Thứ Tư, 2 tháng 9, 2020

VỀ KINH BẮC ( 1959-1960 ) - Hoàng Cầm

 

Về Kinh Bắc (1959-1960)

- Thơ Hoàng Cầm

Lời dẫn

Tập thơ Về Kinh Bắc có một lịch trình văn bản hẳn không đơn giản. Được viết xong từ 1960 nhưng đến 1990 mới có 8 bài rút lẻ ra đưa vào tập Mưa Thuận Thành (Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1990) rồi 4 năm sau được in lần đầu tiên thành sách cả tập (Về Kinh Bắc, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1994, 180 trang, khổ 14x20cm). Tuy vậy vào những năm 70 – 80 đã có không ít những văn bản Về Kinh Bắc chép tay và chuyền tay trong giới những người yêu thơ và cả những người có phận sự… tò mò. Tình hình trên khiến tác phẩm nằm trong trạng thái có nhiều hơn một dị bản. Chính tác giả cũng không chắc chắn rằng bản in toàn bộ lần đầu nói trên (Nxb Văn học, 1994) là hoàn toàn đúng nguyên tác của mình.

 Bản in lần này đã được tác giả xem lại kỹ, có sửa chữa, nhuận sắc trên cơ sở bản in 1994. Chúng tôi, vì vậy, hy vọng cung cấp cho bạn đọc và bạn nghiên cứu một văn bản đáng tin cậy của tập thơ này.

 N.B.S.

 Dâng hương hồn mẹ

 Ta con chim cu về gù dặng tre

 Đưa nắng ấu thơ về sân đất trắng

 Đưa mây lành những phương trời lạ

 Về tụ nóc cây rơm

 Ta ru em

 Lớn lên em đừng tìm Mẹ phía cơn mưa.

 …………………….

 Đó là vào năm 1959. Vụ Nhân Văn – Giai phẩm đã qua đi như một trận gió mạnh. Sau, dĩ nhiên có một vài cây đổ, lá rụng đầy đường, có những túp nhà tốc mái, có những bức tường xiêu vẹo. Xong, trời lại xanh, đường phố lại rộn rịp nếp sống thường ngày. Tôi, lẽ đương nhiên phải chịu kỷ luật (trên văn bản, giấy trắng mực đen do ông Nguyễn Đình Thi, tổng thư ký Hội Nhà văn ký : Khai trừ khỏi ban chấp hành Hội. Thời hạn 1 năm không được ấn hành tác phẩm – lưu lại Hội để giáo dục. Và cũng chỉ có thế, còn đời sống vật chất cũng chỉ sa sút có 50%. Vẫn có lương nhỏ nhoi hàng tháng (lương chính bị cắt tới 65%), lao động chân tay bắt buộc trong 3 năm, sau thì được tự giác tìm một nơi nào đấy lao động chân tay có thêm tiền bồi dưỡng. Cũng vui, và chính cái việc tôi sinh hoạt, sống ba cùng với nông dân, công nhân đã giúp tôi hiểu thêm về những số phận người.

 Phải nói thật một điều, thường người ta khó tin, là hồi đó tôi không mang trong lòng – dẫu chỉ một ly – nỗi oán hận, nỗi buồn phiền, hoặc trách móc hờn giận gì ai. Đôi lúc, chỉ nghĩ về chính số phận mình, có chút cay đắng, có xót xa. Nhưng vì “đã mang lấy nghiệp vào thân” như Nguyễn Du nói, cái nghiệp thơ đầy đau khổ, oan trái, nhưng cũng nhiều hào quang toả ra từ tâm linh và từ những câu chữ kỳ diệu đã đem đến cho mình không ít giờ phút say sưa, ngay trong cuộc sống bình nhật cũng không ít hạnh ngộ đẹp, tôi được gặp nhiều người nam, người nữ rất trong sáng, yêu thương mình hết lòng. Dân tộc là thế đấy, thưa các bạn.

 Vậy thì vào mùa thu rồi sang mùa rét 1959, ít khi tôi ra khỏi nhà. Ngày hai bữa cơm nghèo, mấy tấm áo quần đã sờn rách, một lũ con nhỏ dại lau nhau đi học, chơi đùa, đau ốm, tất cả tôi trao gánh nặng cuộc đời ấy cho người vợ rất giỏi chịu đựng kham khổ, người vợ thật hiền thảo, thật thương yêu chồng con (mà rồi đây, trong tập Nhớ lại một đời, tôi sẽ viết một chương riêng để đền đáp tình nghĩa lớn lao ấy cho người vợ đã giúp tôi đẩy chiếc xe thơ Về Kinh Bắc đi trọn đoạn đường thiên mệnh của nó).

 Vâng, đúng là năm Kỷ Hợi 1959, từ khi chiếc lá bàng trước cửa nhà rụng xuống báo tin thu ( lá bàng chứ không phải lá ngô đồng), hồn tôi cứ chìm dần, chìm sâu, chìm và lắng thật sâu vào vùng quê tôi ngày xưa, thời tôi còn nhỏ dại, với biết bao bóng dáng, đường nét, mầu sắc, hương vị đã quá xa, đã “đi đâu, về đâu” tôi không thể biết nhưng cả một thời, từ khi vào tuổi bước đầu nhận thức được cõi đời này đến khi rời quê ra Hà Nội học tiếp rồi vào hẳn thế giới văn thơ (1938) nghĩa là cái khoảng thời gian 12 năm thơ trẻ ấy của tôi thì sống lại, và ngày đêm thầm thì nói chuyện với tôi về quê hương, về tình yêu, với những nỗi buồn, niềm cô đơn, nỗi xa cách, nỗi ly biệt cứ tầng tầng lớp lớp úp xuống hồn tôi như một đại dương trập trùng sóng gió, miên man xanh một màu huyền – diệu – dĩ – vãng rồi xẻ ngang, vạch chéo vút cao, xoáy sâu không biết bao nhiêu những nét rung động, có khi võ vàng, gầy mảnh, có khi tươi tắn, ngỡ ngàng, lúc như ai oán, lúc như mơ mộng nhưng vui ít buồn nhiều, cái đau của những thuyền tình không đến bến, những nguyện ước không thành, những mộng đẹp tan vỡ, những men say nửa chừng, những con mắt mỹ nhân đã khép, những tiếng hát người yêu đã tắt, những làn da mịn màng người gái quê Kinh Bắc đã nhăn nheo, những sợi tóc xưa óng ả nay đã úa bạc. Tất cả… tất cả… tôi bơi, chìm trong tất cả da thịt quê hương, hồn phách quê hương. Quê hương Kinh Bắc. Và lời mở đầu cho tập thơ là một lời cầu khẩn từ đáy tâm linh thơ dại :

 Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc.

 Nói đến quê hương, phải bắt đầu bằng Người Mẹ. Mẹ là hiện thân trọn vẹn nhất, sinh động nhất của quê hương. Huống chi mẹ tôi xưa vốn là một cô gái Kinh Bắc có nhan sắc, óng ả, kiều diễm, có đôi mắt “ lúng liếng” thật tình tứ, đôi mắt rất quan họ, có dáng đi đài các, uyển chuyển, thanh tao và khi mẹ tôi mặc chiếc váy lụa kiểu Đình Bảng, mép váy buông chùng cửa võng xuống mu bàn chân, ai trông thấy phía trước mặt đều tưởng như người con gái này đang đi trên sóng rập rờn, nhất là khi người nữ biết cách mặc cho đúng “mốt Đình Bảng”, nghĩa là biết chếp nếp thế nào đó trên thắt lưng để ở phía dưới càng có nhiều pli càng đẹp. Cô nào giỏi chếp nếp thì từ mép váy lên có đến 4 pli. Nói rằng cô gái đang đi trên sóng, là một cách nói chuẩn xác.

 Hơn nữa, mẹ tôi lúc chưa đi lấy chồng, nghĩa là chưa làm vợ người đàn ông sau này là cha tôi, đã nổi tiếng khắp vùng Tiên Du, Thuận Thành (hai huyện ở tả ngạn và hữu ngạn sông Đuống, thuộc tỉnh Bắc Ninh) nổi tiếng là cô thiếu nữ hát quan họ rất hay, năm nào cũng được các lão làng Bựu-Xim (tên làng quê gốc của mẹ tôi) khen thưởng cho cả phường hát ấy một tấm lụa điều và một bánh pháo đại quang toàn hồng. Lấy chồng rồi, ngoài công việc mưu sinh mẹ tôi vẫn theo các chị em đi hát. Tháng tám âm lịch thì tập luyện, sáng tạo ra những làn điệu mới, lời hát mới để đến ngày 13 tháng giêng sang năm, thì dự giải hát thi ở đình làng Bựu (làng này, thế kỷ 18, là nơi sinh ra người con gái tài sắc tuyệt vời Trần Thị Tần (1740-1778) để đến tuổi 18 thì Tần đi làm vợ thứ ba, người vợ yêu bậc nhất của quan Đại tư đồ Bình nam Tả tướng quân (ngang với Tể tướng) tên là Nguyễn Nghiễm, Xuân Quận công, và rồi sau sinh ra một đại thi hào cho đất nước : Nguyễn Du). Mẹ tôi (1891-1961) là con gái làng Bựu, đương nhiên được hưởng, được thừa kế tinh hoa quan họ. Đó là nghệ thuật hát thơ, những câu thơ (cốt lõi là thể lục bát) trữ tình, mang đầy sức quyến luyến, yêu thương, nhớ nhung, đằm thắm và da diết đến mức có thể làm say cả gỗ đá.

 Lại cũng vì mẹ tôi cứ say mê với nghệ thuật hát mà thuở tôi chưa ra đời, giữa đôi vợ chồng trẻ (là bố mẹ tôi sau này) đã nảy sinh một bi kịch kéo dài đằng đẵng 12 năm. Năm 17 tuổi, mẹ tôi về Thuận Thành, làng Hồ, làm vợ bố tôi, mà tại sao tôi là con đầu lòng, mãi đến năm mẹ 31 tuổi, mới được xổ ra cõi đời này ? Thuở bé, tôi thường nghe các chú, các bác bên nội, bên ngoại kể chuyện một cách khái quát (không có chi tiết) rằng “bố mẹ mày chê nhau lâu lắm, đến hơn 10 năm đấy”.

 Tôi nghe thế thôi, biết hỏi ai ? Ai kể chi tiết gì đâu về cái chuyện đôi vợ chồng ấy chê nhau đến hơn 10 năm? Bố tôi nguyên là một nhà nho (1886 – 1959), ba lần thi trường Nam Định không đậu nổi ở cấp hạng bét là tam trường, sau rồi bất đắc chí, bỏ làng đi dạy học lang thang và cũng lại lang thang đi chữa bệnh khắp các huyện trong hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, rồi đâu như cũng là người yêu nước có khí tiết, đã tham gia các phong trào Đông kinh nghĩa thục, Đông du, Việt Nam Quốc dân Đảng của Nguyễn Thái Học. Tôi còn nhớ hồi lên 6 tuổi, tôi thường phải đun nước, điếu đóm, hầu trà để bố tôi tiếp bạn thân là ông Xứ Nhu (Nguyễn Khắc Nhu). Năm tôi lên 7 (1929) bố tôi đã bị viên tri huyện Việt Yên đem lính đến khám nhà rồi tống giam ở thị xã Phủ Lạng Thương đến gần một năm mới được tha về (có lẽ là ông bị tình nghi, đế quốc Pháp đã dẹp tan Việt Nam Quốc dân Đảng, bố tôi không có chứng cớ gì cụ thể để chúng buộc tội). Từ đó thì bố mẹ tôi sống yên phận : bố bốc thuốc Nam , thuốc Bắc chữa bệnh, mẹ trĩu nặng hai bồ hàng xén đi các chợ làng, chợ huyện, một cô hàng xén răng đen, cười như mùa thu toả nắng, chăm chút nuôi con ăn học bằng cách thắt lưng buộc bụng. Nhờ vậy tôi mới có điều kiện học được hết bậc trung học ở Hà Nội.

 Vậy là trong người tôi hoà quyện hai dòng máu. Dòng máu của nghệ thuật quan họ, dân ca hoà với dòng máu yêu nước, hào hùng và khí tiết, và cả hai dòng đều rất mực sắt son, thuỷ chung như nhất.

 Thế nhưng, không hiểu sao, tôi sớm có cái buồn cô đơn ngay từ năm lên sáu, lên bảy tuổi. Bẩm sinh chăng? Hay chính là nỗi buồn của người con gái tài sắc lấy chồng từ năm mười bảy tuổi mà phải sống cô đơn đến hơn mười năm ? Tôi lớn lên, chính mình được nghe mẹ kể : Lúc mẹ trở dạ sinh ra tôi thì gian nhà tre, mái rơm vách đất tiều tuỵ ấy rất trống vắng. Bố mẹ thì ở xa. Mẹ chồng goá bụa, già nua cũng ở xa. Chồng tuy mới làm lành với vợ được hơn một năm, mà người vợ ba mươi tuổi kia lúc mang thai cũng vẫn sống nhiều tháng ngày cô đơn, lạnh lẽo vì chồng cứ đi… đi đâu ? Dạy học hay làm thuốc rong, hay hội kín hội hở gì mà đi luôn thế, đến lúc vợ đẻ cũng không có mặt ở nhà ? Đến lúc đau quá, người thiếu phụ ấy kêu thét lên thì bên láng giềng mới có một bà chạy sang đỡ thằng bé ra đời, cắt rốn cho nó bằng con dao bổ cau rồi tắm rửa… tã lót cho nó, cũng may mà nó sống được, chỉ phải cái tội là sau mấy tiếng oa oa đầu tiên thì nó im bặt không khóc nữa. Chào đời mà không khóc cho thật to, thật dài hơi vào à? Thằng cu này gan nhỉ, hay là ai bắt mất vía để nó nghẹn không khóc lên được nhiều? Bà hàng xóm vừa bế tôi, vừa thắp hương lên cái ban thờ phía đầu giường, khấn vái bốn phương. Lúc đó đã gần nửa đêm 12 tháng giêng Nhâm Tuất (1922), chỉ còn một lát nữa là sang ngày hội Lim, hội quan họ, ngày mà nhiều năm về trước, mẹ tôi xúng xính áo the đen tứ thân, khăn vuông mỏ quạ, vành khăn nhiễu tam giang, váy lụa Đình Bảng, đi dép da trâu mũi cong, thắt lưng hoa đào hoa lý, cùng với bốn năm chị em phường hát đi ra đình từ sớm để rồi hát chúc, hát thi… còn ngay lúc sắp nửa đêm ấy, vào cái giờ tôi bật từ bụng mẹ ra cõi nhân gian rất đẹp mà cũng rất rắc rối lắm chuyện này, thì ở đình làng, cách nhà chừng non cây số, như văng vẳng vẫn còn tiếng trống chầu của đêm hát chèo. Mẹ tôi kể vậy nên tôi nhớ cả cái vùng Kinh Bắc cách đây sáu bảy mươi năm, các thôn làng thường mở hội suốt tháng giêng, tháng hai.

 Hội to thì kéo dài dăm ngày, hội nhỏ nhất cũng phải một ngày một đêm mới rã đám. Những lời mẹ kể tôi nghe từ năm lên sáu về cảnh nhà, cảnh xóm, cảnh thôn xã, cảnh phố huyện, phố phủ, cảnh chợ núi chợ sông, rồi đến chuyện người, ông bà, họ hàng nội ngoại, người xóm thượng, xóm hạ, người quê gốc… người ngụ cư, người cấy cầy, người chợ búa, người làm quan, người đi lính, người “làm thày, làm thợ với làm thuê”, người dân nghèo, sang hèn, quen thân hay sơ, nhiều lắm, mẹ tôi kể nhiều lắm mà hồn tôi từ thuở bốn năm tuổi cho đến khi biết đến cái cầu Long Biên và phường phố đô thành, hồn tôi đúng là một trang giấy mỏng manh, trắng nõn, tinh khiết, mẹ kể chuyện nào là cũng in đậm ngay vào hồn tôi chuyện ấy để rồi giá tôi được sống đến mười mươi chăng nữa sẽ chẳng có một cái gì có thể xoá đi được, dẫu chỉ là một nét mong manh, một màu thoáng nhạt, một hương vị thoảng qua… Vậy nên, cả tập thơ Về kinh Bắc tôi viết từ lập thu 1959 đến giữa xuân 1960, là quê hương tôi, cảnh ngộ gia đình tôi…. số phận mỗi người thân yêu… nhất là số phận những người gái quê Kinh Bắc đã hiện lên thành 48 bài thơ gắn bó hữu cơ với nhau trong một thể, một khối n-phương thống nhất chia làm tám nhịp, mở đầu là Cúi lạy mẹ, con trở về Kinh Bắc và sau khi Xong cuộc tuần du là mươi dòng ước nguyện tạm kết thúc một chuyến về thăm quê xưa, về Kinh Bắc.

 Bốn tám dáng thơ đi tám nhịp

 Tuần du

 Chưa vợi khối ân tình

 Vâng, một cuộc “tuần du” đi từ người Mẹ ngược về những sự tích huyền sử, dã sử, về những chuyện tình huyền thoại đến cả những chuyện thực đã diễn ra hôm qua và hôm nay. Gọi là chuyện nhưng thơ lại là kết tinh. Trong viên ngọc kết tinh của muôn vàn nỗi niềm, cảnh sắc, hương vị, âm thanh, tiết tấu của cuộc sống vừa là xa xưa, vừa là đương đại, lúc huyền ảo, lúc hiện thực, như mê mà tỉnh, như ngủ mà thức, hư hư thực thực ấy, thì hình ảnh mẹ tôi bàng bạc bao phủ cả tập thơ, rồi đến một cậu bé con cầm chiếc lá Diêu Bông trong tay đi xuyên thời gian, xuyên suốt vùng quê đa tình, diễm ảo, và bên cạnh cậu bé con ấy là một người gái quê cũng đa tình diễm ảo, như cánh mây trắng mỏng cứ vần vụ, như chạy như bay, lại như đậu tà tà trên lá cỏ, trên cành hoa, lúc cao thì cao vút không ai níu được vạt áo, lúc thấp thì lại rành rành trước mặt như một cành cây, một chiếc lá bình thường. Hai nhân vật EM và chị này choán hết cả một nhịp – nhịp năm – của bản đại hợp xướng Về KInh Bắc trong khi cái giờ tôi ra đời thì tác giả đẩy xuống cuối nhịp bảy, sửa soạn cho nhịp cuối cùng của tập thơ. Đó là một khúc thơ có tên Luân hồi.

 Nói chung, hầu hết những bài thơ của tôi được độc giả ưa thích trong nhiều năm bao giờ cũng bắt đầu một cách vi diệu là từ ngoài tôi, vẳng lên đôi ba câu nghe rất rành rẽ, giọng nữ lảnh lót mà rất xa, như hát mà như đọc. Như một tia nước trong vắt phun lên từ ruột đất khi chúng ta thăm dò mạch nước ngầm để đào giếng, khi đã có đôi ba câu vẳng lên bên tai, tôi ghi ngay, bắt lấy ngay và từ đó là tình cảm, suy tư cuồn cuộn trong người, tôi thường tiếp được mạch khởi xướng ấy và nối luôn các đợt sóng tuôn trào cho đến khi thấy trong người yên ắng, nhẹ nhõm là bài thơ cũng hoàn tất. Ví dụ như bài thơ dài Bên kia sông Đuống (tôi đã viết rất tỉ mỉ, thuật lại những trạng thái của tâm tư mình trước lúc bật ra thơ, bài viết ấy đã đăng trên Tuần báo Văn nghệ số kỷ niệm 35 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, tháng 5 – 1992) tôi đang ở trong trạng thái bồn chồn, thao thức, tâm tư rối bời sau khi nghe báo cáo về quê hương mình bị giặc Pháp xâm lược kéo lên tàn phá, giết chóc, tôi chưa định viết gì, lúc quá nửa đêm vắng lặng, bỗng văng vẳng bên tai ba câu :

 Em ơi buồn làm chi

 Anh đưa em về sông Đuống

 Ngày xưa… cát trắng phẳng lỳ

 Tôi bèn chụp lấy, ghi ngay và cứ thế cảm xúc trào ra một mạch dài, viết rất nhanh, sợ không theo kịp những thanh âm, làn điệu đang cuồn cuộn dâng lên trong lòng mình. Cho đến gần sáng thì xong bài thơ, một trong những bài được các bạn già, trẻ, nam, nữ yêu mến đã gần nửa thế kỷ. Những bài thơ như vậy, thường là không theo một ý nghĩ, một tư duy nào định trước, tác giả giống như một cậu học trò viết chính tả, lúc đầu là viết theo tiếng đọc rành rọt bên tai, sau là viết theo tiếng đọc thầm thì từ trong tâm can mình, ở những trường hợp ấy, tôi không hề cấu tứ, nghĩ ngợi gì về câu, chữ, không theo một luật lệ nào gọi là thi pháp hoặc tu từ, hoặc chịu sự ràng buộc nào của phép tắc về thanh điệu, ngữ điệu gì gì hết. Tôi chỉ tuân theo nhịp rung động của toàn thân, cả tâm hồn và thể chất, khí chất.

 Đương nhiên, những bài bật ra như vậy không nhiều, còn người làm thơ thường phải khổ công tu luyện những con chữ, tu luyện từ ngữ đến nhịp điệu từng câu, tạo ra điệu riêng từng bài thì sau cùng mới có thể tạo cho mình một thế giới riêng. Đặc biệt, có bài Lá Diêu Bông, duy nhất có một bài này hoàn toàn là những lời văng vẳng bên tai, từ đầu chí cuối, quá nửa đêm mùa rét 1959, trên giường ngủ, trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn ngủ 6 watt, bên cạnh người vợ đang ngủ ngon và các con những giường bên cũng đang ngủ say. Tôi không gây một tiếng động khả dĩ làm mất giấc ngủ của những người thân. Đêm nào, khi lên giường nằm, tôi cũng cầm sẵn một tập giấy trắng bên tay trái và cái bút chì bên tay phải. Nếu ngủ được thì càng tốt, nhưng thường về đêm, tôi cứ hay thao thức, trằn trọc vô cớ. Chẳng có chuyện gì phải lo nghĩ, chẳng có ý định gì trong đầu mà sao về quá nửa đêm một mùa rét ấy, tôi vẫn không ngủ được. Bốn bề yên tĩnh. Nhà tôi ở vào một phố nhỏ, lại lùi tít vào phía trong nên tiếng xe cộ thưa thớt ngoài đường tôi cũng không nghe rõ. Im lặng. Chợt bên tai vẳng lên một giọng nữ rất nhỏ nhẹ mà rành rọt, đọc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như từ thời nào xa xưa vẳng đến, có lẽ từ tiền kiếp vọng về :

 Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng…

 Tôi xoay người trong chăn về phía bên trái và ghi ngay lên giấy. Giọng nữ vẫn đọc, không vội vàng mà cũng không quá chậm, và tôi ghi lia lịa trong bóng tối mờ. Đến lúc giọng nữ im bặt hẳn, lòng tôi nhẹ bẫng đi, được một lát thì tôi ngủ thiếp. Sớm hôm sau nhìn lại trang “bản thảo” thì có chỗ rõ, đọc được, nhiều chỗ dòng nọ đè lên dòng kia, chữ này xoá mất chữ khác. Phải mất nửa giờ, tôi mới tách được ra theo thứ tự đúng như những lời người nữ kỳ diệu nào đó đã đọc cho tôi viết lúc quá nửa đêm hôm qua. Bài Lá Diêu Bông ra đời như vậy, nói có người không tin, nhưng tôi nghĩ bây giờ khoa tâm thần học, vô thức luận, tâm linh học có thể lý giải được hiện tượng đó một cách rất khoa học.

 Vậy nên, cái lá diêu bông là cái lá gì, ở đâu, nào tôi có biết. Thần linh đọc diêu bông, tôi chép diêu bông, thế thôi. Nhưng nó có nguồn gốc đấy. Năm 12 tuổi, tôi say mê một người con gái láng giềng hơn tôi những 8 tuổi. Vì từ năm lên tám, tôi đi trọ học trên thị xã Phủ Lạng Thương, chiều thứ bảy, mươi phút xe lửa lại đưa tôi về nhà, ở cái phố ga xép Như Thiết, tên chữ nhà ga đề là Núi Tiết, thực tên là Thiết Sơn, một tổng thuộc huyện Việt Yên. Phố ga ấy cách Hà Nội 44 km. Còn 6 km nữa thì qua cầu sông Thương (con sông Thương nước chảy đôi dòng), tới ga Phủ Lạng Thương. Đường số 1 chạy qua trước cửa nhà, sau lưng là đường xe lửa Hà Nội – Lạng Sơn ngăn cách với mảnh vườn nhỏ sau nhà bằng một hàng rào cắt xén khá đẹp trồng toàn những cây ruối, dâm bụt dày dặn. Nhà tôi có tủ thuốc bắc của ông bố, có đôi bồ hàng xén của bà mẹ.

 Một chiều thứ bảy, khoảng hơn 4 giờ, tôi về chưa kịp bước vào trong nhà đã thấy một cô gái đang mua gì của mẹ tôi. Khi cô ấy ngửng đầu lên, nhìn ra đường thì cậu bé lên tám choáng người, như sau này người ta thường nói là bị “coup de foudre”1. Người con gái đẹp đến mê hồn. Rồi thứ bảy sau, về nhà, tôi trao bức thư tỏ tình đầu tiên viết bằng thơ lục bát, dài hơn một trang giấy kẻ học sinh trên có vẽ hoa vẽ bướm, một vài ngọn núi, một dòng sông với chữ viết đậm, mực tím, nắn nót : Em gửi Chị Vinh của Em. ấy, sở dĩ mới bé tí đã làm được một trang thơ lục bát vì ở trên nhà trọ, chỗ thân tình với bố tôi, chủ nhà chính là ông sếp ga xép Núi Tiết ấy, gia đình ông trên tỉnh đông con, làm nghề hàng xay hàng xáo, đêm nào cũng xay lúa giã gạo rồi dần sàng quạt sẩy đến khuya. Tôi học bài, làm bài xong, tuy buồn ngủ, các anh các chị cứ bắt xuống nhà ngang, từ 9 giờ tối, đêm nào cũng phải đọc đủ các thứ truyện dân gian, in khổ nhỏ, bán rẻ từ 2 xu đến 1 hào, đủ các loại truyện, thể thơ lục bát, từ Trê Cóc đến Truyện Kiều, từ Nhị Độ Mai đến Hoa Tiên, rồi Hoàng Trừu, Thạch Sanh, Phạm Công Cúc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa… Lục Vân Tiên, Phạm Tải, cả Cung oán ngâm khúc đến Chinh Phụ ngâm… v. v… Vì thực ra, ngay từ bé tôi sớm có giọng hát hay, ngâm thơ cũng hấp dẫn người nghe lắm.

 Đọc hết lượt, phải đọc lại. Thể thơ lục bát thấm vào người từ nhỏ tuổi, mình lại bẩm sinh yêu thích thơ ca, nên tôi có viết bức thư tình gửi người gái Kinh Bắc, người Chị làm Em say mê ngơ ngẩn suốt năm năm ấy, mà thư tình lại viết bằng thơ lục bát thì hẳn không phải là điều gì đáng ngạc nhiên phải không, thưa các bạn ? Tôi say mê Chị, Chị đi đâu Em theo đấy, chỉ biết gọi Chị ơi, chứ còn biết nói gì hơn. Người gái tuyệt sắc ấy con một nhà nho chẳng may chết sớm, ba mẹ con, mẹ goá con côi nghèo khổ, đèo bòng nhau lên cái phố xép này mở ngôi hàng bán kẹo bánh, nước chè tươi, nước vối, cả bánh đa, bánh đúc, bánh chưng, bánh mật, bánh khoai. Chị Vinh võ vẽ chữ nho, đọc thông quốc ngữ, người quê gốc cũng Tiên Du, nên hát quan họ thì làm mê người ta ngang với nhan sắc của Chị. Chị cũng thừa biết thằng bé con này nó mê đắm mình nên Chị cứ hay trêu đùa, lắm lúc tôi phát khóc, nhưng cũng nhiều giờ phút tôi có một hạnh phúc không gì sánh bằng là được Chị Vinh cho ngồi sát bên Chị, chầu rìa những cuộc chơi tam cúc ngày Tết, ngày xuân hay ngày hội. Chị thường hay nhờ những đêm trăng sáng vào mùa hè, mùa thu, tổ chức những đám thanh thiếu niên tụ tập ở cái bãi sau ga, hát ví, hát trống quân, hát ống, hát giao duyên, hát vấn đáp, đặc biệt là về môn hát quan họ thì Chị là bà Chúa của dân ca ! Giọng ngọt, say như mật ong, đôi mắt đen thăm thẳm với hàng mi cong và dài, má luôn luôn ửng đỏ, môi luôn luôn đã hồng lại thường hay cắn chỉ quết trầu, răng đen rưng rức hạt na.

 Chị Vinh ơi, viết đến đây, Em vẫn bồi hồi nhớ từng sợi tóc Chị dán trên vầng trán, từng con mắt Chị lúng liếng tình tứ, từng giọng hát, từng lời nói, từng nụ cười, Em còn ngửi thấy hơi tóc ấm của Chị thoảng mùi hương nhu mới gội buổi chiều, mà nếu Chị buông tóc dài gần đến mắt cá chân để hong khô thì cả suối tóc ấy làm thành thế giới mê say của riêng Em từ độ ấy đến nay, dẫu tóc Em đã trắng hết, Em vẫn có thể vẽ đúng chân dung Chị tuyệt vời nếu có người chỉ dẫn cho Em đôi điều sơ đẳng về nghệ thuật hội họa. ảnh Chị in mầu trong hồn Em, không một nhà khoa học nào có thể làm ra cho Em những tấm ảnh như Em đang có trong một mảnh hồn lả lướt xanh xao, trong một tâm tư u buồn chạng vạng mà vẫn còn đầy đủ và tươi tắn, nguyên vẹn những kỷ niệm từ sáu bảy chục năm xưa đấy, Chị ơi !

 Tình của người Em với người Chị ấy, sơ lược là thế. Tôi sẽ viết tỉ mỉ hơn nhiều trong tập hồi ký sau này, để một số bạn ở xa quê hương hiểu kỹ về tôi hơn, tránh được những điều bình luận sai lạc thậm chí nguy hiểm nữa mỗi khi luận về những thi phẩm của tôi. Trong tập Về Kinh Bắc, thì hai nhân vật Chị và Em ấy đã xuyên qua năm tháng và không gian, qua mưa phùn và nắng rát, qua biết bao hình thái của tâm tư, của số phận, mà trội lên vẫn là cái sầu đơn phương, cứ vấn vương mãi, cho tôi nhớ mãi đến hết một kiếp này, biết đâu còn xót xa yêu thương vào tận kiếp sau… kiếp sau nữa…

 Vậy chỉ mới sau vụ Nhân văn – Giai phẩm có một thời gian ngắn, thơ của tôi đã lùi về quá khứ, chẳng biết có phải ẩn dụ ẩn diếc gì chăng, chỉ có điều là qua thời gian viết được ra 48 bài thành tập thơ Về Kinh Bắc này, tôi không một phút nào nghĩ đến thời cuộc chính trị và xã hội trước mắt. Tôi chìm về một quê hương xa, có thực mà như ảo ảnh, là ảo ảnh mà tưởng như gần gũi đâu đây, cứ chập chờn năm tháng và bảng lảng không gian, xanh mơ mong manh mầu kỷ niệm pha chút tím của tiếc hận, chút hồng của tuổi thơ, chút biêng biếc thắm của say mê não nùng, của thương cảm không có bến buông neo, và nhìn chung chỉ thấy con mắt của thời gian không hề suy suyển đến một sợi mi cong… Như gần đây tôi đã phải thốt ra : “Mắt thời gian càng miên man xanh”.

 Rồi Chị Em Đi Về Kinh Bắc, lúc thì đố Lá diêu bông, lúc vào Vườn ổi, lúc Đánh tam cúc, lúc lên Ngọn sông Thương, lên tít Ngọn Kỳ Cùng, lúc Đếm sao, Đếm nắng, Đếm giờ, Em cứ theo đuổi Chị qua hội hè rồi qua cả những tàn tạ của cảnh vật và lòng người, cho đến mùa rét năm 1934. Cái Lá diêu bông bắt nguồn từ buổi chiều năm ấy, hình như vào dịp lễ Thiên chúa Giáng sinh, những bốn năm ngày liền tôi về gia đình ở cái phố ga xép đìu hiu ấy, nghĩa là cứ được nghỉ học thì tôi về ngay nhà với niềm say mê đơn phương, một chuyện tình có Chị có Em mà tôi vẫn chỉ là một khối cô đơn “lẽo đẽo bụi hồng”. Tôi đã 12 tuổi và chị Vinh đã 20.

 Vào chiều mùa đông năm ấy, nắng hanh vàng rộm. Trời xanh trong màn sương cực mỏng không một gợn mây. Heo may se se lạnh. Chị mặc váy kiểu Đình Bảng, áo cánh lụa mỡ gà đã cũ, có mảnh vá trên vai, ngoài bó chẽn lưng ong bằng cái gi-lê tím, sờn rách, chiếc yếm màu cánh sen đã nhạt, dây thắt lưng hoa đào phai, Chị thoăn thoắt đi ra ngoài cánh đồng, ngày ấy lúa đã gặt hết. Cả cánh đồng rộng đầu cái phố ga xép ấy chỉ còn trơ những cuống rạ tít tắp đến chân dãy núi Neo. Cậu bé Em 12 tuổi, vốn dĩ lúc nào cũng trông ngóng, ngó nhìn, chờ đợi Chị, thấy Chị đã bỏ cửa hàng chiều vắng khách, mặc cho đứa em trai lên sáu ngồi xua ruồi hoặc ăn vụng cái kẹo vừng, rồi thấy Chị bước nhanh ra cánh đồng, đương nhiên là cậu Em theo ngay, và bất kỳ đi theo Chị ở đâu, đến đâu, cũng chỉ cách sau lưng Chị có ba bước. Chị đi trên bờ ruộng, cứ vạch từng búi cỏ đầu bờ hoặc từng đám cây hoang dại trên mấy cái gò nhỏ giữa đồng và cứ cúi tìm… tìm mãi… chả biết Chị tìm gì vậy.

 Em cứ theo sau, không hỏi, không nói, trống ngực cứ thập thùng từng giây phút theo đuổi, miệt mài lâng lâng say. Lâu lắm, bỗng Chị đứng thẳng người quay mặt nhìn Em, rồi nói, như một lời trách, như một lời quở mắng, lại như một lời mình nói với chính mình (gần 60 năm rồi, hôm nay tôi còn nhớ như in từng lời trong bộ não đã hơi suy, trong tấm lòng may thay vẫn là tấm lòng 12 tuổi) : “Ơ hay ! Sao mày cứ theo tao lẵng nhẵng mãi thế nhỉ ?”. Máu Em dồn lên nóng ran khắp người, hẳn là cậu Em đang đỏ mặt, môi Em run run, không nói lại với Chị được nửa lời. Hình như Em thoáng thấy Chị mỉm cười, rồi Chị lại bước sang bờ ruộng khác, vẫn tìm… tìm mãi. Nắng đã sẫm dần. Mãi sau, Em mới bạo dạn hỏi :

 – Chị Vinh ơi ! Chị đi tìm cái gì thế ?

 Chị Vinh quay phắt lại, hình như má Chị hồng hơn lúc nãy. Chị nhìn thẳng, nhìn xoáy vào mắt Em và gần 60 năm rồi, tôi vẫn nhớ như vẽ cái miệng rất tươi của Chị đậm nét một nụ cười trêu cợt rất bí ẩn kiêu xa. Chị nói, cũng một giọng bỡn cợt như thách đố, như đùa vui trêu ghẹo :

 – ừ, Chị (các bạn chú ý dùm tôi cách thay đổi chủ từ trong câu nói này của Chị) Chị đi tìm cái lá… ấy đấy, đứa nào tìm được cái lá ấy (Chị càng cười càng rõ vẻ trêu cợt) ta gọi là chồng !

 Các bạn ơi, nghe vậy, tim tôi như lặng đi ngừng lại vài giây rồi đập rất mạnh, người tôi nóng ran lên trong buổi xế chiều càng lạnh. Lúc đó, Chị nói tên một cái lá có lẽ có thật, chỉ mấy năm sau thì tôi quên bẵng, thôi thì hôm nay tôi cứ gọi cho nó có tên như Chị đã gọi tên, lá thanh thảo hay đài bi chẳng hạn, hoặc gọi lá tai voi, lá mắt nai gì đó, xin thú thật với các bạn là ít lâu sau buổi chiều mùa rét ấy, tôi không nhớ nữa. Nhưng ngay lúc bấy giờ, sau cơn nóng bừng, toàn thân ấm áp vào tận đáy thẳm tâm hồn ấy, tuy mới 12 tuổi, tôi cũng đã nghĩ ngay ra rằng cái lá ấy rất hiếm, ở những vùng nào nhiều đồi núi, khe suối cơ, may ra mới tìm được, mà tìm lá ấy chắc là để chữa khỏi một chứng bệnh gì hiểm nghèo nguy kịch hoặc có khi lại lấy lá vò nát ra, hay giã kỹ lấy nước xoa lên khắp mặt sẽ làm cho da dẻ tươi hồng, mịn màng lên. Nhưng hẳn là khó tìm lắm lắm, chả thế mà Chị đi hết bờ này bãi nọ, gần cả một buổi chiều, có thấy được đâu ! Cái lá oái oăm thế ! Chị mới trêu đùa thằng bé mà Chị biết là nó đang say mê mình, nó “phải lòng” mình từ năm năm nay rồi… còn gì ! “Đứa nào tìm được… ta gọi là chồng !”.

 Chị Vinh ơi, bây giờ Chị ở cõi nào, nếu còn sống, Chị cũng đã gần tám mươi tuổi đấy chứ, sao hôm nay, Em đã ngoài 70, lúc Em viết những trang nhớ lại này, Em hoàn toàn vẫn là đứa em 12 tuổi đang theo Chị và Chị vẫn đang tuổi hai mươi, ngoài cánh đồng chiều làng Như Thiết ấy, Chị vẫn trẻ đẹp diệu kỳ Chị ơi !

 Chiều ấy, trời xẩm tối rồi, Chị lại cho Em được cầm tay Chị. “Chị em thơ thẩn dan tay ra về”… mà nào đâu chiếc lá ? Hết phép nghỉ, tôi lại lên thị xã ở trọ, ngày hai buổi đến trường, cặp sách trong tay, hình ảnh Chị trước mắt, lời nói trêu đùa của Chị không lúc nào không réo gọi trong tấm lòng cô đơn trống trải của cậu con trai sớm đã si tình.

 Chiều thứ bảy sau, khi tôi xuống tàu, vào phố xép đi về nhà, nhìn sang nhà Chị Vinh thấy cánh liếp đóng im ỉm. Tôi như lạc mất trí, chạy vội vào nhà, cũng không kịp chào mẹ tôi đang ngồi khâu vá trên cái chõng tre, mà hỏi ngay :

 – Mẹ ơi, sao bên nhà chị Vinh lại đóng kín cửa thế

 hả mẹ ?

 Mẹ tôi kéo tay tôi ngồi sát bên, nói rất nhỏ, mà hình như trong giọng nói của mẹ tôi có cái gì như nước mắt nghẽn lại :

 – Nó đi lấy chồng rồi, con ạ.

 Tôi bỗng khóc oà lên, khóc như có một thế giới nào vừa đột ngột nổ vỡ tung ra trong vũ trụ. Tôi gục đầu vào lòng mẹ, khóc m•i, lòng mẹ tôi đấy mà sao tôi lại khóc như đứa trẻ lên ba, mẹ đang bế đi chơi, đến một cánh đồng chiều vắng, bỗng dưng mẹ biến đi đâu mất, để đứa bé bơ vơ giữa mênh mông trời đất cô quạnh và xa lạ, lạnh lẽo thế. Mà nó khóc !

 Tôi chỉ kể với các bạn đến đây thôi, còn cuộc đời người Chị ấy về sau, tôi chỉ xin tóm gọn bằng bốn chữ đã quá cũ kỹ, nghe rất sáo mòn, nhưng tôi không thể dùng được những từ nào khác ngoài bốn chữ ấy : Hồng nhan bạc mệnh…

 Trở lại mùa rét năm 1959, nghĩa là đúng một phần tư thế kỷ đã qua sau cái buổi chiều mùa đông có Chị có Em trên cánh đồng quê. Chị đi tìm lá rồi… Chị đố lá… “Đứa nào tìm được… ta gọi là chồng…” Và bài thơ Lá diêu bông ra đời trong đêm khuya, như tôi đã kể ở trên, bài thơ duy nhất trong đời làm thơ của tôi do thần linh giọng nữ cao đọc từ đầu đến cuối cho tôi chép như viết chính tả. Còn một số bài khác như Cây tam cúc, Quả vườn ổi, Cỏ Bồng thi, Bên kia sông Đuống, Chùa Hương, Về với ta… những bài cũng được nhiều bạn đọc ưa thích trong nhiều năm nay thì bao giờ cũng ra đời trong đêm và vài ba câu đầu bao giờ cũng không phải là của tôi nghĩ ra, mà đúng thật là những lời văng vẳng bên tai như có một giọng nữ đang hát, hay đang đọc có nhịp điệu, có tiết tấu, mà tôi cứ xin gọi là lời của thần linh đọc cho mình chép lại được. Nếu chợt nghe mà lười biếng, hoặc chủ quan nghĩ rằng để sáng mai sẽ ghi lại ra giấy thì chỉ một vài phút sau, muốn nhớ lại, không tài nào nhớ nổi một chữ, đừng nói là cả ba bốn dòng…

 Trong đời làm thơ của tôi, thời còn trai trẻ, tôi đã mất khá nhiều những câu thơ “xuất thần” bất chợt trong đêm khuya, lúc chưa ngủ được, nên từ hồi đầu kháng chiến chống Pháp, tôi đã rút kinh nghiệm, cứ đến giờ (thường là gần nửa đêm) lên giường ngủ, bao giờ tôi cũng để bên phía tay trái mình một tập giấy trắng và tay phải cầm cái bút chì học sinh (bây giờ đ• có bút bi thay cái bút chì). Hễ không ngủ được, tâm tư lan man đâu đâu, gì gì đó, mà bỗng nghe vẳng một câu, dẫu chỉ là một câu bâng quơ, tôi phải ghi ngay lập tức. Lười một tí thôi là mất đứt. Mà thường lại là những câu thơ rất có sức gợi cảm. Dẫu tiếng văng vẳng đã tắt, mà cảm xúc chưa tan, thì những dòng thơ cứ tự nhiên bật trào ra ngay, tôi viết tiếp bằng cảm xúc của mình. Y như đã có tia nước phun lên thì phải tiếp tục đào đất, chắc chắn sẽ có được cái giếng đầy nước. Lúc đó thì cả ba loại thơ (như các nhà phê bình văn học Trung Quốc đã đúc kết thành lý luận về thơ) là ngôn thi, tâm thi và thần thi đều có thể xuất hiện trên trang viết.

 Và cùng lúc đó thì có ba cái “thức” đều phải vận động, phải làm việc cho thơ. Đó là ý thức, tiềm thức và vô thức, cũng đủ cả một cặp : trí thức và tâm thức nữa. ở tôi thì luôn luôn cái tâm thức làm việc nhiều hơn trí thức, nhất là với toàn tập Về Kinh Bắc, tôi đã huy động tất cả nội lực của mình : cả thể lực, trí lực, tâm lực và đương nhiên, ở tôi, thần lực thường tự động làm bật ra rất nhiều lời thơ lắm khi tưởng như vô nghĩa, mà ngay bản thân tôi cũng không hiểu những từ ngữ chính mình viết ra mang ý nghĩa gì cụ thể. Ai hỏi tôi lá diêu bông, cỏ bồng thi là lá gì, cỏ gì, ở đâu ? Tôi chịu không giải thích được. Ngay cả nhiều sinh viên khoa Văn ở Hà Nội cũng đã hỏi tôi : “Miếu Hai Cô” là ở đâu ? Hai Cô nào ? Tại sao lại thờ ? Hoặc cầu bà Sấm là trên con sông nào, bến cô

 Mưa là ở khúc nào của con sông nào, tôi cũng chịu không có lời giải đáp.

 Tôi nghĩ rằng, trong lĩnh vực thơ ca, những khúc hát hay, những bài thơ, những câu thơ hay thường rất khó giảng hết được cái hay của nó. Vì ngoài ý nghĩa cụ thể của từng câu, từng chữ, thơ lại còn nhạc điệu, mà theo tôi hiểu, nhạc điệu của một bài thơ lại chính là chiếc xe chở cái hồn của bài thơ đi để nhập, để hoà với hồn người đọc. Và người xưa cũng đã nói từ lâu đến “thi tại ngôn ngoại”. Thơ đã có ý là dễ hiểu. Nhưng thơ lại còn cái tứ. Cái tứ ở đâu ra ? Từ chữ, từ âm vận, rồi âm điệu. Cái tứ của thơ, phải đọc được ngoài lời. Có nhiều bài thơ mang một tứ rất lạ, rất khó giảng, khó bình, mà nhiều khi chỉ cảm thấy được thôi.

 Tôi hy vọng, rất chân thành, được gặp những tâm hồn bầu bạn, có độ lượng để bao dung, có tấm lòng nhân ái để thông cảm, có tri thức đủ để hiểu thấu đáo tác phẩm và tác giả, hiểu cả điểm mạnh và điểm yếu của một người suốt đời lấy Thơ làm cứu cánh, làm mục đích, làm lẽ sống, chứ không bao giờ lấy Thơ làm phương tiện để cho mình đạt tới những gì gì đó mà tâm hồn mình không thể chấp nhận. Ví dụ như danh và lợi, sự bon chen, sự cầu cạnh, sự tâng bốc nịnh hót, dèm pha, thù hận v..v… là những cái rất xa lạ với tôi, có lẽ xa lạ cả với Thơ chân chính nữa.

 Tôi đã trở về với tâm tư riêng, thế giới riêng của mình như đã nói ở trên, về với quê hương xưa, vùng Kinh Bắc xa xưa mà vẫn gần gũi, về với những người đã khuất bóng ở nhân gian nhưng mãi mãi hiện diện trong tâm hồn tôi. Và tập Về Kinh Bắc đã ra đời như thế, mặc nhiên thành cột xương sống cho toàn bộ thi phẩm của tôi kể từ những năm 40 của thế kỷ này.

Hà Nội, những ngày cuối năm

 Nhâm Thân 1992

Hoàng Cầm

 

(Nguồn: http://www.vnn.vn/vanhoa/…pham/2005/10/495735/)

 

Nhịp 1: Khấn nguyện (Bưởi Nga My sao mẹ bắt đèo bòng)

 

Đêm Thổ

 

Cúi lạy Mẹ con trở về Kinh Bắc

 Chiều xưa giẻ quạt voi lồng

 Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc

 Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông

 

Đê mười tám khúc Văn Giang

 Chuông Bách Môn đổ xô gò má

 Mây thành thổi lửa

 Nẻo Đông Triều khép mở gió kỳ lân

 Chớp rạch dáng tiên vén xiêm xõa ngủ

 thoắt chìm

 Gấu đẩy đá Thiên Thai

 

Đi đâu

 

Tràng mày xếch vòng cung

 bắn nát chiều mai ráng đỏ

 Châu chấu ma vờn cổ yếm xây

 

Không gặp người quen

 hờ

 ngõ cũ

 

Đêm xuống

 làm lầu hoang

 Trò chuyện gì ai đâu

 Mồ tháng giêng mưa sũng

 Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu

 

Bưởi Nga My sao mẹ bắt đèo bòng

Đêm Kim

 

Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khóc

 Con không cười

 Con thoảng nhớ thoảng quên

 

Hình nhân má điệp tóc mực tàu

 Mắt nghiêng dựa liếp

 Mai nhảy vào đám lửa giỗ đầu

 

Gấm Song Cầu khoác lại áo ngày xưa

 Da trứng bóc

 phủ bụi tàn nhang

 

Phía đông kéo cưa xẻ gỗ

 Phía tây chầy nện ván thiên

 

Ông phó may già mười đêm chẳng ngủ

 rũ xô gai biển động tìm kim

 

Kèn già lam ai tập thổi

 Gió mất chồi xuân đay nghiến lũy tre dầy

 Năm ba gã trai tập bài lưu thủy

 Một trẻ sơ sinh đuổi giọng mèo hoang

 qua miếu mưa phùn

 

Giặc bên sông đã cắm cờ hạ trại

 

Mẹ đón con rung gậy mía Đường Trèo

Đêm Mộc

 

Về Kinh Bắc phải đâu con hé miệng

 Khế chua vôi bột lòng tay

 

Tràng pháo ròng thân cau mới bói

 Tênh tênh chở đá Ba Vì

 Tiếc gì nhau nữa

 Lứa ong bầu châm lửa gót chân

 

Cói Thanh ép mỏng

 Bao giờ lim gãy đá tan

 

Ngủ lại giấc mơ dang dở

 Chũm cau căng nứt mạch tằm

 

Yếm may ba ngày mẹ vá lại

 Khuya nghe buồng động bóng đêm rằm

 Súng lệnh gươm đao rậm rịch

 Thua

 lá màn lay

 muỗi ngủ mê

 

Đêm Thủy

 

Về Kinh Bắc phải đâu con nhắm mắt

 Gài mảnh gương giàn thiên lý đợi tua rua

 

Chùa Phật Tích ruỗi trong màn lụa bạch

 Tượng Quan Âm má ửng bồ quân

 

Chuông chiều cởi yếm

 Chuông sớm đội khăn

 Câu kinh tê tê mười ngón tay măng

 Mõ đêm hè cuốc lội

 Ao mưa dằng rịt lá trường sinh

 

Gió vào trăm cửa

 Gió ra hồng da trinh nữ

 Gió vào xanh quan lục

 Gió ra vàng thớ mít

 Ong bay vai áo tiểu thon mình

 

Thập điện Diêm vương mở hội

 Trong mắt trẻ lên năm

 

Trưa hè gãy rắc cành hoa đại

 Mái hậu cung bồ các tha rơm

 Liếu điếu vỗ hoa xoan lả tả

 Lụa sồng nén nghẹn búp thanh xuân

 

Tờ kinh đắp mặt ru bươm bướm

 Chuối chín cây đổ gục đứt dây bìm

 

Đêm Hỏa

 

Về Kinh Bắc tìm chơi đàn kiến lửa

 Ngón tay di sợi chỉ nâu

 

Mây nồi rang úp chụp đỉnh đầu

 Giun đất lòng thòng mỏ con gà trụi

 Võng mắc cành hồng chạc ổi

 Kiều khàn

 Dứt giọng nho sinh

… “buông mành…

 … Con oanh học nói…”

 

Vợ xách giỏ cua đồng nghén nước

 Hoa thui ngọn bí lông tơ

 Đại hạn tháng ba

 Lá lúa rang châu chấu

 

Mải dỗ con

 Mắt cua nghênh giã cảnh giã người

 Càng hy vọng tủa lên trời đợi bão

 

Chiều cơm suông

 Năm ngón tay lằn mông trẻ nhỏ

 

Trăng lên chém đầu ngọn gió

 Cành si bưng chậu máu chát chao

 Cuối năm rì rầm tiếng khóc

 Chàng ôi ngựa tía võng đào

 

Chợt mê thét giữa sân

 Nét mác chữ thiên toạc lưng trâu mộng

 Máu đổ

 Mây đùn

 Gió lộng

 

Sớm mai đi

 

Nhịp 2: Kiếp trước (Giếng ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử)

 

Nắng phù sa

 

Người thơ kể

 

Ướm vết chân bãi phù sa sông Đuống

 Dựng tre làng Cháy

 Sạt năm tầng mây lửa rực Phong Châu

 

Chuột thành than

 Đen xạm dọc sông Hồng

 Kẻ cướp run dưới Rạng-đông-thần-thoại

 

Người thơ kể

 

Thiên vương chẳng nói

 Lúc gật đầu

 Vó ngựa đào ao hồ liên tiếp mãi Đông Anh

 Thiên vương chẳng nói

 Lúc nghiêng tai

 Cò chở nắng tề phi điệp điệp đằng ngà

 Hoa gạo các triền sông

 Giải lối Sóc Sơn bay

 Người thơ kể

 

Thiên vương chẳng nói

 Chân Mẹ còn đê mê cát mịn

 Hội Gióng dong chiêng

 Bé em về nằm khoanh lòng mẹ

 Nghe nghìn muôn năm sau

 Xoa nắn đôi bầu vú lửa

 Sông dài

 Cát bỏng

 Nắng hồng hoang (*)

 (*) Dị bản: (bản in của NXB Văn học 1994)

Sông dài sóng đôi

 Mượt mà gò nổi

 Cánh rừng rưng rưng say

 Hồng hoang hương ấm mấy chân trời

 

 

 

Gió lông ngỗng

 

Lông ngỗng trải bờ lau

 Sông Cầu xuôi bến Hát

 Rập rềnh Mộ Dạ chiếu tân hôn

 

Chuỗi ngọc trai ai gửi lễ mừng

 Vỏ ốc đổ bờ ao sờ sẫm tối

 

Bè lông ngỗng ngược sông Hồng mưa lũ

 Cổ Loa cú rúc chòi canh

 Giếng ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử

 I…i…m…m

 Ứ…!

 I…i…m…m

 Ứ…!

 Mất rồi

 Mười bảy mười ba

 

An Dương Vương ôi

 Bọt bể bồ hòn

 

Sương cầu Lim

 

Chấp chới lá chè non

 Cầu Lim Nội Duệ

 The Hà Đông đón kiệu

 Bỏ quê Xim

 

Ếch Quế Dương xếp đùi tròn gõ trống

 Sáo sậu Phù Ninh

 Rợp nắng

 Về Thăng Long

 

Đá nghển trông con

 Gục đầu sườn núi Dạm

 Lụa vàng xé lộc rắc tro tiền

 Đè ngang khói bếp

 Bặt mùi khoai nướng

 Đầu rau nằm sấp toạc môi

 

Trống Chờ thúc chín tiếng

 Chuông Trõ nện ba hồi

 Mõ Phù Lưu khua bến đò Lo

 

Thấy phẩm Huệ xênh xang năm sắc áo

 Biết lòng chim sáo chim ri

 

Gái Cầu Lim Nội Duệ đã đi

 

Khói Yên Thế

 

Ngựa Ô-truy lao cầu vồng Yên Thế

 Râu cắm rừng quanh ánh mắt sao bay

 Ngựa Ô-truy phi một đêm đến cửa Bồ Đề

 Bờm nhả khói

 Đuôi dựng mây

 Hí lửa dài

 Vó chồm nghiêng soái phủ

 

Nhe răng cười

 

Trai Cầu Vồng Yên Thế đã đi

 

Nhịp ba : Rũ bụi gia phả

 

Đèn nhang 1

 

Ông già thả gậy

 Bắc cầu phao vượt bến

 Bạc đầu lên núi thổi cơm chiều

 

Tay rẽ lá giở trang vàng diễm sử

 Áo Hai Bà dăng mắc

 Rừng liên miên chi chít mộ Hùng Vương

 

Gia phả rũ bụi bay mịn chuốt Dó Vân

 Cụ tổ mười lăm đời

 Cùng ngửa mặt với Trần Bình Trọng

 nhận gươm phương bắc chém

 

Cụ tổ mười đời

 Lăn đá Chi Lăng

 Chẹn ngõ Đông Quan cứu viện

 Gõ ba hồi trống

 Tuyên giờ tuyệt mệnh Liễu Thăng

 

Cụ tổ chín đời

 Mở trang Bình Ngô Đại Cáo

 Nơi thôn xa ba chén chúc mừng

 Chợt thấy mấy hài nhi khăn trắng

 Xẵng canh gà thét đuổi đêm đông

 

Ông tổ năm đời

 Cáo quan dưỡng bệnh

 Tóc trắng bồng bênh trước án

 Câu thơ chểnh mảng gối đầu tay

 Tia hoàng hôn xuyên kẽ liếp

 Dở khóc dở cười

 Đứa cháu đích tôn vừa qua cơn sốt cuối răng

 Ngựa cố tri buộc ngoài ngõ trúc

 Hũ rượu hoàng hoa

 Hịch bốn trấn

 Xé trang Luận Ngữ

 Lau gươm

 Lên đường

 

Đời cha tiến sĩ năm Nhâm Thân

 Kéo quân về cửa khuyết

 Hỏi tội nghịch thần

 Mắt Chúa đảo thiên

 Kéo áo che ngai

 Né mũi kiếm vô hình xốc tới

 Phanh hầm nhét vội một vầng dương

 

Cắn nhọn móng tay

 Thơ cùm lim khắc máu

 

Chợt nghe tin giặc dữ

 Lấp sông san núi ùa sang

 Vùng chặt xích bẻ gông

 Phá cửa

 Cướp ngựa Hình Tham tri

 Phóng lên ải bắc

 Dù nghẹn ngào thuốc độc tam ban

 Đã ngấm tủy xương từ chén rượu đêm qua

 

Đèn nhang 2

 

Dó lụa lật trang

 Sang chữ triện quan tài

 Bóng người cô ruột

 Mây uốn hàng cau cúi ngó vành môi

 Sông trôi xa còn ngoái về

 Xem gót chân uyển chuyển

 Bao nhiêu núi đồi Kinh Bắc

 Dịch sườn thông sang xúm xít

 Quanh hàng mi

 Nắng đọng hồ trong

 

Một sớm đi làm vương hậu

 Cười rũ cỏ hoa

 Rè tiếng trống chấp đòn khênh

 Xà tích dấu đưa em

 Nâng lụa ngang mày câm tiếng khóc

 

Nhìn mây về ngọn cau

 Mái rạ thiu thiu

 

Đi

 Bứt lá xanh giữ cỗi cành gầy

 Níu cuộng lá vàng qua trận bão

 

Phân kim hạ kiệu

 Khói ly đoài thoai thoải khúc hành vân

 

Mấy chục nguyên tiêu

 Thời trân thưa thớt

 Cơn trái nắng kén gì

 Đúng lúc quả đào rơi

 

Vua băng hà

 Đời hậu tắt sao băng

 Sợi tóc trắng quấn vòng Khiêm lăng

 Chẳng dứt

 Rêu lầy vầng trán thuở nào xưa cấy lúa

 Nghểnh xem diều tầng xanh đảo cánh

 Đêm ngủ gối đầu cẩm thạch

 Hồn ma đế bá cũng lang thang

 Đói khát tình thương

 

Đá Quảng Nam quen lệ nghìn năm lấp sống

 Đêm doang tay

 Mời vương hậu

 Ngủ chung giường

 

Chợt nghe tin giặc dữ tràn sang

 Bàn tay quấn tóc khô

 Che mặt

 Về quê

 Chết bên cây ngâu nhòm bể nước mưa đầy

 

Ngựa 1

 

Trấn Kinh Bắc vua nuôi đàn lính ngựa

 Trăm trận đông đoài chập vút bì tiên

 Cắt thịt chia da

 Nhai cỏ úa lối mòn đường quê chát đắng

 

Cô gái nhà ai đến đây cắt cỏ

 Ngửi hơi chồng quanh quất cửa đông nam

 Dù gục khóc dưới chân thành

 Đã mất giải khăn đào hứng lệ

 Người đổi kiếp ra mô đất xám

 Đắp thêm cho vững mái lầu hoa

 Chiều nổi cung đàn phỉ thúy

 Thong dong

 

Trận mạc võng lưng Phiêu-kỵ-tướng-quân

 Phóng giữa Trường Sơn lớp lớp

 San bằng đồi núi lô nhô

 Vó sắt lún ba năm cỏ bồng chẳng mọc

 Tiếng hí dài

 Ba lần triều đại đổi ngôi

 Khoét thủng sáu lần nhung phục

 Đập rập tám lọng vàng đô đốc

 Cha truyền con nối

 Đã xơ lơ

 

Bên cầu lếch thếch trẻ mồ côi

 Nhớ sữa mẹ gặp con ngựa út

 Bờm lông còn ướt

 Đã vểnh tai nghe động trống doanh lâu

 Nếp nếp áo chầu

 Ngã rạp

 Chiến thư

 Dùng dắng

 Tử sinh

 

Ai gặp lúc tuổi măng háu đá

 Óc ngu phu giám mã

 Chạm yên

 Đau rức xương hông

 Quằm gót

 Thốc ngang sườn quật thây tổng quản

 

Hỏng rồi

 Chiến trường không dụng

 Đeo thẻ bài nhà Chúa

 Ngẩn ngơ gặm cỏ

 Quanh quanh cửa bắc cửa đông

 

Nhìn tít mù xa khanh tướng

 Cờ bay bụi lốc

 Nghe tin về lái ngựa quận công

 Xiêm quận chúa tung rung kỳ ngộ

 Tiếng hí khải hoàn chìm lịm

 Bình pha lê nghiêng rượu liệm đêm tàn

 

Xương vụn kéo lên gò đống

 Cháu bốn đời vỗ mả áp tai

 Nghe tràng đạc rộn hoang vu

 Còn thoảng khét mồ hôi

 Ngày huyết chiến năm Thân

 Những Việp-Quận-công Bằng-lĩnh-hầu

 Đổ xuống bủng beo da thị rụng

 

Ngựa 2

 

Có một thời

 Tin lửa đến giục thôn vàng ngái ngủ

 Giặc tràn sang cỏ rạp ải quan rồi

 Đàn lính ngựa vua nuôi

 Bỗng lừ đôi mắt mỏi

 Phi dài vệt khói

 Cánh dăng dăng quan lộ

 Áo nẹp vàng lên chín ngọn Hùng Sơn

 Đường nắng bay từng đám hoả hoàng

 San sát rừng gươm

 Gia Bình Bạch Hạc

 Tràn lên thốc ngược cờ đốc đồng Kinh Bắc

 Trước mặt cào cào rộn cánh

 Tốc xiêm y trăm sắc cung tần

 Trên lưng nắng hạn xém yên cương

 Dưới bụng dầm dề cỏ rướn mình

 Uống nước mưa thổ hoàng bách chiến

 Giặc cuồng vắt chân tháo chạy

 Đầu lâu lăn lóc vó

 Vụn xương hàm cắm mốc biên thùy

 Tít tắp

 Từ Tiên Yên Hà Cối

 Đến Hà Giang dựng Cổng Giời xanh

 Cũng từ thuở ấy

 Cô gái quê thả tấm khăn điều

 Bay nối đường tre liền ngọn thác

 Bạc phau đổ xuống tự vòm mây

 Mắt ướt môi se không nức nở

 Răng đen rưng rức

 Nghiến oán thù tím ngắt

 Nắng Phong Châu

 Cũng từ thuở ấy

 Lính – ngựa vua nuôi gọi lính – người

 

HTrống lớn Giảng Võ đường

 Đội bổng vòm trời cao vót

 Gió thượng du dội lại

 Mưa trung du thốc sang

 Bão hạ du dồn vang

 Ba hồi chiêng lảo đảo các toà lầu

 Cong mái đỏ quanh thành

 Kỳ xí đêm qua ủ gió

 Sớm nay thả hết về nam

 Săn đàn mây bò mộng ngổn ngang

 Loa khua nắng thét mời đô lực sĩ

 Hiệp trấn rón hia lên đài khảo sát

 Tuốt gươm trần trăm vệ sĩ

 Hai hàng tăm tắp võ hoàng môn

 Lệ ba năm nức lòng dòng võ tướng

 Vua kén người giỏi tiên phong

 Vật núi núi lăn

 Ngáng sông sông gãy

 Gái thường dân Kinh Bắc

 Tìm ai đây giỏi phận làm chồng

 Hai tay căng sợi chỉ

 Quỳ ba đêm không mảy động đường tơ

 Các ngả đường bụi đùn lốc nổi

 Thác người đổ qua cửa ngọ

 Cờ xua hết mây đi

 Toà biếc lắng xem

 Trống vẫn thúc

 Sạt sườn Tam Đảo đổ nghiêng

 Loa vẫn rải

 Núi đồi trùng trùng đi bốn hướng

 Chiêng lê thê sông Nhị

 Dăng dài bãi mía bờ khoai đi

 Một khắc cờ im gió đợi

 Trai đô ùn đọng ngã tư thành

 Ai từng buôn ngược bán xuôi

 Chiều hoang rừng xế gặp hùm

 Liều thân cứu mạng

 Tránh hổ vồ học được miếng lèo đuôi

 Ai xuống bể mò ngọc trai

 Tặng người yêu dấu

 Né đuôi cá mập

 Bỗng nên tài dụng phép thúc sườn

 Ai lên núi chặt ngà voi tiến cống

 Giỏi khoa vặn chệch hàm răng

 Lại kìa ai thuở bé thích trèo cây

 Giỏi môn vặn cổ

 Ai vượt thác tìm vợ xưa tu chùa Yên Tử

 Tài ngậm hơi phồng bọng ễnh ương

 Ai vào núi ba ngày ăn một hạt vừng khô

 Chân nhái bén ngáng khoeo mất cựa

 

Lại kìa ai quen trộm gà bà thím

 Miếng nấn đùi trùng tuột các đường gân

 Lại có ai từng quen tranh nhan đoạt sắc

 Tài dùng phép “Chiết yêu điểm huyệt”

 Cò bợ tháng tư mổ rút ruột voi già

 Loa càng dóng dả

 Võ nghệ mười phương

 Hồi hộp bắc đồng cân

 Đây Tổng Dong Võ Giàng vào trước nhất

 Nhiễu xanh vắt hông

 Cử vạc ba trăm cân

 Nước đầy

 Không sóng sánh

 Rồi Bá Ngạc Tiên Du

 Tư Đang Yên Dũng

 Bóp tay vỡ toác đốt tre ngà

 Nghiêng mình thi lễ

 Mắt trầm tư ngó vội khảo đài

 Mấy giải hồng y phơ phất phấn vua bay

 Kia Bảy Kình khét tiếng Yên Phong

 Gạt dóng tre ngà

 Cầm tấm mía nhai ròn

 Thổi bã ngất trời bụi trắng

 

Đến Ba Ngư Siêu Loại

 Trề môi khinh vạc lớn

 Đứng tấn đại bàng

 Lay voi đá cửa dinh

 Nhấc bổng

 Diễu hai vòng bãi rộng

 Phong ba động biển reo hò

 Gái nhà quan bố nuông

 Cho giữ dịp

 Bỗng để rơi dùi trống

 Nín hơi nghe rần rật

 Bão liên hồi

 Trong búp lá măng tơ

 Hồi cồng buông trấn lệnh

 Từng đôi vào

 Sư tử vờn quanh

 Lên điệu “Bạch hầu đoạt trái”

 Sang điệu “Hồng hạc tề phi”

 Gái Tam Sơn đờ đẫn môi trầu

 Ngực yếm phập phồng bưởi ngọt

 Nhiều nho sĩ bút gài tai nghển ngó

 Lòng run nghiêng thời vận Trình Chu

 Thùng thùng trống chuyển nhịp tơi bời

 Nhiễu đỏ bên trái lên

 Nhiễu xanh bên phải xuống

 Nhoè bụi cuốn

 Cột đồng dựng

 Núi đá mọc

 Ngón chân cày đất ba gang

 Vạt cỏ đuôi gà bật rễ

 Đất võ đài nhô lên lõm xuống

 Chòng chành vạn chiếc mắt thuyền

 Cờ xoay hướng chỉ lên tây bắc

 Vảy tê tê gạt gió

 Xô về xem cuộc giao phong

 Đã vào trận léo tay tư

 Chùm trống rụng rã rời từng quả mõm

 Ối thôi

 Bá Ngạc cắn môi vít gót

 Bảy Kình nhắm mắt xuống bò

 Ba Ngư bạnh quai hàm chơi miếng hiểm

 Tổng Dong nghiến răng ken két

 Giật ngang mạng mỡ

 Tử sinh là lúc này đây

 Phẩm tước tay vua khua lủng lẳng

 Cồng chiêng thoi thóp

 Dựng giăng chưa dứt miếng kỳ phùng

 Đốt hồng lạp hai hàng cột cháy

 Ánh lửa loáng lưng gò cật thắt

 Mồ hôi người máu nến

 Rụng song song

 Rạng đông

 Người toàn thắng bước ra

 Ức vạn người xem khiếp sợ

 Cuộc tàn tản mác cát lòng sông

 Đô nhất là ai

 Quê vùng đâu đó

 Vươn tay chạm giời

 Tóc hất sao mai

 Quỳ xuống

 Vọng về cửa khuyết

 Lạy hai lạy

 Lưng vàng rạp cỏ

 Nàng chấm thi khép mắt ngoảnh đi

 Kén được một người

 Nụ cười chếch đôi mắt lạ

 Vồn vã đến

 Thong dong thua

 Rồi lửng lơ đi

 Vua kén đủ mười hai đô uý

 Triệu về kinh ban yến năm đêm

 Giọt rượu hồng hoen bố tử

 Nâng ngự tửu xuống án rải thây trăm họ

 Một lời khảng khái tung hô

 

Mai sớm kéo quân đi

 Nghìn dặm lấn thành xa

 Khúc quân thiều còn múa lượn

 Vành tai sương cóng

 Chiều tím bặt sa trường màu giun chết

 Thân mười thước đổ ngang rụng ngửa

 Phơi mồi quạ xúm đen ngòm

 Bắp thịt đường gân ngày thí võ hôm xưa

 Thoắt đã bầy nhầy phân ngựa

 Đêm vàng Kinh Bắc

 Thuyền ngự đè sen chồm sóng rượu

 Phi tần dâng hoa ngoài Thuỷ tinh cungội vật                                   

 

 

Lính thú

 

Lá cơm nếp dâng hương ngày giỗ mẹ

 Mười lần khấn gửi nước về xuôi

 Lính thú đèo Mây

 Vươn tay chém nứa

 Xọc ngang sườn

 Gục bên khe Vân tuyền nước đọng

 Rừng khô thoảng động gót chân người

 Quẩy gạo thăm chồng đồn thú đèo Mây

 

Cô hàng xóm cũ ở riêng

 Lạt cánh sen buộc nem lá chuối

 cũng gửi quà xưa hội tháng giêng

 Góc tuần trăng chưa vợi mặt sông

 Đòn gánh đã theo củi giạt

 Thúng Nha Kiều nghe nghé mắt xuôi

 Cụm tóc lá sung lạt mở

 Bến về nghe sợi đập làng xanh

 Thôn cũ

 Đầu sân guốc chiếc nằm nghiêng

 Cung quăng đo thân cau

 Vại nước lưng chừng

 Đuôi nắng quệt ngang cành ớt

 Lưng trâu mười tuổi ngủ đồng xa

Thơ Hoàng Cầm ( Tiếp theo )

 

Nhịp 4 :Rồi cùng đi tất cả

 

Trai đời Trần

 

Các con trai đi cả

 Nợ nước xóa ơn vua

 Một đứa cắn đứt dây buồm

 Thuyền giặc đang xô bờ Hàm Tử

 Một đứa theo lốt chân hươu chạy

 xục bóng thù gãy nát rừng Tuyên

 Một đứa cưỡi cá voi quá đảo Cô Tô

 Lùng mạch sóng đoạt lương

 Nghìn hộc thóc

 Một đứa ngâm thơ đàn gảy Vũ Hầu

 Hổ báo cúp đuôi lè lưỡi máu

 Lê thê từng vệt đến Yên Kinh

 Riêng một đứa gánh đôi bồ xiêm áo

 Tìm ẩn nẻo Chí Linh

 Gặp mũi tên lạc gió

 Chết trong xó núi

 Vợ không kịp chôn chồng

 Lại lõng thõng đôi bồ chạy giạt

 Còn đứa cuối cùng mười bốn tuổi

 Gói rau xam rau má

 Ruộng nhà chấm muối

 Côn Võ Tòng thẳng tới miệng beo gầm

 

Gái Hậu Lê

 

Dây lạc tiên vắt qua tường đổ

 Đuôi cằn nắng xế ngựa lưu ly

 Sợi tóc ba nghìn dặm

 Ôi giải xiêm đào ngày tuyển lựa hoàng phi

 Một nắm cơm khô rạn túi gương tàu

 dùng dắng bẻ đôi chiều nắng quái

 Sét đánh phía kinh kỳ

 Biến mất Vọng Tiên lâu

 Qua núi Tam Tầng nghe tiếng hát

 Cô gái điên

 Ôm xác chồng

 Lội đồng chiêm

 Đàn quạ khoang mang vệt bóng trăng thừa

 Ném xuống cầu em cởi áo chiều xưa

 

Hoàng phi bện dây đay chằng lụa thủng

 Từng đêm vuốt bụng

 Nổi vết bào thai

 Khóc âm y trước lúc ra đời

 

Đứa trẻ

 

Mẹ đắp vai con mảnh chăn rách

 Bụi dứa dại đầu bờ rẽ lối

 Thôi con về ở với cha

 Con về

 Giấu giếm những bàn tay

 Nâng vú

 So đũa

 Lau mắt

 Phơi dây áo thềm sân

 Bố chặt cây sung cây khế

 Cắm mía mía không lên

 Nắng bừng lùm ớt chỉ thiên

 Ai trồng mà mọc

 Đến một ngày nhà đông khách

 Khen con ngoan

 (… con ngoan !)

 Kiến mở cờ trên mẹt đường phên

 Gấc đỏ mặt ngoài vườn

 Gặt non nếp dự

 Con trẻ tung tăng nhà đám

 Nấp chân cây rơm

 Dùi xe điếu

 Trợn mắt

 Thổi căng tròn bong bóng lợn

 Cười nô ngoài ngõ

 Nhận chị nhận em

 Nhận thêm chú bác ông bà

 Những người đâu ta

 (…đâu xa…)

 Thoáng đã chiều hôm thảng thốt

 Lạnh so vai

 dựa cột

 Cầm ủ ấm ấp hai con mắt

 Hơi mẹ ơ hờ chỏm tóc tơ

 

Đêm được nằm mẹ gối đầu tay

 Tiếng ai rả rích chuyện gì khuya

 chợt tỉnh

 … mắt dùi bóng tối

 

… À…ơi…

 Câu ru mẹ mới

 Có bàn tay vỗ tóc…

 … ngủ đi con

 

Con tìm những thứ được rồi đây

 Áo bông đón rét có

 Áo lụa sang hè có

 Mẹ mới may

 Ướm áo tìm đâu

 

Gọi mẹ bao giờ mẹ cũng thưa

 Giọng bưởi đường

 Không thấy tiếng

 Cha dấm dúi cho con

 đồng xèng mua kẹo

 đồng xu bánh dẻo

 

Tìm trong lá bánh thấy gì

 Mắt mẹ ơ hờ thoảng bóng mi

 

Con nghịch cha không mắng

 Mẹ gọi về chia miếng bánh đa

 Ngày tha hồ đánh khăng đánh đáo

 Tối về lăn lóc ngủ

 nói mê

 chim gì bay

 

Con tắm ao lội ngòi

 tồng ngồng đi tìm hoa dại

 không chết đuối không ai hay

 Không lạc nhà

 mẹ vẫn phần cơm đây

 

Có hôm cả nhà sắm sanh áo mới

 đi cỗ giỗ bên sông

 Có giỗ bên sông chừng mưa xa

 phập phồng bong bóng

 con ở lại coi nhà

 

Mẹ đã vuốt mép trầu giục giã

 Hạ cổng chống rồi

 Cánh sẻ chợt bay vù mái bếp

 Ngồi giữa sân xua xua đàn kiến chỉ

 kéo đông ngòm ăn giỗ mẹt khoai lang

 

Mẹ ơi

 Mẹ ơi

 Con không mong giời mưa

 (mưa không thả được diều)

 bây giờ mẹ ở đâu

 

Đêm khoanh tròn ngủ tay bưng đầu

 Ngón cụt thói quen rờ ngực yếm

 ghì mảnh sành thia lia

 

Người không về

 

Én bay đi không hướng tìm xuân

 Lá ngọt hết rồi

 cỏ chát cứ phân vân

 muốn nuôi người còn sợ đau dạ người

 

Rêu xoá vết chân bạn cũ

 Chè tươi cáu miệng bát đàn

 

Về ngóng tiếng em thơ

 bé dại đi rồi

 sân lặng

 

Về ngóng cô nàng xưa cắn chắt

 cười lia dăm hạt cốm

 Giờ đã nằm sương giậu lả tầm xuân

 Răng nghiến chặt nắm cỏ gà phơ phất ngọn

 

Ngựa trạm hí ngoài dinh hiệp lộ

 

Gài lá thư nổi nênh cửa Thần Phù sập bão

 gửi đến miệng em theo cánh én thuỷ triều

 Gió lật trang thư lầm cát đỏ đường quê

 

Mình ơi

 “Anh đi lúa chửa chia vè…”

 

Đi xa

 

Nắng gấm Ba Vì phủ khắp Lục Đầu giang

 Mồ hôi đá Tam Thanh gói lụa sông Hồng

 Mắt sư nữ chùa Thầy

 thoắt mang màu xanh xứ Lạng

 Tay búp măng người yểu điệu Thăng Long

 nâng một dãy Cai Kinh chạy tắp đến Cao Bằng

 

Vạt áo chàm vòng bạc

 sương muối đầu năm

 Nùng Văn Vân gọi trâu Tây Hồ thức giấc

 đi gõ mõ Hưng Yên

 rủ Chử Đồng lên Đồng Đăng ngả gỗ

 

“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa”…

 Hỡi ơi Tô Thị

 bế con về quê xưa

 

Rồi vào xuân mọi ngả

 Núi xuân nghiêng đầu

 Sông xuân vừa chợp mắt

 đã gọi đò Tú Xương

 canh tư canh năm

 sang bên này tát nước ruộng Xuân Hương

 

Đi mãi

 

Đã đi cả

 Những củ khoai mọc mậm góc nhà

 Hạt vải gậm giường

 phát du từ mùa tu hú trước

 

Những chùm tóc ngô nâu gác bếp

 Khói vỗ về luống đợi lửa rang

 

Những hạt đậu xanh già nắng

 óng mùa thơm

 trút nhanh tuổi trẻ miệng vò

 

Những bồ thóc tám

 đong từng đấu nắng ngập ngừng xay

 

Vợi hết mùa đông rụi lửa

 Những khúc sắn lùi vàng đọng

 màu da suối cạn Võ Nhai

 

Đã đi cả

 Cơi trầu chạm ngõ

 cau tứ thì long hạt thâm quầng

 Vại cà váng mốc

 bàn tay khua xạm nhẫn trao duyên

 

Nồi cám lợn kê vàng khê khét

 Mắt bần thần tơ mơ dựng rạp

 

Cối giã treo dây chão nát

 tay nhầm nắm phải bàn tay

 

Cối xay đay tiếng than dài

 xoáy thân ốc vặn

 

Đã đi cả

 Đường kiến chân rêu có nghe dế gọi

 hẳn là con dế đầu si

 

Ong rưng rưng bay đứng nắng mai

 hoa mướp rơi đầy cổng ngõ

 

Tổ chích choè cây mít

 tiếng chân truyền kẽ lá phân vân

 

Triền miên đêm hè

 diều sáo lửng lơ

 tiếng nói xa xưa

 cùng ai chẳng nói

 Đã đi rồi

 

Những cuộc dọn nhà

 tuần du trang sử rách

 

vương quên mái tóc

 sợi tơ trời

 óng ánh mạng sương thu

 

Nhịp 5: Còn em (Cỏ Bồng thi phải cheo leo mỏm đá)

 

Cây tam cúc

 

Cỗ bài tam cúc mép cong cong

 Rút trộm rơm nhà đi trải ổ

 Chị gọi đôi cây

 trầu cay má đỏ

 kết xe hồng đưa Chị đến quê Em

 

Nghé cây bài tìm hơi tóc ấm

 Em đừng lớn nữa Chị đừng đi

 Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa

 Ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì

 

Đứa được

 chinh chuyền xủng xoẻng

 Đứa thua

 đáo gỡ ngoài thềm

 Em đi đêm tướng điều sĩ đỏ

 đổi xe hồng đưa Chị đến quê Em

 

Năm sau giặc giã

 Quan Đốc đồng áo đen nẹp đỏ

 thả tịnh vàng cưới Chị

 võng mây trôi

 

Em đứng nhìn theo Em gọi đôi

 

Lá diêu bông

 

Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng

 Chị thẩn thơ đi tìm

 Đồng chiều

 Cuống rạ

 

Chị bảo

 Đứa nào tìm được lá diêu bông

 Từ nay ta gọi là chồng

 

Hai ngày em tìm thấy lá

 Chị chau mày

 Đâu phải lá diêu bông

 

Mùa đông sau em tìm thấy Lá

 Chị lắc đầu

 trông nắng vãn bên sông

 

Ngày cưới chị

 Em tìm thấy lá

 Chị cười xe chỉ ấm trôn kim

 

Chị ba con

 Em tìm thấy lá

 Xoè tay phủ mặt chị không nhìn

 

Từ thuở ấy

 Em cầm chiếc lá

 đi đầu non cuối bể

 Gió quê vi vút gọi

 Diêu bông hời…

 …ới diêu bông…!

 

Qua vườn ổi

 

Em mười hai tuổi tìm theo Chị

 Qua cầu bà Sấm, bến cô Mưa

 Đi…

 ngày tháng lụi

 tìm không thấy

 Giải yếm lòng trai mải phất cờ

 Cách nhau ba bước vào vườn ổi

 Chị xoạc cành ngang

 Em gốc cây

 - Xin chị một quả chín!

 - Quả chín..

 quá tầm tay

 - Xin chị một quả ương

 - Quả ương

 chim khoét thủng

 Lẽo đẽo Em đi vườn mai sau

 Cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng.

 

Cỏ bồng thi

 

Chị đưa Em đến bến này

 Cheo leo mỏm đá

 

Trước vực

 Sau khe

 Thòng lọng tơ gì quấn gót

 Tua khăn buông còn buộc búp hoa lan

 

Ù ù gió thổi

 Em vọng ai đâu mà hóa đá

 

Không trói mà không đi

 không canh gà

 không thu không

 Mắt không mở

 đừng khép

 Kìa dây muốn dại kín Em rồi

 

Lắc đầu hoa tím rụng

 ngó rừng xanh Em hỏi ngọn nguồn

 

Biết rồi

 Thôi

 

Nghe hoa tím hát

 

Ngày mười bảy tuổi

 Chót chơi đố cỏ Bồng Thi

 Cỏ Bồng Thi phải cheo leo mỏm đá

 Ù ù gió thổi

 Không canh gà

 Không thu không.

 

Nước sông Thương

 

Em vắt quả cam vàng đầu ngọn sông Thương

 Mắt tròn cối xay

 Chẳng bao giờ ngủ trước sao mai

 

Ngày Chị bảo Em quên

 Tranh tố nữ long hồ gián nhấm

 mất chân đi

 má đội tổ tò vò

 Cuốn chiếu xa rồi

 thơ thẩn vách chiêm bao

 

Ngày Chị bảo Em quên

 Con bạc má lại về cành chanh

 thương Em hay giận Em chả biết

 

Ngày Chị bảo Em quên

 Tắm sông Thương không mát

 Lên ngọn Kỳ Cùng vục nước rửa chân

 không mát

 

Về đuôi mắt xưa nước suối Cam Lồ

 không mát

 

Ngày Chị bảo Em quên

 Em tơ tưởng sao bắt Em đừng nhớ

 

Tha cho Em

 Tha Em

 “Sông Thương nước chảy đôi dòng…”

 

Tắm đêm

 

Em gánh gạo về dinh phú hộ

 Nứt vai thành sẹo lá lan đao

 

Em chở nứa sang bờ duyên phận

 Tay đóng bè chân xuôi thác ghềnh

 Tuổi đã rách vá gì cho kịp

 Da mỡ đông tuốt sẹo ngang thân

 

Tung tóe dội gầu trăng nước giếng

 Mát lùa kẽ tóc

 Còn bủn rủn sẹo ngang sẹo dọc

 Vắt áo nghe thầm tiếng vải kêu

 

Dòng dây vục mãi đêm hồ tinh

 Ấp vú mình trần con dế trũi

 

Cành tre trải áo nép thân hình

 Phấn mùa trăng thoa mờ sẹo tuổi

 

Ai rình Em

 Ai ngó Em

 Chợt rùng mình níu đêm đồng lõa

 Gai đâm xiên mười ngón ân tình.

 

Đếm sao

 

Mài cạnh mảnh gương mới vỡ

 Đến bao giờ tròn

 Đừng cứa tay mình câu hát ơi

 Một tiếng buông khoan giữa nhịp

 Vì chơi với điệu lúc tàn trăng

 Ai ngờ để lòng Em muối đổ

 Đông đoài đuổi mãi sao Hôm

 Một thoáng gật đầu

 Giữa trời gãy cánh

 Nửa mắt nhìn chênh

 Giếng cạn mùa mưa

 Một ông sao sáng

 Hai ông sáng sao

 ………………………

 Đếm chưa xong

 Em chớ

 Gật đầu

 Câu hát theo người leo ngọn thác

 

Đếm nắng

 

Sơn ca chắt nắng

 Chuỗi trân châu trút xuống mâm vàng

 

Tiếng gì dưới ấy

 có phải tiếng vang

 Tìm tiếng vang mình

 Chui vào cửa hẹp

 Cửa khép

 Trách gì ai sáo trúc gây mê

 Trách gì ai cặm cụi vót tre

 Đan lồng vàng tía

 Ngỡ trời mây trăm sắc ước ao

 Chị bỏ Em đi

 Cánh nhẹ trên sông

 Chiếc lá mơ rừng

 Hát lừng ngọn gió

 Khóc đỏ chiều quê

 Nhớ về mắt Em

 Ới thương là thương

 Động gót mưa xuân

 Cưới mặt trời hè

 Ới thương là thương

 Gà con nhớ mẹ

 Cỏ vàng rung chân

 Ới thương là thương

 

Đếm giờ

 

May cho Em tấm áo sồi non

 Làng không mở hội

 Cất cho Em hương quế nước trầm

 Thẫm đường má răn

 Chim vàng phải tên dưới bụng

 Giận mình bay quá cao

 Bướm ngũ sắc rã rời tay trẻ xé

 Trách mình quá lộng nắng tàn xuân

 Trốn tiếng Chị cười

 Nấp mắt Em trông

 Trèo ngọn núi Neo đá chởm tai mèo

 Mát chân rời rợi

 Đừng ví thân Em hạt gạo tám xoan

 Đừng vẽ hình Em hoa đào hoa lý

 Đừng hát tình Em sóng vỗ mưa về

 Đừng tạc mặt Em lệch mái thùy cung

 Đợi sau khi Em qua đời

 Sẻ đồng thành phượng núi

 Cây đa đường xứ

 Lớn lên ai hay

 Vẫn cơn gió cũ

 Bao nhiêu chiều vụn đá

 Mắt nắng thay mùa mở lộc non

 

Theo đuổi

 

Em ơi thử đếm mấy giêng hai

 Đêm hội Lim về

 Đê quai rảo bước

 Đuổi tà lụa nhạt

 Ánh giăng đầm thấm đường sương

 Ấy bởi thương Em

 Vườn khô bỏ ngỏ

 Gió vào ra bưởi trụi hồng thui

 Ấy bởi thương Em

 Mái nhà um cỏ

 Chim vào ra vách đứng cột ngồi

 Em về đồng chiêm đất rạn chân chim

 Em đi mưa ngâu nước ngập đồi chè

 Hồ nghe đêm hội ới a

 Lại xót mắt Em mi trường khép bóng

 Lòng tay êm mát rừng tơ xa

 Lại xót tay Em đêm trường ru võng

 Rừng chân mây chưa động sấm quê nhà

 Chân Em dài đi không biết mỏi

 Má hồng Em lại nổi

 Đồng mùa nước lụt mông mênh

 Lưng thon thon cắm sào Em đợi

 Đào giếng sâu rồi

 Đừng lấp vội ngày xanh

 Lý lý ơi khát khô cháy giọng

 Tình tình ơi chớ động mành thưa

 Chìa vôi quệt gió hững hờ

 Bờ ao sáo tắm bao giờ…

 …hở Em.

 

Nhịp 6: Điểm trang (Những Hội hè Kinh Bắc)

 

Thi sợi bún

 

Những hội hè Kinh Bắc

 Có thi nhau giật giải pháo toàn hồng

 

Thi sợi bún

 Khi quất

 Quấn năm vòng cột đình

 Không đứt

 Giã bột mười đêm

 Pháo nổ không nâng hai hàng mi mọng

 Mai về vỡ vại long chầy

 Đứt quãng hoa niên

 Mai về lại dựng giường dựng chiếu

 Lúc dựng giăng

 Tóc quấn cột nhà

 Con trăn đen thoi thóp

 Ơi đêm Đông Hồ

 Nát nhầu thân tố nữ

 Sợi bún ngà vá lại dung nhan

 

Thi ăn mía thổi cơm

 

Thi ăn mía thổi cơm

 Bụng đâu chứa hết những bãi sông xanh ngắt

 Lửa đâu xém cánh tay bột nặn

 Cháy phù sa ngọt sắc Yên Viên

 Cơm vừa chín tới

 Má xuân hồng

 Lồng khói tím

 Lịm sang thu

 Bãi mía sông Cầu reo đáy bát

 Ngửa mặt hứng mưa đồi cỏ ngát

 Nguôi dần cơn sốt bỏng môi hoa

 

Thi đánh đu

 

Luồn tay ta ôm say

 Giấc bay lay đỉnh núi

 Tuột hàng khuy lơi yếm tóc buông mành

 

Đùi chảy búp dài thon nhún vội

 Bàng hoàng tia chớp liệng nghiêng xanh.

 

Thi hát đúm

 

Chiếc pháo xì loay hoay

 Thềm gạch vỡ Bát Tràng

 Chuỗi pháo đùng thèm bay

 Bùng giấy đỏ liều thân

 Lụa xé đôi tay

 Bến nhức gan tằm

 Người bỏ chồng vào thi hát đúm

 Chệnh choạng lối mưa

 Nón quai thao úp bụng

 Người chồng bỏ cũng thi hát đúm

 Gót chân bùn ngõ tối

 Tuổi lội

 Tầy đường mới sống trâu

 Trăng khuya các bờ sông

 Chụm sao mai soi hai mái đầu

 

Thi dệt vải

 

Lòng Em phau phau

 Tìm đâu mấu sợi

 Một tấm trường giang

 Đèn rọi võ vàng

 Thoi chim khách đếm năm đi vút

 Vải gột hồ hai má gột môi hoang

 

Thi thêu gấm

 

Từ thuở bé biết đâu

 Chim uyên chim thúy

 Kim se dây mà rẽ thúy chia uyên

 Một mái rạ vàng ấm Châu Long Dương Lễ

 Ngơ ngẩn đường khâu áo lạnh Lưu Bình

 Ai luồn kim giải áo dở dang mơ

 Chàng Lưu ứa nước mắt

 Bước ra thềm hong mưa

 

Hội chen Nga hoàng

 

Chen Nga Hoàng

 Len chèn nguyệt tận

 Phụt nửa đêm đèn nến lặn

 Ba hồi trống giãi dầm dề

 Lim dim bao dong ba nghìn mắt Phật

 Tóc tung tình bờ xôi ruộng mật

 Quanh co toả bốn hướng đình

 Từng ngôi sao mắt người lung linh

 Ai gọi… im lìm

 Í ới… sao chìm

 Đôi đôi ú tim… tìm

 Oà ập… cánh chim… e ấp

 Hỗn mang mê vô cùng

 Địa đàng say tới tấp

 Không giờ không

 Thăm thẳm nguyện cầu hơi em nồng

 Nhẩn nha thôi

 Ôi dùi nhẹ buông tênh… tang vờ câm

 Ai nện xin thương ngầm

 Gõ hờ đôi ba tiếng cuối buồn vang âm

 Vì tay ải tay ai

 Chưa nguôi tê mê thầm

 Chợt bừng nghìn cây nến đỏ

 Như sững sờ nghìn tội

 Biết lội về đâu

 Cho qua cơn thịnh nộ sầu

 Cụ Tiên chỉ già tuổi tình cạn kiệt

 Tóc héo bưng đầu

 Lùi lũi tiếc thời xa

 Khua gậy cùn rập mấy thời sau

 Tơ xanh ngây ngây đêm sông Cầu

 Em anh giờ lẩn trốn bụi bờ đâu

 Thì trói cả đôi

 Xin trói cả đời

 Cột lim ư gãy rồi

 Giường nhung ừ sóng đôi

 Sân đình

 Lại Thị Mầu í a tung tình

 Rung rinh

 Chờ

 

Hội Gióng

 

Mùng Tám tháng Tư

 Không về hội Gióng

 cũng hư mất đời

 (Ca dao)

 

Trăm đôi gái trai anh tú

 Ngựa lồng bãi rộng

 Gươm thần phun lửa đốt môi

 Chú bé lên ba là tướng võ nhà Giời

 Ai ngờ đã bốn nghìn năm manh mối

 Xuân đến lụa the

 Cầm gậy tre đi se duyên cô Tấm ông Hoàng

 Vớt Trương Chi về gấm đỏ lầu Tây

 

Hội long khám

 

Hội Long Khám đêm sao chi chít

 Bồ đề mở lá thả ni cô

 Thiện nam vin khói đi quanh chùa

 Mơ Từ Thức

 Gặp ngay quan huyện khác

 

Mẫu đơn một nhành rơi

 Ngọc lan mười búp chắp

 Nến tắt sao không tắt

 Giải Ngân hà giải chiếu nâng hoa

 Hội vãn rồi quan huyện về nhà

 Quan-huyện-khác lại làm Từ Thức

 Ni cô ơi

 

Hội Vân Hà

 

Lợn ba trăm cân

 Kềnh xuân lún ngõ

 Khói bếp lun phun mưa

 Mép chàng trai lún phún đương thì

 Tết Vân Hà làng mở hội thi

 Núc ních từng đôi chật đường nghẽn lối

 Cỗ ba tầng

 Giò lụa nổi

 Giò mỡ chìm

 Nem bối rối

 Lá sung bay rụng đầy nong

 Vại bỗng ngất ngư cười cải mả

 Bát bỗng lim dim

 Tìm mắt gái muộn chồng

 Sân một sào xôn xao

 Sồi lụa thưởng

 Mười lợn thi đi chật cổng đình cong

 Đêm phường chèo trống giục

 Vùi lấp nồi niêu

 Hồi tiếu cùng eng éc

 Khúc giáo đầu bi tráng lợn nhà kêu

 Ba ngày tiếng dao phay liếc nhanh thành vại

 Ba đêm chim lợn toác sương gieo

 Chai đại lăn kềnh giữa chiếu

 Chai bố chéo khoeo

 Vật vờ góc ban thờ

 Chai con gậm giường rụt cổ

 Tuý luý mềm soải tóc khóc ngu ngơ

 Hội tàn men

 quẩn quanh nghiêng ngửa

 Giật yếm đào túm vội đôi bầu

 Bỗng đốp chát mắt đom đóm nổ

 Mịt mù hơi rượu miếu cô Mau.

 

Hội đềm tám vua triều Lý

 

Hội đền tám Vua triều Lý

 Còn đau thớ gỗ phượng rồng

 Chen chúc khoảng trời thương nhớ

 Tạnh thời gian

 Tám tượng ngồi mê tà khói mỏng

 Để thạch sùng vào bụng rỗng

 Chép miệng vàng son ngút khói tan

 Đôi lính Chiêm Thành canh cửa Việt

 Quê hương quê hương xa không về

 Tù binh gửi máu vào tay chạm

 Đứng cửa còn trông thấy đất Chàm

 Bát đế ngoái nhìn trang sử ố

 Nghìn năm sao chẳng tuyệt nòi tham

 Giá như tế lễ uy linh thế

 Được tái sinh nhiều đấng minh quân

 Hẳn Công Uẩn đã tâu Thượng đế

 Treo trống hồn vua lắng tiếng dân

 Hỡi ơi Chiêu Thánh sao không nói

 Người ta lo dựng nghiệp lâu dài

 Ai lo việc cưới chồng công chúa mồ côi

 Ví như không có Trần Thủ Độ

 Mắt dại Vua Bà biết chọn ai

 Quân cờ chí chát đêm Kinh Bắc

 Mấy ngón tay tính nước vào ra

 Vân vê nhẵn nhụi cạnh ngà

 Tròn lăn cung cấm trẻ con chơi.

 

Nhịp 7: Rồi lại đi (Bước sắp qua cầu nghẹn tiếng)

 

Luân hồi

 

Con đấy ư

 Con đã về Kinh Bắc

 Những cỏ Bồng Thi

 Với dế đầu si

 Những lá Diêu Bông

 Với đôi xe hồng

 Luân lưu thụ thai qua chín đời

 Đằng đẵng

 Đến khi con lọt lòng

 Cây đu đủ sau nhà vừa bấm ngọn

 Đội mũ niêu đen

 Đi trong đêm mưa dầm

 Mẹ đau trở dạ

 Sinh con ra

 Tiếng tù và xé canh ba

 Báo hiệu cơn giông nín lặng

 Trống liên hồi ra đi

 Ngăn trận bão bao la

 Trong giọt lệ cuối hàng mi

 Con đấy ư

 Mười ngày không khóc

 Mười thày lang dờ dẫm

 Ven giường ẩm ướt

 Mười đêm

 Tiếng trống chèo vuốt ngực Châu Long

 Bước “sắp qua cầu” nghẹn tiếng

 

Đợi mùa

 

Mùa chưa về

 Tu hú gọi Em đi tìm Mẹ

 Dẫy tre xa giấu biệt giải khăn điều

 Khi gậy nắng kẻ ăn mày đã quăng sau núi

 Hàng tre nhả yếm

 Trả mẹ về

 Lều dột mưa đêm

 Thì Chị đi mấy lối chân chim

 Để Mẹ về bao phương bèo nổi

 Riêng Em nằm trơ đợi mai tu hú gọi

 Như không có Mẹ từ năm biết gọi gà

 Chiêm chiếp xó nhà mưa mọt

 Xanh gì chỏm tóc lên ba

 Khi cọc cầu ao dứ mắt chuồn chuồn

 Buồn ngủ rã rời cánh mỏng

 Em đi mãi những đường làng ngơ ngắt

 Nhặt lá đa đan mũ Chiêu Quân

 Hát vẩn vơ lời sẩm chợ

 Gậy mù ngửi hơi đường lạ

 Bóng cây rợp mát lưng gù

 Chiều lá dứa tít mù chong chóng

 Gió mát này Mẹ quạt

 Từ chênh chếch nẻo tàn trăng

 Có cô láng giềng trái đào vắt vẻo

 Hỏi đằng ấy đi đâu

 Em lên núi xa hái cỏ thiên đồng

 Cài tóc Chị sênh tiền gõ nhịp

 Đánh bồng trên mái đình cong

 Em bước vào đình

 Ôm cột mấy người ôm

 Em rẽ sang chùa

 Lay chân hộ pháp

 Sau chùa tát đêm một chạp

 Gầu giai ai vớt Chị ơi

 Loà loà thân trăng

 Chị lỡ xe hồng

 Mẹ đi lấy chồng

 Cỗ cưới chênh vênh khoai luộc

 Mật vàng mọng rách vỏ nâu non

 Cắm bốn que tăm

 Khênh nhị hỉ đẫy lưng lợn béo

 Phần Mẹ khúc đuôi tròn

 Phần Chị nửa mình thon

 Phần Em hai chân ngơ ngác

 Tăm cắm chật bình hương

 Em xuýt xoa tập khấn

 Chắp tay nhìn nghẽn nghìn phương

 

Có hôm Em lần xuống bếp

 Cậy cháy sành vỡ toác trôn niêu

 Một con mèo mướp ruỗi chân chiều

 Lưỡi gió liếm gio vờn tóc rụng

 

Tưởng như Mẹ về

 Vai áo toạc ba vá chằng tơ dứa

 

Tưởng như Chị về

 Tóc óng đêm xưa giờ tua túa rễ tre

 

Bao giờ Chị về

 tóc phủ vai Em chiều hương nhu

 

Bao giờ Mẹ về

 buộc yếm đào phai vỗ hát ru

 

Khấn thầm như gặp Chị

 mắt nứa cứa tay Em

 vẫy đón đầu làng

 Khấn thầm như Mẹ lỡ đò ngang

 miệng hé hạt na nhoà bến vắng

 cổ tay tròn đẫn mía gie

 

Không

 Bầu Mẹ không tròn

 Bưởi Chị chưa hoa

 

Đã hết năm tu hú gọi rừng già

 Đã sang mùa

 Tu hú ngủ rừng xa

 

Quà mẹ

 

Quà gửi con

 chùm nhãn Hưng Yên

 Đừng gặm hết ngày thơ trẻ

 

Nửa đêm

 Thuyền thúng đồng chiêm

 đi tìm hướng làng xa

 Ngọn cây đa trang hoàng khúc múa

 đàn cá song lơ lửng tự tình

 ổ sáo đen mái chèo khua vỡ trứng

 Gà lên chuồng chuông động bình minh

 

Đi tìm con bướm bạc đầu

 Liếc qua hoa nhài nhuộm nâu

 Đi tìm tóc rối đổi kẹo

 Cụm tóc hờn ghen cài kẽ liếp

 Lược bóng gương trong

 Sợi tóc kéo mùa xuân

 lìa bỏ bãi làng

 

Đi tìm đôi ếch cõng mưa rào

 khai giá thú

 Mình con đốt đuốc đến mừng

 

Đi tìm chổi xuể gậm giường um khói

 đêm tân hôn

 đêm giao thừa

 

Đi tìm vành khăn chít đầu ngải cứu

 Khăn mùa hoa đào

 Khăn mùa hoa mai

 

Cúc vàng sóng sánh

 khăn nhiễu tam giang

 Đâu chùm hoa lý

 đưa trăng về làng

 

Cánh cò bống bang

 đậu sừng con nghé

 Con ngoan con nhé

 Con đi tìm Mẹ

 Tre dậm lông mày

 Ao bèo chột mắt

 Bàn tay mẹ cắt

 gửi quà cho con

 

Ơi chiều Kinh Bắc

 Chuông chùa nhuộm son

 

Nhớ

 

1- Lá

 

Có nét buồn khôi nguyên

 Chìm sâu vào đằng đẵng

 Có tiếng ca ưu phiền

 Chìm sâu vào lẳng lặng

 Và dai dẳng em ơi

 Là cơn say khát lá

 Cứ thon mềm xanh lả

 Trong men quê bồi hồi

 

2- Ngõ

 

Sao không thể khép cửa buồng thương nhớ

 Còn phong phanh manh áo

 Dắt về những ngõ làng xưa

 Sao không quên chiều đổ mưa

 Con rô rạch ngược

 Nướng cong mùa thơ

 Cơm nghèo thuở trước

 A bê nghé ơi

 

Mưa Thuận Thành

 

Nhớ mưa Thuận Thành

 Long lanh mắt ướt

 Là mưa ái phi

 Tơ tằm óng chuốt

 Ngón tay trắng nuột

 Nâng bồng Thiên Thai

 Mưa chạm ngõ ngoài

 Chùm cau tóc xoã

 Miệng cười kẽ lá

 Mưa nhoà gương soi

 Phủ Chúa mưa lơi

 Cung Vua mưa chơi

 Lên ngôi hoàng hậu

 Cứ mưa Thuận Thành

 Hạt mưa chưa đậu

 Vai trần ỷ Lan

 Mưa còn khép nép

 Nhẹ rung tơ đàn

 Lách qua cửa hẹp

 Mưa càng chứa chan

 Ngoài bến Luy Lâu

 Tóc mưa nghiêng đầu

 Vành khăn lỏng lẻo

 Hạt mưa chèo bẻo

 Nhạt nắng xiên khoai

 Hạt mưa hoa nhài

 Tàn đêm kỹ nữ

 Hạt mưa sành sứ

 Vỡ gạch Bát Tràng

 Hai mảnh đa mang

 Chiều khô lá ngải

 Mưa gái thương chồng

 Ướt đằm nắng quái

 Sang đò cạn sông

 Mưa chuông chùa lặn

 Về bến trai tơ

 Chùa Dâu ni cô

 Sao còn thẩn thơ

 Sao còn ngơ ngẩn

 Không về kinh đô

 Ơi đêm đợi chờ

 Mưa ngồi cổng vắng

 Mưa nằm lẳng lặng

 Hỏi gì xin thưa

 Nhớ lụa mưa lùa

 Sồi non yếm tơ

 …………………..

 Thuận Thành đang mưa…

 ………………………

 

Nhịp cuối: Về với ta (Ngủ say rồi đôi cá đòng đong)

 

 Xong cuộc tuần du

 

Tuần du chưa vợi khối ân tình.

 

Vĩ thanh

 

Thai nghén quê xưa

 Về kinh bắc lọt lòng

 Qua tám nhịp tuần du dạ khúc.

 

Về với ta

 

Ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh

 Đi mãi tìm sim chẳng chín

 Ta lên đồi thông nằm miếu Hai Cô

 Gặm cỏ mưa phùn

 Dóng dả gọi về đồng sương

 Đôi ba người lận đận

 Đêm nay mẹ chẳng về chuồng

 Ta con chào mào khát nước

 Về vườn xưa hạt nhãn đã đâm mầm

 Cây ổi giơ xương

 Chống đỡ mùa đông xập về

 Đánh úp

 Ô này tám đỏ ra hoa

 Ta con chim cu

 Về gù dặng tre

 Đưa nắng ấu thơ

 Về sân đất trắng

 Đưa mây lành những phương trời lạ

 Về tụ nóc cây rơm

 Ta ru em

 Lớn lên em đừng tìm mẹ

 Phía cơn mưa

 

Ta con phù du ao trời chật chội

 Đứng cánh bèo đo gió lặng tìm sao

 Uống nước mắt con vành khuyên nhớ tổ

 Vừa rụng chiều nay

 Dềnh mặt nước hương sen

 Ta soi

 Chỉ còn ta đạp lùi tinh tú

 Ngủ say rồi

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét