Thứ Năm, 11 tháng 1, 2024

BẠN CẦN BIẾT : MỌI SỰ GHI CHÉP CẦN THEO ĐÚNG TRÌNH TỰ THỜI GIAN TRÁNH "RÂU ÔNG NỌ CẮM CẰM BÀ KIA"!

Matthew Chuong

 


I. DẪN NHẬP

1a) Đọc thấy trên một số báo ghi: "(...) Trương Định đóng quân tại Đám Lá Tối Trời ở làng Gia Thuận, thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang".

Sao, Trương Định lập căn cứ trong ... năm 1976 hả? Bởi vì, quí bạn chú ý, tên gọi "tỉnh Tiền Giang" CHỈ mới xuất hiện từ tháng 2/1976 mà thôi; trước đó ở vùng này theo dòng lịch sử KHÔNG hề có tên gọi "tỉnh Tiền Giang".

Viết đúng phải là "(...) ở làng Gia Thuận, thuộc Gò Công, tỉnh GIA ĐỊNH" (rồi mở ngoặc ghi chú: nay thuộc tỉnh Tiền Giang). Vì, vào năm 1861 khi tướng quân Trương Định lập căn cứ, Gò Công bấy giờ thuộc tỉnh Gia Định đó đa! (sau này, Gò Công còn thay đổi nhiều bận về địa giới hành chánh)

1b) "Đám tang của chí sĩ Phan Châu Trinh, tháng 3 năm 1926, là môt sự kiện gây chấn động trong lòng nhân dân thành phố HCM". Ắt quí bạn thấy sai, ngay lập tức! Ghi đúng, phải là "...trong lòng người dân SÀI GÒN". Đâu phải vì hiện nay gọi "TP.HCM" (đổi tên từ tháng 7/1976), rồi đem cách goi này úp chụp trên dòng thời gian trước đó.

1c) Đọc thấy ghi quấy quá, như ri: "Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, mở ra thời kỳ tự chủ lâu dài cho đất nước. Năm 939, ông xưng vương, đặt kinh đô tại Cổ Loa (huyện Đông Anh, Hà Nội) => Cái rồi, đọc thấy có những ý kiến bàn luận cho rằng Hà Nội đã được chọn là kinh đô từ buổi đầu độc lập! Hả? Bình luận KHÔNG trúng lich sử gì hết!

Bởi vì CỔ LOA, vào năm 939, thuộc Phong Châu, NẰM NGOÀI cương vực của Đại La (khi Lý Thái tổ dời đô về đây, họ Lý đổi tên Đại La thành Thăng Long, giữa thế kỷ 19 gọi là Hà Nội).

Suốt hơn một ngàn năm sau đó, Cổ Loa vẫn không thuộc Hà Nội, mà - đây nói tắt vào thế kỳ 19, 20 cho gần - Cổ Loa thuộc trấn Kinh Bắc, rồi tỉnh Phúc Yên, rồi thuộc tỉnh Vĩnh Phúc (mãi đến giữa thế kỷ 20 này, vào năm 1961, mới sáp nhập Cổ Loa vào Đông Anh của Hà Nội mà thôi).

Thành thử ghi đúng cương vực của địa danh theo thời điểm lịch sử, câu hỏi sẽ là: Vì sao Ngô Quyền, vị anh hùng mở đầu thời kỳ độc lập, không chọn Đại La làm kinh đô?

(ghi chú: Đại La, trước đó, do nhà Đường xây đắp, trở thành trung tâm của An Nam đô hộ phủ)

II. TRƯỚC THỜI PHÂN ĐỊNH "ĐÀNG TRONG", "ĐÀNG NGOÀI"

Lãnh thổ Đại Việt xuôi về phương nam tới Hoài Nhơn là dừng (sau này đổi tên Hoài Nhơn thành Qui Nhơn, rồi thành Bình Định).

Đây, không nói chi li về địa giới hành chánh thay đổi từng lúc, mà đã từng có các cách gọi như: Đạo, Trấn. Chẳng hạn từ Thanh Hoa (Thanh Hóa) trở vào gọi là "Hải Tây" (thời Lê Thái tổ), nếu viết một sự kiện vào lúc đó mà ghi "Thanh Hóa, Trung bộ" là trật, thời bấy giờ đâu có cách gọi "Trung bộ" mà là "Hải Tây".

Rồi, thời Lê trung hưng (vua Lê - chúa Trịnh) còn có cách gọi: Đạo thừa tuyên (hoặc "Thừa tuyên"), Trấn, Phủ... Chẳng hạn có các đạo thừa tuyên Thanh Hoa, Nghệ An, Thuận Hóa, Quảng Nam.

Lưu ý: đất nước bấy giờ không định ra tên chung cho mỗi vùng, chẳng hạn nếu ghi "Nghệ An, Trung Bộ" thì - hiểu đúng đắn về khoa học lịch sử - tưởng đang nói về ... thời kỳ năm 1945 trở đi! (bởi vì cách gọi "Trung Bộ" chỉ xuất hiện vào tháng 3 năm 1945 mà thôi, trước đó trong dòng chảy lịch sử hoàn toàn không có cách gọi "Trung Bộ").

III. THỜI ĐÀNG TRONG - ĐÀNG NGOÀI

* ĐÀNG NGOÀI:

Nói tắt, ở Đàng Ngoài có các Trấn , rồi Phủ ) (riêng Phủ chúa ở Kinh thành gọi là "Phủ Phụng Thiên"), xuôi phía nam có “trấn Thanh Hoa”, “trấn Nghệ An”.

* ĐÀNG TRONG

Sau khi sáp nhập Thủy Chân Lạp vào Đàng Trong, các chúa Nguyễn chưa đặt ra một tên gọi chung cho toàn vùng châu thổ Đồng Nai - Cửu Long. Cũng vậy, chưa đặt ra một tên gọi chung cho miền duyên hải.

Ở Đàng Trong, dùng cách gọi các cấp hành chánh gồm các "Trấn" , "Dinh" , "Phủ" ...

Thành thử nếu ghi một sự kiện xảy ra tại Qui Nhơn, thời các chúa Nguyễn, mà ghi "Qui Nhơn, Trung Bộ" là không đúng với thời điểm lịch sử, mà nên ghi là "Qui Nhơn thuộc miền duyên hải" (ghi chú ở phần V/ Phụ lục, cuối stt này).

Nếu có câu chuyện xảy ra mà ghi tại "Tây Nam Kỳ" thì tưởng... xảy ra sau năm 1832! (vì đến lúc đó mới có tên gọi chung, chính thức, là "Nam Kỳ"), hoặc ghi "tại Tây Nam Bộ" thì còn nhầm lẫn hơn nữa, ắt tưởng xảy ra ... sau tháng 3 năm 1945! (vì tên gọi "Tây Nam Bộ" chỉ "ra ràng" vào năm 1945 mà thôi).

Thay vì "Tây Nam Kỳ", "Tây Nam Bộ"..., cách gọi thích hợp hơn hết, trong giai đoạn các chúa Nguyễn định cõi, là "miền châu thổ Cửu Long" (ghi chú ở phần V/ Phụ lục).

Vào năm 1790, Nguyễn vương (Nguyễn Phước Ánh) chọn Sài Gòn (thuộc Dinh Phiên trấn) làm kinh đô, gọi là "Gia Định kinh".

Sau khi hợp nhứt giang sơn, lấy được Phú Xuân (năm 1801), Nguyễn Phước Ánh quyết định dời kinh đô từ Gia Định ra Phú Xuân, khởi đầu một quốc gia chính thức lấy tên VIỆT NAM.

IV. "VIỆT NAM" - "ĐẠI NAM"

(Mang tên "Việt Nam" 1802-1839, sau đó đổi sang tên nước là "Đại Nam" kéo dài cho đến năm 1945, và trở lại tên "Việt Nam" từ tháng 3/1945 khi thành lập "Đế quốc Việt Nam" với Hoàng đế Bảo Đại và chánh phủ Trần Trọng Kim).

* VUA GIA LONG:

Năm 1808, vua Gia Long thành lập cấp hành chánh cho từng vùng. "Bắc Thành" (北城) có vị Tổng trấn thay mặt vua cai quản từ Ninh Bình trở ra (lần lượt với các Tổng trấn Nguyễn Văn Thành, Trương Tấn Bửu, Nguyễn Huỳnh Đức, Lê Chất).

Có "Bắc" ắt có cách gọi "Nam"?

Không. Mà gọi là "Gia Định Thành" (嘉定城), cai quản toàn bộ châu thổ Đồng Nai - Cửu Long (lần lượt với các Tổng trấn Nguyễn Văn Nhơn, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Huỳnh Đức, trở lại với Lê Văn Duyệt).

Từ Thanh Hoa đến Bình Thuận thì do Kinh Thành Huế trực trị.

* VUA MINH MẠNG:

Năm 1832, lần đầu tiên mới có cách định danh chính thức theo vùng. Gọi là "Kỳ" (), cả thảy có 5 Kỳ:

1 NAM KỲ (gồm châu thổ Đồng Nai, châu thổ Cửu Long), 2 TẢ KỲ (Bình Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định), 3 TRỰC KỲ (Quảng Ngãi, Quảng Nam, kinh đô HUẾ, Quảng Trị, Quảng Bình), 4 HỮU KỲ (Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa), 5 BẮC KỲ (từ Ninh Bình trở ra).

Nếu xét chặt chẽ, vào lúc này cũng chưa xuất hiện cách gọi "Trung Kỳ". Tuy nhiên, "Trực Kỳ - Hữu Kỳ - Tả Kỳ" có thể gọi chung là Trung Kỳ, nằm giữa Nam Kỳ và Bắc Kỳ.

* Vào tháng 3 năm 1945, xuất hiện cách gọi cho từng vùng là "Bộ" (Nam Bộ, Trung Bộ, Bắc Bộ) vào thời chánh phủ Trần Trọng Kim.

Thế chế Việt Nam dân chủ cộng hòa, rồi Cộng hòa XHCN VN hiện nay áp dụng cách goi "Bộ".

Thế chế Quốc gia Việt Nam, Việt Nam Cộng Hòa đổi sang cách gọi "Phần" (Nam Phần, Trung Phần, Bắc Phần).

V. PHỤ LỤC

Như nói trên, ở ĐÀNG TRONG thời các chúa Nguyễn định cõi chưa đặt ra tên gọi chung chính thức, cho từng vùng, về mặt địa giới hành chánh. Chưa có cách gọi "Kỳ", lại càng chưa có cách gọi "Bộ"..., thành thử nếu ghi "Kỳ", "Bộ" là không ghi đúng theo trình tự thời gian trong dòng chảy lịch sử!

Cách gọi thích hợp nhứt là dựa vào ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN. Ở Đàng Trong, bấy giờ, gồm:

- MIỀN DUYÊN HẢI: từ Quảng Bình đến Bình Thuận, với đặc điểm ĐỀU GIÁP BIỂN.

- MIỀN CAO NGUYÊN: theo chế độ tự trị, triều cống cho các chúa Nguyễn.

- MIỀN CHÂU THỔ: gồm Châu thổ Đồng Nai, Châu thổ Cửu Long.

Thuộc miền Châu thổ, có nơi giáp biển nhưng cũng có những nơi nằm trong nội địa (khác với miền Duyên hải là đều giáp biển).

Ta nói, tỉ như "Miền duyên hải" (Đàng Trong), "Miền châu thổ" (Đàng Trong) là rõ rành lắm đa!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét