viết thư mật gửi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao muốn gặp nhau tại Thái Lan, khi Ngoại trưởng Trung Quốc thăm nước này. 26/7/2000, Nguyễn Dy Niên đã bay từ phi trường Nội Bài 6 giờ 37 phút sáng sang Thái Lan gặp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc tại Băng Cốc Thái Lan. Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham đưa thêm hồ sơ đòi Việt Nam hiến thêm đất, biển. Trong hồ sơ ghi rõ: Trung Quốc đòi thêm 50 % vũng lãnh hải Vịnh Bắc Bộ, đòi Việt Nam cắt thêm 24.000 km2 vùng biển cho Trung Quốc.

Ngày 28/7/2000 Bộ Chính trị họp kín.

Thứ Tư, 29 tháng 12, 2021

Tư liệu: SỰ THẬT VỀ VIỆC TÊN LỬA SAM3 VỀ BIÊN GIỚI NĂM 1972, BỊ TRUNG QUỐC GIỮ LẠI và GS TRẦN ĐẠI NGHĨA "CẢI TIẾN" TÊN LỬA SAM2 ?

Ngan Kim   

                                     

 




Những ngày này cách đây 49 năm, Mỹ dùng “pháo đài bay” B-52 đánh vào Hà Nội nhằm gây áp lực ở hội nghị Paris, buộc ta phải nhượng bộ đàm phán về cuộc chiến ở Việt Nam. Cả thế giới nín thở hướng về Hà Nội. Kết thúc chiến dịch 12 ngày đêm, 81 máy bay Mỹ bị bắn hạ (trong đó có 34 “pháo đài bay” B-52), buộc phía Mỹ tuyên bố chấm dứt ném bom Bắc Việt Nam, tiến hành ký kết Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Có một sự kiện cho đến bây giờ nhiều người vẫn băn khoăn, đi tìm lời giải bởi chưa có một tài liệu chính thống và không chính thống nào đáng tin cậy về hai vấn đề sau cần được làm rõ:

1. Có đúng năm 1972 Liên Xô giúp ta tên lửa SAM3 chuyển qua biên giới Trung quốc bị giữ lại ở cửa khẩu Bằng Tường ?

2. Giáo sư Trần Đại Nghĩa là người “cải tiến” tên lửa SAM2 để bắn rơi “pháo đài bay” B-52 ?

Trên trang fb của anh Thành Hoàng Vĩnh có đăng bài của Đại tá Nguyễn Đình Hậu, nguyên trung đoàn trưởng e 277 và e 276, người nhận nhiệm vụ sang Baku, thủ đô nước Cộng hòa Azerbaizan để chuyển loại tên lửa SAM3 theo kế hoạch viện trợ quân sự khẩn cấp của Liên Xô

Anh Hoàng Vĩnh Thành là con trai cố Giáo sư Hoàng Minh Giám (người được Chủ tịch Hồ Chí Minh giới thiệu vào Chính phủ lâm thời đầu tiên của nước VNDCCH ngày 30-8-1945) nên có thể coi đây là một tư liệu lịch sử tin cậy.

Được sự đồng ý của anh Hoàng Vĩnh Thành, xin trân trọng giới thiệu bài viết !

----------------

Tháng 6 năm 1972, giữa lúc cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Đế quốc Mỹ lên tới đỉnh cao, Trung đoàn 276 do đồng chí Phạm Sơn và Trung đoàn 277 do đồng chí Nguyễn Đình Hậu làm Trung đoàn trưởng được lệnh sang Baku, thủ đô nước Cộng hòa Azerbaizan để chuyển loại tên lửa SAM3 theo kế hoạch viện trợ quân sự khẩn cấp của Liên Xô.

Việc thành lập 2 trung đoàn ngày ấy được cấp trên ưu tiên tuyệt đối – cán bộ từ kỹ thuật viên các hệ đến cán bộ chỉ huy trung đội, đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn đều là những người có kinh nghiệm chiến đấu được chọn lọc từ các đơn vị tên lửa SAM2, còn trắc thủ và pháo thủ cùng một số nhân viên kỹ thuật khác đều là những sinh viên có sức khỏe tốt, có khả năng tiếp thu tốt được tuyển chọn từ nhiều trường Đại học.

Thứ Bảy, 6 tháng 11, 2021

KẺ THÙ CỦA LIÊN BANG XÔ VIẾT .


Mình hay kể chuyện tiếu lâm Liên xô, nhưng chuyện này là nghiêm túc 100%. Cơ mà tuỳ, các bạn đọc mà thấy buồn cười quá thì cho nó vào dạng tiếu lâm cũng được. Cũng như nhiều người đã cho các tác phẩm của Marx vào hạng mục Viễn tưởng, không có thật thôi.
Lược sử các Lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô
Sau khi Lenin qua đời (1924), người thứ hai trong đảng là đồng chí Trotsky. Nhưng hoá ra đồng chí Trosky lại là một kẻ phản bội. Kamenev, Zinoviev, Bukharin và Stalin lật đổ Trotsky và trục xuất khỏi Liên Xô vào năm 1927.
Nhưng sau vài năm, hóa ra Kamenev, Zinoviev và Bukharin cũng là kẻ thù và là loài sâu bọ. Sau đó đồng chí dũng cảm Heinrich Yagoda bắt họ (1936).
Chưa đầy 1 năm sau, Yagoda bị Yezhov bắt giữ vì làm điệp viên cho kẻ thù (1937). Nhưng sau một năm nữa, hóa ra Yezhov không phải là đồng chí, mà là một kẻ phản bội tầm thường và là tay sai của kẻ thù. Và Yezhov bị Beria bắt (1938).
Sau cái chết của Stalin, mọi người đều nhận ra rằng Beria cũng là một kẻ phản bội. Sau đó Zhukov bắt Beria (1953).
Nhưng ngay sau đó Khrushchev biết được Zhukov là kẻ có âm mưu. Và ông đã đày Zhukov đến Ural, tước mọi quyền hành cho đến chết.
Và một thời gian sau, người ta tiết lộ rằng Stalin là kẻ thù, kẻ phá hoại và kẻ phản bội (1956). Và cùng với ông ta là hầu hết Bộ Chính trị đương thời. Sau đó, Stalin được đưa ra khỏi lăng, Bộ Chính trị và Shepilov, những người cùng hội cùng thuyền với họ, đã bị giải tán bởi các đảng viên trung thực do Khrushchev lãnh đạo (1957).
Nhiều năm trôi qua và các lãnh đạo trẻ hơn phát hiện: hóa ra Khrushchev là một người bốc đồng, bất hảo, phiêu lưu và cũng là kẻ thù của đảng và nhân dân Xô Viết. Sau đó Brezhnev tống Khrushchev về hưu và sống ẩn dật (1964).
Sau cái chết của Brezhnev, mới thấy hóa ra ông là kẻ gây hại và là nguyên nhân của sự trì trệ (1964-82).
Sau đó, có một hai người nữa mà không ai đủ rảnh để nhớ ra, hình như đang làm lãnh đạo thì chết nên không ai nỡ quy tội phản bội (82-85). Rồi một Gorbachev trẻ trung, năng động lên nắm quyền. Và hóa ra toàn bộ đảng là đảng của những kẻ tàn phá và kẻ thù. Gorbachev bắt tay vào sửa chữa mọi thứ ngay lập tức. Cái mà người ta gọi là Cải tổ, Đổi mới, Perestroyka… đó
Thế rồi, cải không kịp, Liên Xô sụp đổ (1991). Và Gorbachev thành ra kẻ tội đồ, là kẻ thù và kẻ phản bội lại tất cả những kẻ phản bội trước đó. ... Rồi Elxin lãnh đạo nước Nga khi về hưu cũng bị quy là kẻ phản bội này nọ. Giờ đến lượt Putin thì chưa thôi chức, nhưng cũng đã thấy trước rất rõ là ai rồi.
Stanislav Sadalsky

Thứ Ba, 31 tháng 8, 2021

TRÍ THỨC VÀ TIẾNG NÓI PHẢN BIỆN

 


Tạ Duy Anh (Lao Ta)

Trong bất cứ xã hội nào, thì bộ phận có học vấn luôn đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với mọi lĩnh vực. Điều đơn giản này thiết tưởng chẳng cần phải nhắc lại. Nhưng thực tế lịch sử luôn khiến chúng ta không được yên lòng, chủ quan với bất cứ nhận định nào.

Số phận của trí thức luôn gắn liền với số phận của những cộng đồng, quốc gia cụ thể, nơi anh ta là thành viên. Trong những xã hội lạc hậu, bảo thủ, trí thức luôn bị dị nghị, bị nghi ngờ, bị lánh xa, thậm chí bị coi thường, bị biến thành kẻ thù nguy hiểm, như chúng ta từng thấy, đang thấy và chắc chắn sẽ còn thấy. Các đấng quân vương, những kẻ độc tài thường đòi hỏi mọi thần dân đều phải nhất nhất tin theo ông bà ta, cấm bàn cãi. Mọi lời ông bà ta ban ra là chân lý cuối cùng, bất khả tư nghị, không ai có quyền nghi ngờ tính đúng đắn tuyệt đối của nó. Trí thức trong những xã hội ấy thường đóng vai trò làm vật trang trí, không có tiếng nói, hoặc quay sang quy phục quyền lực để vinh thân phì gia, chấp nhận làm cái loa cho nó, trở thành những kẻ xu nịnh hèn mạt.

Trong khi đó, trí thức là “kho trí khôn” là “túi càn khôn”, là “mỏ trí tuệ” của những xã hội văn minh, đề cao tiếng nói phản biện. Tại đó, trí thức và giới trí thức không chỉ là những người cung cấp ý tưởng, tư tưởng, các sáng kiến, vạch ra kế sách, can dự vào các chính sách, mà còn giữ vai trò quan trọng trong việc bảo tồn những giá trị tinh thần cao quý như đạo đức, lẽ phải, sự tiến bộ, định hình chiến lược giúp quốc gia hướng tới tương lai.

Vậy trí thức thực chất là ai?

Có khá nhiều định nghĩa thế nào là một trí thức? Theo tiêu chí học vấn và có vẻ cũng dễ được chấp nhận nhất, thì trí thức là người có bằng cấp, có học hàm học vị. Theo tiêu chí công việc, thì trí thức là những người chuyên nghiên cứu, phát minh, sáng chế, quản lý, truyền thụ kiến thức....nghĩa là làm việc bằng cái đầu. Rồi với mỗi chế độ xã hội lại có những định nghĩa khác nhau, theo quan niệm riêng của mình, về trí thức.

Một trí thức lớn (mà tôi không nhớ tên) có một cách nói rất hay, làm nổi bật chân dung của một trí thức. Ông bảo rằng: Người nghĩ ra bom hạt nhân, chắc chắn phải là một bác học.

Nhưng nếu anh ta không thấy trước để cảnh báo về tai họa của bom hạt nhân với nhân loại, thì anh ta chưa phải là một trí thức!”

Một người học đầy mình, có đủ kiến thức đông tây kim cổ nhưng nếu thiếu trách nhiệm với cộng đồng, thiếu đạo đức, vô cảm với nỗi đau đồng loại, thì vẫn chưa phải là một trí thức.

Sự quan trọng của trí thức trước hết bởi họ vốn là những người luôn có óc hoài nghi. Người bình thường, những kẻ ít học, có thể yên phận tin theo số đông, nhưng một trí thức thì không, hoặc không dễ tin theo. Thậm chí anh ta sẵn sàng chống lại tất cả để bảo vệ quan điểm, chính kiến của mình.

Nhưng giá trị đích thực, giá trị lớn nhất của trí thức lại ở chính cái phẩm chất ấy?

Thứ hai, trí thức là những người có tầm nhìn xa, có tư duy sắc bén, nhạy cảm với mọi thay đổi. Họ là những người đoán định được tương lai dựa trên những suy tưởng mang tính triết học.

Nhưng có lẽ quan trọng nhất, trí thức là nguồn ánh sáng dẫn dắt sự phát triển lành mạnh của xã hội. Một xã hội không phát triển, chắc chắn là một xã hội không có tương lai. Nhưng sự phát triển thiếu dẫn dắt, thiếu trí tưởng tượng lại rất dễ gây thảm họa, tạo ra thứ chúng ta gọi là nhân tai, thậm chí còn nguy hiểm cả hơn thảm họa thiên tai, như chúng ta vẫn thấy.

Chính vì những điều đó mà tiếng nói của trí thức luôn vô cùng quan trọng. Nó cần thiết vào mọi thời điểm, mọi không gian quyền lực chính trị, văn hóa, với mọi thể chế xã hội. Trước mỗi vấn đề lớn của quốc gia, liên quan đến hàng triệu người, thì tiếng nói của trí thức càng phải được lắng nghe một cách nghiêm túc và chân thành.

Trên thực tế, thì tiếng nói quan trọng nhất của trí thức thể hiện ở những ý kiến phản biện.