Mathilde Tuyết Trần
Trong Chương XV – Việc Đánh Dẹp ở Trung Kỳ và
Bắc Kỳ – của quyển Cận Kim Thời Đại trong bộ Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim
chỉ ghi lại vẻn vẹn trong một dòng về Đề Thám như sau:
“Đề
Kiều và Lương tam Kỳ ra thú được ở yên. Cai Kinh bị bắt, Đốc Ngữ ra thú, Hoàng
hoa Thám ở Yên-thế cũng ra thú, được giữ ở vùng ấy, mãi đến năm 1909 mới bị
đánh đuổi, đến năm 1912 mới bị giết….Quan quyền Tổng-đốc Hải-dương là Hoàng Cao
Khải đi đánh dẹp có công, về được chính-phủ bảo-hộ cho lãnh chức Bắc-kỳ
Kinh-lược-sứ.”
Theo lời giới thiệu trên báo chí Việt Nam,
Claude Gendre là cháu nội của Jean Gendre, một người lính trong quân đội viễn
chinh Pháp đã từng chiến đấu ở Việt Nam cùng thời với giai đoạn Đề Thám. Trên
đường đi tìm lại kỷ niệm của ông nội, Claude Gendre đã “vấp” phải
nhân vật lịch sử Đề Thám, làm cho ông say mê tìm tòi, rồi viết thành sách.
Trong khi chờ đợi cuốn sách ” Le Dê Thám -1858-1913– Un résistant
vietnamien à la colonisation francaise ” của tác giả Claude Gendre
xuất bản vào giữa tháng tư năm 2007 tại nhà xuất bản L‘Harmattan (1), với
lời tựa của ông Charles Fourniau, giá bán là 19,50 euros, đã được đặt mua tại
một tiệm bán sách của một thành phố nhỏ, tôi lục lọi trong tủ sách nhà, moi ra
được vài tài liệu có liên quan đến Đề Thám, mà tôi chưa có dịp sử dụng.
Cũng may thay, tôi có dịp được trao đổi trực
tiếp với Claude Gendre, chính ông đã có nhã ý gọi điện thoại cho tôi, nên khi
viết bài này, trong đầu tôi đã có ý thiên vị tác giả.
Ông cho tôi biết, Jean Gendre, nếu không bị
thương và được chuyển về Pháp, có lẽ đã ở lại suốt đời tại Việt Nam. Ý thích
của ông nội, vừa thích con người, vừa yêu mến cảnh, thích từ tiếng nói cho đến
bữa ăn hàng ngày của Việt Nam, đã gây ấn tượng và gợi trí tò mò cho người cháu.
Đến lượt Claude Gendre, sau khi đã qua thăm Việt Nam mấy lần, ông cũng nói với
tôi rằng: “Comme mon grand‘père, je
suis tombé amoureux du Viet Nam” (Giống như ông nội tôi, tôi đâm ra yêu
mến Việt Nam).
Claude Gendre không có vẻ bài bác ý định tôi
dịch cuốn sách của ông ra tiếng Việt, nhưng trong khi chưa có quyết định cụ
thể, vì phải tôn trọng luật lệ bản quyền của tác giả và nhà xuất bản, cho nên
trong phạm vi bài bình luận này, tôi không được phép trích hay dịch nguyên văn
của Claude Gendre viết trong sách.
Cảm giác về thời đại Đề Thám
Ngày
xưa khi lái xe Honda lượn quanh trên con đường Đề Thám nằm trong quận một của
thành phố Saigon, nay là thành phố Hồ Chí Minh, thông từ đường Trần Hưng Đạo ra
bến Chương Dương của rạch Thị Nghè, tôi chỉ biết ngắn gọn, học trong những giờ
Việt sử của trường, rằng Đề Thám chống Pháp nhưng bị quân Pháp tiêu diệt. Thế
thôi, không biết nhiều hơn.
Hôm
nay, khi xem tấm hình lịch sử của các thế hệ cha ông thời đại Đề Thám, tôi chú
ý đến một chi tiết làm cho tôi rất động lòng. Đó là những bàn chân trần, chân
đất, không có giầy dép. Trong khi quân lính thực dân Pháp, mặc quân phục, đội
mũ, mang giầy ống bằng da, trang bị súng gắn lưỡi lê dài nhọn, băng đạn đeo
quanh bụng thì những người anh hùng kháng chiến chống pháp đầu đội trời chân
đạp đất theo đúng cả hai nghĩa, đen và bóng.
Trên
những tấm hình ghi lại những “chiến thắng” của quân đội Pháp, được in và phát
hành thành “cartes postales” bán tự do cho dân chúng, khi bị bắt, những người
kháng chiến, trên mảnh đất quê hương của mình, bị gọi là “giặc cướp” (pirates),
mặc áo vá nhiều mảnh bằng đủ mọi thứ vải, rách rưới, có người không có một mảnh
quần, râu tóc lù xù, ốm yếu lòi xương.
Những
tấm hình người Việt đi lính cho Pháp chặt đầu người Việt chống Pháp. Những tấm
hình đầu người bị chặt, đầy máu, mắt không nhắm, bỏ rọ treo lên cây đầu làng,
làm cho tôi mất ăn mất ngủ, dù rằng ngày tháng trên hình khắc ghi năm 1908, tôi
chưa được sinh ra đời. Những tấm hình người bị đóng cọc ngồi trên đất, trói
chặt hai cánh khủy ra sau, rồi bị thắt cổ vào cọc, chết một cách rùng rợn thê
thảm. Những tấm hình thi thể người bị xử tử xếp thành hàng. Lịch sử không được
viết bằng mực mà bằng máu.
Nhưng
cũng có những tấm hình, may mắn thay, ghi lại những cái nhìn thẳng, kiên quyết,
hiên ngang vào ống kính của kẻ thù đang chụp để giữ làm tài liệu. Không có gì
vô lý cho bằng, những kẻ đi xâm chiếm nước khác, lại gọi những người kháng
chiến chống xâm lăng là giặc. Đó là những tấm hình của giai đoạn “Đề Thám” mà
tôi được xem.
Kèm
theo những tấm hình đầu nghĩa quân của Đề Thám bị chặt đứt, bỏ rọ treo lên cây
và dưới đề tựa “Đầu người treo trên cây không phải là hiếm thấy”, Jean
Ajalbert, kể cho độc giả tờ “Lectures Modernes” vào ngày 10 tháng 9 năm 1903
một mẩu chuyện dựa theo cuốn sách của Dr. Hocquart, dưới hình thức một lá thơ
viết cho một người cháu:
” Sự
dã man châu Á không phải là một câu chuyện thần thoại. Họ hành hạ xác chết.
Người ta đã tìm thấy thi thể của Francis Garnier bị moi tim, da bụng bị cắt,
đầu bị chặt, còn Rivière, hai cổ tay bị chặt đứt. Người ta đồn rằng, họ ăn trái
tim phơi khô, vì họ tin rằng, họ sẽ trở thành can đảm như người anh hùng.
Đầu người treo trên cây không phải là hiếm thấy, hay là những thi
thể bị cây lao đâm xuyên qua miệng, hai chân hai tay bị
chặt đứt, trói chặt bằng dây thừng quấn quanh ngực và cổ như một sợi dây
chuyền, hay là những thi thể bị xâu với nhau như là một que thịt nướng. Cháu có
thể tưởng tượng rằng những sự dã man ấy kích động quân lính. Cũng như thế, phản
loạn hay giặc cướp, không tránh khỏi những cực hình. Họ chịu đựng cái chết với
một sự can đảm lạ thường – kiên quyết.
Chú kể cho cháu nghe một chuyện hành quyết trong bài “một làng ở Tonkin” (Une
campagne au Tonkin): một khúc tre mỏng mảnh, cao khoảng 80 phân, được cắm vào
đất. Theo lệnh ngắn gọn của viên quan, kẻ tử tù quỳ gối trước cọc. Hắn ta bị
trói hai tay vào cọc bằng dây rợ. Cái cọc không chắc chắn, chỉ một cử động nhỏ
là có thể làm trật cái cọc. Nhưng thằng giặc không có một cử động nào.
Cái
hòm được đặt cách kẻ tử tù vài bước, mà hắn ta chỉ cần ném một cái nhìn qua
phía ấy sẽ thấy. Đao phủ bước gần lại, gươm nắm trong tay, với một cử chỉ nhanh
nhẹn cởi nút áo của tử tù, kéo cổ áo xuống thấp, gằn ra phía sau, để phơi trần
cái cổ và hai vai. Đao phủ kéo mái tóc dài ngược lên đầu, để lộ gáy. Người đàn
ông sắp bị chém, không tỏ một cử động phản kháng. Ông ta chịu đựng bàn tay của
đao phủ sửa soạn thong thả, không hấp tấp, xếp đặt tư thế để chém như một nhà
điêu khắc đang nắn một bức tượng, cái đầu cúi xuống, chập vào ngực, hai đầu gối
phải xòe doãi ra, với một sự chấp nhận bình thản làm xé trái tim người chứng
kiến. người đao phủ xắn ống quần rộng lên tận đầu gối, nhổ một cụm nước bọt đỏ
tươi mầu trầu, quét một vệt nước bọt đỏ lên gáy kẻ tử tù để làm dấu chỗ chém.
Quan
viên hất tay ra lệnh. Đao phủ nắm thanh gươm bằng hai tay, lưỡi gươm rộng bản
lấp lánh sáng như một nửa vòng tròn trong không gian, cái đầu bay lên rồi lăn
trên mặt đất, trong khi cái thân gục xuống phía trước, một dòng máu bắn ra từ
các mạch máu bị cắt. Trong khi đao phủ chùi thanh gươm đẫm máu trên mặt cỏ, một
người lính cắm lên chỗ hành quyết một tấm mộc nhỏ ghi bản án, rồi nắm chùm tóc
của cái đầu đặt vào một cái rọ. Cái đầu bị chém đặt trong rọ, theo lịnh, sẽ
được treo trên cây ở đầu làng bị cướp, để làm gương… “
Sau
đó, Jean Ajalbert, kể thêm về thực trạng của ông vào năm 1903:
“…. Trước
tiên, trong đám bồi phòng (boys), dấy lên mầm mống bóc lột người Âu Châu. Thật
là định mệnh. Chúng ta đến một nước xa lạ, không hiểu một chữ. Đám bồi lợi dụng
thế yếu. Chúng ta thuê bất cứ một ai làm bồi mà không có chỉ dẫn, bảo đảm. Làm
sao tìm bắt được những thằng vô tích sự này sau khi nó đã ăn cắp ? Tại Pháp,
chúng ta không kêu gào “ăn cướp” khi một người hầu phòng hút trộm một điếu
thuốc lá của chúng ta. Nhưng ở đây, chúng ta kêu to lên “ăn cướp” chỉ vì một
mẩu thuốc lá: đó là điều cần thiết để phòng ngừa ngày mai chúng nó sẽ lấy luôn
cả hộp…“
Dưới
đề tựa ” Qualités et défauts des Annamites” trong cuốn sách Les Annamites,
(Challamel, 1906) tướng thực dân E. Diguet viết những dòng khinh khi miệt
thị như sau:
“…Để
có được một huân chương, một mảnh bằng với con dấu đỏ, một chức quan tước huênh
hoang, một địa vị làm cho chúng trở thành ngôi sao, chúng sẽ sẵn sàng phát huy
cống hiến tất cả mọi tiềm lực và sức kiên trì dai dẳng trong nhiều tháng, nhiều
năm. Vậy thì chúng ta có gì đâu phải than van ? Cái khuyết điểm đó của bọn bị
bảo hộ giao trong tay chúng ta một công cụ đô hộ tuyệt vời…“
Trong
bài ” Chiến lược của quân cướp” (La tactique des pirates) với câu nhập đề “Mọi
người quân nhân đã từng chiến đấu ở Vietnam đều công nhận các chiến lược đã
được quân cướp sử dụng từ năm…1891” đăng trong tờ La Revue des Deux Mondes
ngày 15 tháng 11 năm 1891, một tác giả vô danh đã có những nhận định để diễn tả
các căn cứ kháng chiến thời Đề Thám như sau:
“… Mỗi
một băng cướp xây dựng căn cứ để tàng trữ thuốc phiện, đạn dược, thực phẩm, kho
sản xuất đạn, sửa chữa súng ống, cho đàn bà ẩn náu, nuôi gia cầm súc vật, tóm
lại, mọi phương tiện để sống và chiến đấu cần thiết trong một phần đất hiểm
trở, khó khăn nhất, hầu như bất khả xâm phạm. Thí dụ như những căn cứ ở Kẻ
Thượng, phía bắc của Chợ Mới, hay là ở Núi Bà Do*; căn cứ cũ của Cai-Kin* trong
núi Đồng Nai, hay căn cứ mới của băng Yên Thế, về phía Bắc của Hu-Thué*, vân
vân.
Địa
điểm chính xác của những căn cứ này thì chỉ có bọn cướp mới biết. Muốn thâm
nhập nơi đây phải len lỏi đôi khi qua những khu rừng rậm hoang dã bằng những
vết mòn nhỏ chỉ là vết của thú rừng, chui vào những hành lang chật hẹp tạo bằng
hai vách đá gra nít, trèo qua những đèo ải chỉ đủ cho một người lọt qua, hay là
đi hàng giờ trong rừng, dọc theo một lòng suối, để tìm ra một vết dấu kín trong
bụi rậm dẫn đến nơi ẩn náu …
Lãnh
tụ những băng cướp không ngần ngại thành lập, đôi khi, những tạm cứ thứ hai
trong các làng, ngay cả trong của vùng đồng bằng, nơi mà dân chúng hoàn toàn
ủng hộ chúng: Cao-Thuong, Luoc Ha, Yên Thế, vùng của đảo Hai Sông, vùng núi Ba
Vì, vân vân…dùng để làm nơi cư trú và kho chứa…”
Mới
đây, khi vào xem triển lãm trong Bảo Tàng Quân Đội tại Paris, tôi dừng chân lại
trước một tủ kính trong một góc tường, ngắm đi ngắm lại mãi, không biết thật
hay giả, hai bộ quần áo đại triều của Nguyễn Tri Phương, mà người Pháp còn đang
trưng bầy là chiến lợi phẩm cho du khách coi chơi.
Bao
nhiêu là đồ cổ và những hiện vật lịch sử của Việt Nam đã bị đem qua Pháp giữ
làm của riêng, thỉnh thoảng một số vật được đem bán đấu giá (nếu có tiền tôi đã
ráng mua lại một món để dành cho con cháu!).
Đề Thám của Claude Gendre
Cảm
giác đầu tiên khi cầm cuốn sách là tôi cám ơn tác giả trước hết vì cái tựa đề.
Cái tựa đề của cuốn sách này đã trả lại danh dự của một người Việt Nam và khẳng
định chỗ đứng lịch sử của một người anh hùng Việt Nam trong văn chương Pháp. Vì
Đề Thám không phải là một thằng giặc theo nghĩa cướp của giết người, hay cướp
nước của ai khác, như nhiều tác giả người Pháp đã viết nhan nhản, mà Đề Thám là
một người không chịu cúi đầu khuất phục, chống lại sự đô hộ của chính quyền
thực dân Pháp trong thời gian ấy.
Cuốn
sách của Claude Gendre có 12 chương, dài tổng cộng khoảng 200 trang, được minh
họa bằng nhiều hình ảnh và bản đồ vẽ tay. Một số những hình ảnh này đã được phổ
biến tự do trên mạng Internet hay in trong sách. Claude Gendre là người thích
chú ý đến nhiều chi tiết và ông để ý tìm những hình ảnh lịch sử thích hợp. Bố
cục của sách được viết theo thời gian của sự kiện và theo lý luận của dòng tư
tưởng. Điểm mạnh của Claude Gendre là đã tìm ra một số sử liệu nguồn gốc Pháp
mà người Việt Nam, và các nhà sử học chuyên nghiệp Việt Nam, không để ý đến
cũng như không bỏ công sức tìm kiếm.
Bốn
chương đầu của cuốn sách giúp cho độc giả người Pháp có cái nhìn tổng quát,
ngắn gọn về chủ đề, mà trong đó Claude Gendre lướt qua bối cảnh chính trị và
quân sự của thời đại Đề Thám khi ông sinh ra đời, địa thế chiến lược của vùng
Yên Thế, tông tích thật sự của Đề Thám, và tình hình Việt Nam sau khi vua Tự
Đức qua đời ngày 17 tháng 7 năm 1883
Claude
Gendre nhắc lại cô đọng các thời điểm 1624 khi Giáo Sĩ A-Lịch-Sơn-Đắc-Lộ (
Alexandre de Rhodes) sang truyền đạo tại Việt Nam, giai đoạn Gia Long thâu phục
giang sơn với sự giúp đỡ của Giám Mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine), giai đoạn
của tên buôn bán võ khí Jean Dupuis (Đồ-Phổ-Nghĩa), hống hách ngang tàng, muốn
dùng thuyền ngược sông Hồng Hà để chở võ khí bán cho Tàu và việc hai sĩ quan
Pháp, Francis Garnier và Henri Rivière tử trận tại miền Bắc. Tuy ngắn, nhưng
Claude Gendre đã thể hiện ngay tình cảm của ông qua cách nhìn, cách đưa ra vấn
đề và sự nhận xét đúng đắn về sự cấm truyền đạo Thiên Chúa trong thời điểm ấy.
Trong
chương hai gồm có bẩy trang Claude Gendre đi tìm lại tông tích thật sự của Đề
Thám và ý nghĩa của tên gọi “Đề Thám”. Claude Gendre trình bầy năm dữ liệu khác
nhau.
Dữ
liệu thứ nhất tìm được trong một bản báo cáo vào tháng 9 năm 1908 của Lacombe,
một nhân viên quản lý, rằng cha của Đề Thám là một quan Án ở Làng Trung, tỉnh
Quảng Yên, huyện Yên Thế, chết trong tù, bỏ lại một đứa con trai tên là Giai Thiêm.
Đó chính là Đề Thám sau này, một người trăn châu ở làng Ngọc Cúc, gần Làng
Trung, có vợ và có một con trai tên là Cá Trong*.
Dữ
liệu thứ hai là dữ liệu cho chính Đề Thám tự viết trong một lá thơ gởi cho Sở
Quản Lý Cư trú Cao cấp của Tonkin ngày 5 tháng 8 năm 1908. Trong lá thơ
này, Đề Thám trình bầy rằng ông nội của ông xuất thân là người Trung Quốc, chết
khi người vợ có thai được ba tháng. Bà lấy chồng thứ nhì, người quê ở Yên Thế.
Đứa trẻ đó, cha của Đề Thám, về sinh sống tại làng Ngọc Cúc, là nơi mà Đề Thám
ra đời. Lá thơ này không có đề tên họ cũng như ngày tháng.
Nhưng
theo Alfred Bouchet, một người lính đóng ở Nha Nam*, Bắc Giang trong suốt bốn
năm, có chụp ảnh chung với Đề Thám, và theo lời kể của một người già tên Hoan,
thì Đề Thám là con của một người tên Quát, gọi là Phó Quát, làm lính cho Cai
Ngui*, tên của Đề Thám là Giai Thiêm, sinh vào cuối năm 1858. Cũng theo
Bouchet, Đề Thám không biết đọc biết viết, chăn trâu và làm công cho trưởng
làng tên là Ba Phuc*, sức khỏe như sức của bốn người, ba trâu, lấy vợ tên là
Thi Tao* và sinh một con trai tên là Cá Trong. Năm Hàm Nghi thứ nhất (1884)
Giai Thiêm được 25, 26 tuổi đã bắt đầu đánh phá quân Pháp, lấy tên là Dê
Dzuong*, trở thành “một kẻ thù cứng cựa nhất kể từ khi chúng ta chiếm đóng”
(báo cáo ngày 27.04.1909 của tướng Geil lên Bộ Chiến Tranh và Thuộc Địa). Khi
về chiến đấu dưới trướng của Cai Kinh* (Hoàng Đình Kinh), Giai Thiêm được phong
làm Dôc Binh* và được Cai Kinh* nhận làm con nuôi, đặt tên là Hoàng Hoa Thám.
Sau khi Cai Kinh qua đời năm 1888, Ba Phuc* nhận Hoàng Hoa Thám làm con nuôi và
phong cho chức Dê Dôc*. Như thế, cái tên le Dê Thám*, thâu ngắn của Dê Dôc*
Hoàng Hoa Thám ra đời. Cuốn sách của Alfred Bouchet đã cung cấp cho Claude
Gendre rất nhiều trích dẫn cơ bản về số phận của Đề Thám.
Sau
đó Claude Gendre tả về địa thế chiến lược của vùng Yên Thế, một nơi núi rừng
hiểm trở, với nhiều ngọn đồi cao khoảng 100 đến 150 mét, cây cối chằng chịt,
trên mặt đất nóng ẩm đầy rẫy những rắn, những con đỉa hút máu, sâu bọ, kiến
lửa, trăm chân và cào cào châu chấu, rồi những con cọp, beo, sói rừng, mèo
rừng, bò rừng, nai…rình rập, thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ ẩn náu và hậu
cần, vì Yên Thế chỉ cách Hà Nội 60 cây số và gần vựa thóc của thung lũng sông
Hồng. Đề Thám xử dụng cách đánh của những đảng cướp: dụ quân địch vào một nơi
đã giăng bẫy sẵn để giết, nhưng nếu bị tấn công thì đột nhiên biến mất, không
để lại dấu vết. Năm 1889 Ba Phuc* xây dựng thành Cao Thuong*, Đề Thám xây thành
Huu Thuê* (hay Hu Thué*).
Tình
hình Việt Nam sau khi vua Tự Đức qua
đời ngày 17 tháng 7 năm 1883 được tác giả trình bày ngắn gọn với sự kiện vua
Hàm Nghi lên nối ngôi. Trong chương này, tôi tìm thấy một sự hài lòng vì tác
giả đã nhìn nhận những đòn khiêu khích trịch thượng của tướng Pháp de Coursy
đối với triều Nguyễn, trong mục đích muốn xâm nhập cấm thành để bắt cho được
Tôn Thất Thuyết. Hậu quả ra sao, chúng ta đọc sử Việt Nam đã biết, Tôn Thất
Thuyết phát động phong trào Cần Vương, vua Hàm Nghi bị bắt và bị đày đi
Algerie.
Đọc
xong bốn chương tôi tiếc rằng tác giả không đưa ra nguyên nhân, dù chỉ một vài
hàng cảm tưởng, tại sao triều đình Huế đã ký hết hiệp ước này đến hiệp ước
khác, mất dần lãnh thổ và quyền lợi cho Pháp, cũng như tại sao chính quyền Pháp
muốn chiếm Việt Nam làm thuộc địa, để cho đến năm 1884, ngay chính nhà sử học
Trần Trọng Kim đã viết trong Việt Nam Sử Lược:
“…Ngài
(vua Tự Đức) mất ngày 16 tháng 6 năm Quý Mùi (1883), trị vì được 36 năm, thọ 55
tuổi, miếu hiệu là Dực Tông Anh Hoàng Đế. Bản triều nhà Nguyễn truyền ngôi đến
hết đời vua Dực Tông thì mất quyền tự chủ. Nước Nam từ đó thuộc về nước Pháp
bảo hộ. Nghĩa là ngôi nhà vua tuy vẫn còn, nhưng quyền chính trị phải theo
chính phủ Bảo Hộ xếp đặt.
…Hòa
ước ký năm Giáp Thân là năm 1884, là hòa ước của Triều đình ở Huế ký với nước
Pháp công nhận cuộc bảo hộ của Pháp và chia nước ra làm hai khu vực là Trung Kỳ
và Bắc Kỳ. Tuy hai kỳ cũng thuộc về quyền bảo hộ của nước Pháp, nhưng mỗi kỳ có
một cách cai trị khác. Về sau dần dần hòa ước năm 1884 cũng mất cả ý nghĩa, và
thực quyền về chính phủ bảo hộ hết cả. Triều đình ở Huế chỉ giữ cái hư vị mà
thôi.”
Nam
Kỳ Lục Tỉnh đã mất từ năm 1867, Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử vì không
giữ nổi ba tỉnh phía Tây đất Nam Kỳ. Bắc Kỳ và Trung Kỳ bị “bảo hộ” năm 1884.
Thế là chính sách của Pháp chiếm đoạt toàn lãnh thổ Việt Nam làm thuộc địa đã
hoàn tất: người ta chỉ còn nói đến Tonkin, Annam, Cochinchine và Indochine !
Bắt
đầu từ chương năm Claude Gendre đi vào những hoạt động quân sự và mục đích
tranh đấu của Đề Thám. Trong tám chương, phần cốt của cuốn sách, tác giả cung
cấp cho người đọc những dữ liệu chưa được viết trong sử sách tiếng Việt một
cách chi tiết, vẽ lên một cuộc đời đầy sôi động và cái chết bi thảm của Đề
Thám.
Kể
từ Hịch Cần Vương ra đời, kể từ năm 1885 trở đi, có nhiều hoạt động chống Pháp
lẻ tẻ tại nhiều nơi. Lực lượng của Đề Thám vào tháng chín 1889 gồm khoảng ngàn
người trang bị với khoảng 500 khẩu súng.
Doi
Van*, một lãnh tụ kháng chiến của vùng đồng bằng ra đầu hàng quan Khâm lược
Hoàng Cao Khải vào tháng 3 năm 1890, sau đó lại quay trở về Yên Thế tiếp tục
tham dự phong trào Cần Vương, nhưng đến tháng mười lại ra đầu thú, nhưng bị
Pháp chặt đầu tại quảng trường Paul Bert tại Hà Nội, đầu phơi trên cây còn xác
thì vất xuống sông Hồng.
Hai
tướng Pháp, Godin và Godard, được lệnh đi đánh dẹp Ba Phuc* và Đề Thám. Ngày 22
tháng 12 năm 1890 tướng Winckel-Mayer đem 600 quân và 4 đơn vị pháo binh tấn
công nhưng cũng không thắng hơn. Ngày 11 tháng 1 năm 1891 tướng Frey đem 1.300
quân tấn công, quân Đề Thám biến mất trong rừng. Cho đến năm 1894 các cuộc đánh
nhau giữa Đề Thám và quân Pháp tiếp diễn.
Chương
sáu diễn tả sự “đầu hàng” của Đề Thám. Quân Pháp mỏi mệt vì con hùm xám Yên Thế
luôn luôn thoát khỏi mọi sự tấn công của quân Pháp. Tướng Galliéni bèn giao
trách nhiệm lại cho Tổng đốc Lé Hoan*, con nuôi của quan Kinh lược Hoàng Cao
Khải, kẻ thù không đội trời chung của Đề Thám. Lần lượt, một số các lãnh tụ ra
đầu hàng, trong đó có Phu Dang Phu*, tức Ba Ky*, đồng đảng của Lương Tam Kỳ.
Ba
Phuc*, đã 67 tuổi, về đầu hàng ngày 15 tháng 2 năm 1894. Trong khi Ba Phuc*
tưởng rằng Đề Thám sẽ cùng về hàng với mình, thì trái lại, Đề Thám lại đứng
trên quan điểm rằng sự đầu hàng của Ba Phuc* giải thoát cho Đề Thám mọi nghĩa
vụ ràng buộc với ông ta. Quân của Ba Ky* và Ba Phuc* đi theo Đề Thám, người trở
thành lãnh tụ cầm đầu của phong trào Cần Vương tại Yên Thế.
Trong
một buổi gặp mặt tại Luoc Ha*, nơi ở của Ba Phuc*, ông ta mời trà Đề Thám. Đề
Thám đưa tách trà cho người hầu của Ba Phuc* uống, người này lăn ra chết sau
khi uống xong tách trà. Lần sau, Ba Phuc* đến nhà Đề Thám. Hai người ngủ chung
trong một căn, gần sáng Ba Phuc đặt một hộp thuốc súng dưới gậm giường của Đề Thám,
châm ngòi lửa, rồi trốn ra. Đề Thám thoát chết, nhưng cho vợ con mặc đại tang
giả vờ đưa quan tài đi. Quân của Muselier tưởng là đã thành công. Nhưng ngày 17
tháng 9 năm 1894 quân của Đề Thám bắt được hai người Pháp tên là Logiou và
Chesnay. Qua trung gian của Giám Mục Velasco, Đề Thám thương lượng với Toàn
quyền tạm thời Chavassieur các điều kiện “đầu hàng” và trả tự do cho Logiou và
Chesnay. Đề Thám, gia đình và đoàn quân của ông định cư tại Phon Xuong*.
Ông
không được yên lâu, vì cuối năm 1895 tướng Galliéni gởi tối hậu thư đòi Đề Thám
ra đầu hàng vô điều kiện, rồi đem quân tấn công Phon Xuong*, một lần nữa, Đề
Thám biến mất trong núi rừng Yên Thế.
Sau
khi Phan Đình Phùng tử trận ngày 28 tháng 12 năm 1895 thì Đề Thám coi như trở
thành thủ lãnh kháng chiến duy nhất của phong trào Cần Vương.
Toàn
quyền Armand Rousseau qua đời vì bệnh tật ngày 11 tháng 12 năm 1896, Paul
Doumer đến thay thế.
Trong
chương bẩy Claude Gendre diễn tả ngắn sự gặp gỡ của Kỳ Đồng và Đề Thám, và sau
đó, một giai đoạn chủ hòa của Đề Thám khi Paul Doumer làm Toàn Quyền ở Hà Nội.
Nếu đã xác định rằng Đề Thám không biết đọc biết viết, thì lá thư ngày 13 tháng
11 năm 1897 của Đề Thám gởi cho Doumer để xin giảng hòa, phải do một người khác
viết. Vì thế, tôi thấy những câu lịch sự sáo ngữ trong lá thư này không có gì
là quan trọng. Nhưng các điều kiện chủ hòa do Đề Thám đưa ra thật là thú vị và
chứng tỏ rằng Đề Thám là một người biết giá trị và sức lực của mình. Cũng vì
thế mà tôi không tin rằng Đề Thám và 25 thủ hạ đã quỳ gối lạy Lé Hoan* ba lần.
Đề Thám, năm đó 39 tuổi, cao 1,65 m, con mắt đen có cái nhìn sắc bén. Đề Thám
đóng đô ở Phon Xuong* và có năm vợ, nhưng chỉ có bà vợ thứ ba tên là Thi Nho*
là ông quý nhất. Bà Thi Nho* hạ sinh một gái tên là Thi Thé* (1900) và một trai
(1908).
Cá
Trong*, 22 tuổi, con của bà vợ cả tên là Thi Tao*, cùng với hai người con nuôi
của Đề Thám tên là Cá Rinh*, Ca Huynh*, cùng với 50 người đàn ông khác và gia
đình cùng sinh sống với Đề Thám trong nông trại chiến lũy ở Am Dong*.
Cơ
sở sinh sống của Đề Thám dần dần phát triển, yên ổn.
Nhưng
năm 1902, một bác sĩ tên là Gillard, vì lợi ích cá nhân, đã huy động báo chí
lên án Đề Thám và vu khống nhiều chuyện để gây khích động trong dư luận và
guồng máy cai trị của Pháp. Nhiều vụ cướp bóc đã xẩy ra và quy tội cho Đề Thám.
Trong
chương tám Claude Gendre viết ngắn về phong trào Đông Du, ảnh hưởng của Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh, việc Cường Để sang Nhật cầu viện, và chỗ đứng của Đề
Thám trong các mối quan hệ này.
Nhưng
các chương chín, mười và mười một là những chương then chốt của cuốn sách, cung
cấp nhiều chi tiết từ các hồ sơ lưu trữ và sách vở của Pháp.
Tác
giả đã bỏ công viết tỉ mỉ về giai đoạn khó khăn nhất của Đề Thám, khi chính
quyền thuộc địa, với sự trợ giúp và thừa hành đắc lực của các quan đại thần
triều Nguyễn, như Hoàng Cao Khải, Lê Hoan, bắt đầu từ năm 1908, dốc sức cương
quyết tiêu diệt Đề Thám và toàn bộ nghĩa quân Yên Thế, vì Đề Thám, không những
chỉ là một tay súng nông dân-kháng chiến bám trụ kiên trì, ẩn hiện như
ma trơi, mà trong nhiều năm tranh đấu với Pháp, Đề Thám đã đạt được một
tầm mức chính trị quan trọng và có sức quy tụ người cùng chí hướng.
Vụ
Hà Thành đầu độc, dù thất bại và Đề Thám bị thiệt hại nhân sự nặng nề, 13 người
bị chặt đầu, 4 người đi đày khổ sai chung thân, 26 người đi đày từ 5 đến 20
năm, 10 người vô tù, nhưng đã gây được xôn xao trong dư luận.
Quân
Pháp treo giải thưởng cho cái đầu của Đề Thám và bắt đầu một chiến dịch tảo
thanh Đề Thám với nhiều mũi nhọn tấn công liên tiếp từ đầu năm 1909. Chính
trong chiến dịch này, lần tấn công Don Dang* vào ngày 12 tháng 2 năm 1909, Jean
Gendre, ông nội của Claude, bị thương cùng với 15 quân lính khác, sáu lính tử
trận.
Trong
vòng năm năm, từ 1908 đến 1913, vợ, con, thân quyến, nghĩa quân của Đề Thám lần
lượt bị giết, bắt sống, đi đày, chặt đầu treo rọ trên cây. Một số thủ lãnh mệt
mỏi ra đầu hàng quân địch. Mất người vợ ba, cũng là một người bạn chiến đấu (Bà
Đặng thị Nhu, theo sử liệu Việt Nam), Đề Thám cô đơn, len lỏi trong rừng Yên
Thế, với vài cận vệ thân tín. Alfred Bouchet theo đuổi Đề Thám bén gót.
Trong
chương mười hai, tình huống sự thảm sát Đề Thám đã được Claude Gendre diễn tả
chi tiết. Đó là giai đoạn mà Toàn quyền Albert Sarraut bắt đầu nắm quyền chính
vào ngày 15 tháng 11 năm 1911 tại Việt Nam.
Đến
cuối năm 1912 quân đội thực dân biết rằng núi rừng Yên Thế che chở cho con hùm
xám Yên Thế, nên không thể dùng chiến lược đem lực lượng quân sự tảo thanh và
đánh thẳng được mà phải dùng cách đánh lén đánh ngầm bằng lực lượng cảnh sát cơ
sở.
Jules
Bosc, Giám Đốc về Quan Hệ Chính Trị của Phủ Toàn Quyền, tìm sự góp sức của chủ
đảng cướp Trung Hoa cũ – Lương Tam Kỳ – nhưng hắn ta đã già, cho nên giao cho
con trai là Lương Văn Phúc lãnh nhiệm vụ, đang làm tri huyện trong vùng kiểm
soát của cha. Ba thằng giặc cướp người Tàu gốc Guang Xi* (Tsan Tac Ky*, 51
tuổi, Ly Seng Wa* 37 tuổi và Tsan Fong Tsan*, 28 tuổi) nhận lệnh bắt sống Đề
Thám để giải về đồn gần nhất, đồn Kep* hoặc đồn Nha Nam*.
Một
tên lính cũ của Đề Thám đã về đầu hàng quân Pháp tên là Ly Bac*(còn có tên là
Chánh Tây) chơi nước đôi, phản bội Đề Thám, đưa bọn Tàu về chỗ Đề Thám. Chúng
tìm cách đến gần Đề Thám, giả đò sẽ đem lại trang bị vũ khí và thề thốt trung
thành với Đề Thám, trong khi quân Pháp cũng giả vờ bỏ ý định săn đuổi Đề Thám.
Ông mắc mưu, cho ba tên phản bội người Tàu ở gần. Trong mọi tình huống chiến
tranh, kẻ thù trước mặt không nguy hiểm bằng kẻ phản bội kề cận bên mình !
Vì
một sự sơ hở của Bouchet mà Ly Bac* biết được ý định của ba tên phản bội, bèn
báo động Đề Thám. Đề Thám nói với thủ hạ: “phải hạ ba cây cản trở chúng ta,
trước hết là cây lớn nhất”, ngầm ý sẽ tiêu trừ ba tên Tàu, nhưng Tsan Fong Tsan
hiểu tiếng Việt, chúng bèn quyết định ra tay trước.
Khoảng
năm giờ sáng ngày 10 tháng 2 năm 1913 chúng xông vào chỗ ngủ của Đề Thám, Đề
Thám đang ngủ bị tấn công bất ngờ, thức dậy, nhưng không kịp trở tay bị chém
chết bằng những nhát cuốc bổ vào đầu. Hai người cận vệ thức giậy chạy vào, cũng
bị bọn Tàu bắn chết.
Sau
đó chúng chặt đầu Đề Thám, xẻo tai hai người cận vệ, đem theo ba khẩu súng về
Chợ Gỗ nộp cho Bouchet. Bouchet đi với cận vệ đến tận nơi thảm sát để xác định
sự việc. Thi thể cụt đầu của Đề Thám bị hành nhục nặng nề, gan, mật bị moi. Tên
Ly Bac* moi mật Đề Thám, phơi khô, lận trong giây nịt quần để ngâm trà uống.
Bouchet ra lệnh chặt đầu hai người thủ hạ thân tín của Đề Thám, để mang cả ba
đầu về phơi ở chợ Nhã Nam, còn thân thể cả ba người bị đốt cháy, để tránh thờ
phượng anh hùng. Lương Văn Phúc được thưởng 20.000 đồng, Lương Tam Kỳ được
thăng Đề Đốc. Ly Bac* được thưởng một mảnh ruộng. Ba thằng Tàu giết người được
thưởng tiền rồi đi về Thái Nguyên.
Đề
Thám, 55 tuổi đời, người đã làm cho quân Pháp điêu đứng mấy chục năm trời,
không chết vì thua trận, mà chết vì bị phản bội.
“Ở đây là đất ông Đề,
Tây vô thì có, Tây về thì không.”
Trong
những dòng sách sử, người đọc không chỉ tìm thấy những dữ liệu, ngày tháng năm
hay địa danh, hoàn toàn khách quan, mà nhận thấy ngay con người viết sử, lấp
lánh qua nhiều nét nhân cách đặc biệt tiềm ẩn trong văn. Qua Việt Nam Sử Lược,
Trần Trọng Kim tỏ ra mình là người buông xuôi theo thời thế, chấp nhận mọi hoàn
cảnh vì tự lượng không có sức để thay đổi. Qua Đại Việt Sử Ký Toàn Thư các tác
giả chép sử “chép” đúng theo quân quyền, lạnh lùng, theo lệnh của người cai trị
nước. Qua Hoàng Lê nhất thống chí, được ghi nhận là một cuốn lịch sử tiểu
thuyết, Ngô Thời Chí bộc lộ nhiều tình cảm, không chỉ viết một chiều, trung
thực, giúp người đời sau hình dung được hoàn cảnh lịch sử của những thế kỷ xa
xưa. Qua “le Dê Tham”, Claude Gendre cũng đã chọn một chỗ đứng cho mình: ông là
người bênh vực, khâm phục và thương cảm Đề Thám. Dù cuốn sách của ông, trực
tiếp, không phải là một “bản án chế độ thực dân Pháp”, nhưng người đọc nhận
thấy những bất công của thời kỳ thuộc địa qua ngòi bút của Claude Gendre. Tuy
có thiếu sót, theo thiển ý của tôi, nhưng cuốn sách ” Le Dê Thám” là một cuốn
sách quý, giúp cho người Việt Nam có thêm một nguồn tham khảo đáng tin cậy.
Tuyết
Trần, France 2007
Nguồn: vietsciences.free.fr
Phụ chú:
1)
Rất nhiều tên địa danh và tên người trong sách được viết không có bỏ dấu, hoặc
thay đổi dấu, thí dụ như Cá Rinh hay Ca Rinh, cho nên tôi phải ghi chú bằng dấu
*, và giữ nguyên cách viết của tác giả, vì không thể đoán mò, hay tự sửa lại
được, thí dụ như tác giả viết là Cá Trong, thì tôi phải để nguyên như thế, tuy
rằng tôi thầm nghĩ rằng: Cá Trong hay là Cả Trọng ?!
2) YÊN THẾ
là
một huyện ở phía bắc tỉnh Bắc Giang, có sông Sói, sông Thương chảy qua, diện
tích gồm 301 km2, trong đó có 14 nghìn ha đất rừng, có 3 thị trấn: Bố Hạ, Nông
trường Yên Thế, Cầu Gỗ, và 18 xã: Phồn Xương, Xuân Lương, Canh Nậu, Đồng Vương,
Đồng Tiến, Tam Tiến, Tam Hiệp, Tiến Thắng, Tân Hiệp, Đồng Kỳ, Hồng Kỳ, Đồng
Hưu, An Thượng, Đồng Lạc, Hương Vĩ, Đông Sơn, Tân Sỏi, Bố Hạ. Dân số năm 2003
có 91.700. Vùng Yên Thế trồng lúa, đậu tương, chè, cây ăn quả: vải, na, trám,
cam (Bố Hạ), khai thác than (Bố Hạ), sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông
sản. Các trục giao thông chính là quốc lộ 37, tỉnh lộ 244, 287, đường sắt Trại
Cau – Kép.
Mỗi
năm có Hội Yên Thế vào ngày 26-4, tức ngày 10 tháng 3 âm lịch, tại xã Phồn
Xương, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang, để tưởng nhớ đến Hoàng Hoa Thám – người
chỉ huy cuộc khởi nghĩa Yên Thế nổi tiếng. Địa điểm tổ chức hội là xã Phồn
Xương, nơi trước kia là đại bản doanh của nghĩa quân Yên Thế. Hội được tổ chức
với rất nhiều trò vui như kéo co, đấu vật, đánh cờ người, thi võ…Di tích về Đề
Thám còn lại là đồn Phồn Xương, Hố Chuối.
Nhà
văn Nguyên Hồng có viết cuốn tiểu thuyết lịch sử “Núi rừng Yên Thế” 3 tập, tập
I in năm 1981, về cuộc khởi nghĩa của Đề Thám.
Tài liệu tham khảo:
Le
Dê Thám (1858-1913) – Un résistant vietnamien à la colonisation francaise,
Claude Gendre, Edition L‘Harmattan, Paris 2007
·
Histoire de l‘Indochine 1885 – 1954, Philippe Héduy, Edition SPL – Henri
Veyrier, 1983
·
Archives de L‘Indochine, Jacques Borgé et Nicolas Viasnoff, Editions Michèle
Trinckvel, 1995
·
Les grands Dossiers de l‘Illustration – L‘Indochine. Histoire d‘un siècle
1843-1944. Editions Séfag et L‘Illustration, 1987
·
Việt Nam Sử Lược – Trần Trọng Kim
·
Việt Nam tranh đấu sử – Phạm văn Sơn. Institut de l‘Asie du Sud-Est, Paris 1987
·
Triều đại nhà Nguyễn – Tôn Thất Bình. Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2000
·
Các trang trên mạng Internet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét