Thứ Hai, 18 tháng 4, 2022

PHONG TRÀO CỘNG SẢN, CÔNG NHÂN QUỐC TẾ

 


Quốc tế I (1864 - 1876)

Ngày 28-9-1864, một cuộc họp do Đại biểu công nhân Pháp và Anh triệu tập được tổ chức ở Luân Đôn để phản đối sự đàn áp cuộc khởi nghĩa ở Ba Lan năm 1863, đã quyết định thành lập tổ chức công nhân quốc tế với tên gọi Hội Liên hiệp công nhân quốc tế (Quốc tế I). Các Mác là người tổ chức Hội nghị, được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương; được giao soạn thảo Tuyên ngôn và Điều lệ. Tuyên ngôn kết thúc bằng khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại !''.

Xem chi tiết

 

Quốc tế II (1889 - 1914)

Năm 1889, phong trào công nhân quốc tế có nguy cơ bị chia rẽ, Ăngghen đã tiến hành thu thập chữ ký và ra lời kêu gọi triệu tập Đại hội thành lập một tổ chức quốc tế mới. Việc làm đó của Ăngghen đã được sự đồng tình ủng hộ của các nhóm xã hội chủ nghĩa ở châu Âu, đặc biệt là các nhà hoạt động nổi tiếng. Đại hội công nhân quốc tế họp ở Pa-ri (Pháp) ngày 14-7-1889 đã được tổ chức để thành lập ra một tổ chức quốc tế mới - Quốc tế xã hội chủ nghĩa (quốc tế II). Dự Đại hội có 395 đại biểu từ 20 nước trên thế giới. Khẩu hiệu trung tâm của Đại hội là ''Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại !”.

Xem chi tiết

 

Quốc tế III (1919 - 1943)

Đại hội thành lập Quốc tế III tổ chức ở Mátxcơva từ ngày 2 đến 6-3-1919, có 51 đại biểu thay mặt cho 30 nước tới dự. Ngoài đại biểu phương Tây còn có đại biểu các nước phương Đông: Triều Tiên, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, chứng tỏ Quốc tế III là tổ chức của giai cấp lao động của cả các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đại hội được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Lênin. Lênin khẳng định: "chỉ có nền dân chủ tư sản và dân chủ vô sản, không có nên dân chủ thứ ba. Dân chủ vô sản là nền dân chủ cao nhất, do vậy nhiệm vụ của Quốc tế III là phải xác lập được dân chủ vô sản".

Xem chi tiết

 

Bộ Phương Đông Quốc tế Cộng sản

Bộ Phương Đông Quốc tế Cộng sản là cơ quan trực thuộc Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Tiền thân là Hội đồng Tuyên truyền các dân tộc phương Đông, được thành lập theo quyết định ngày 7/9/1920 của Đại hội I các dân tộc phương Đông họp ở Bacu (Baku; Liên Xô) do Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản triệu tập.

Xem chi tiết

 

Cục Thông tin quốc tế

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hoạt động của phong trào cộng sản quốc tế, của các Đảng Cộng sản mở rộng hơn nhiều so với thời kì trước chiến tranh: lãnh đạo công cuộc xây dựng chính quyền mới, công cuộc giải phóng dân tộc, lãnh đạo cuộc đấu tranh cho hoà bình, cho dân chủ, dân sinh và tiến bộ xã hội; nhiều vấn đề mới của thực tiễn cách mạng được đặt ra trước mắt những người cộng sản.

Xem chi tiết

 

Quốc tế Xã hội chủ nghĩa ( 1951 )

Quốc tế Xã hội chủ nghĩa (Socialist lnternational, viết tắt là SJ) là một tổ chức quốc tế tập hợp các Đảng Xã hội - dân chủ, các Đảng Xã hội chủ nghĩa và các Đảng Công nhân (hoặc Công đảng) đang hoạt động ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa và một số nước khác trên thế giới. 

Quốc tế Xã hội chủ nghĩa

Quốc tế Xã hội chủ nghĩa (Socialist lnternational, viết tắt là SJ) là một tổ chức quốc tế tập hợp các Đảng Xã hội - dân chủ, các Đảng Xã hội chủ nghĩa và các Đảng Công nhân (hoặc Công đảng) đang hoạt động ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa và một số nước khác trên thế giới. 

Tổ chức này được thành lập tại Đại hội lần thứ nhất họp ở thành phố Phranphuốc trên sông Mainơ (CHLB Đức) từ ngày 30/6 đến 3/7/1951. Đến nay, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã tiến hành được 18 đại hội. Đại hội gần đây nhất là Đại hội lần thứ 18 tại Xtôckhôm (Thụy Điển) từ ngày 20 đến 22/6/1989. Cơ quan ngôn luận chính thức của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa là Bản tin xuất bản bằng tiếng Anh - ''Socialist Affairs'' (Những vấn đề Xã hội chủ nghĩa).

Quốc tế Xã hội chủ nghĩa là hiện thân của trào lưu xã hội - dân chủ hiện đại, tự mình khẳng định sẽ phấn đấu cho những giá trị truyền thống của mình và cố gắng đổi mới để đáp ứng những đòi hỏi của thời đại ngày nay.

Trong Đại hội thành lập của mình, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã ra bản tuyên bố có tính chất cương lĩnh với nhan đề ''Về mục tiêu và nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội dân chủ'', trong đó định hình rõ khái niệm ''chủ nghĩa xã hội dân chủ''. Ở đây, các thành viên của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa muốn thay thế khái niệm ''chủ nghĩa cải lương xã hội'' trước đó, và muốn đề cao vấn đề ''dân chủ'' trong mọi mặt của đời sống xã hội, mà trước hết là dân chủ về xã hội. Các đảng trong Quốc tế này dự định thực hiện ''bằng biện pháp dân chủ'' trong tất cả các lĩnh vực của đời sống để cải cách chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội.

Quốc tế xã hội chủ nghĩa đã không ngừng phát triển về số lượng vàtổ chức của mình. Năm 1976, Quốc tế có 66 đảng và các tổ chức thành viên. Đến năm 1986, số lượng các đảng và tổ chức thành viên là 82. Số lượng đảng viên của tất cả các đảng thuộc trào lưu xã hội - dân chủ năm 1972 gồm 14,4 triệu, năm 1983 là 20 triệu và năm 1986 là 16 triệu. Qua các cuộc bầu cử vào nghị viện, các Đảng Xã hội - dân chủ thu được số phiếu bầu đáng kể của cử tri, chứng tỏ khả năng nhất định về mặt vận động và thu hút quần chúng của họ: năm 1976, họ thu được 80 triệu cử tri; năm 1983, là 210 triệu và năm 1986 là 100 triệu cử tri.

Ngoài các đảng là thành viên hoạt động ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa còn lập ra một hệ thống các tổ chức như: Hội quốc tế của những người xã hội trẻ, Phụ nữ quốc tế xã hội, Quốc tế thể thao công nhân, Hội quốc tế nhà giáo dân chủ - xã hội, Tổ chức xã hội chủ nghĩa châu Á - Thái Bình Dương, Hội liên hiệp sinh viên quốc tế xã hội chủ nghĩa, Liên đoàn công nhân Do Thái quốc tế, v.v…

Tháng 4 - 1974, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã thành lập một tổ chức mới lấy tên là ''Liên minh các Đảng Xã hội - dân chủ thuộc Cộng đồng châu Âu''. Tổ chức này bao gồm các đảng có đại biểu tham gia nghi viện của Cộng đồng châu Âu. Đảng đoàn xã hội - dân chủ là đảng đoàn lớn nhất trong 8 đảng đoàn của nghị viện đó, với 131 đại biểu trong tổng số 434 đại biểu Đảng đoàn xã hội - dân chủ tham gia hoạt động trong tất cả 18 ủy ban của nghị viện Cộng đồng châu Âu, nhằm thực hiện ba mục tiêu:

-Cố tạo ra sự đồng nhất của châu Âu để đối chọi lại với các nước xã hội chủ nghĩa

-Tăng cường vai trò của các nước Tây Âu trên vũ đài quốc tế để đối chọi lại với Mỹ.

-Chủ trương cùng nhau giải quyết các vấn đề hợp tác về kinh tế, chính trị, an ninh chung của các nước trong Cộng đồng châu Âu.

Để tăng cường hoạt động trên bình diện châu Âu, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa còn lập ra các tổ chức khác như: Đảng Nhân dân châu Âu (EVP), Liên minh Dân chủ châu Âu (EDU), Những người dân chủ tự do châu Âu (ELD)… Ngoài ra, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa còn thành lập các ủy ban như: năm 1977, Ủy ban Nam Phi do Ôlốp Panmơ, Phó chủ tịch Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đứng đầu. Năm 1982, Uỷ ban chính sách kinh tế do V.Bơran, Chủ tịch Quốc tế Xã hội chủ nghĩa trực tiếp phụ trách. Một số ủy ban khác cũng được thành lập, như ủy ban các vấn đề Trung Cận Đông do Craixki, Phó chủ tịch Quốc tế Xã hội chủ nghĩa phụ trách; Ủy ban thế giới về môi trường và phát triển do G.H Brulen, nữ Thủ tướng và là Chủ tịch Đảng Công nhân Nauy lãnh đạo; Ủy ban bảo vệ Nicaragoa, v.v.. cũng được thành trong thời gian gần đây.

Tại Đại hội 13 của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa (họp tại Giơnevơ năm 1976), ban lãnh đạo của Quốc tế này đã được kiện toàn với tinh thần đổi mới mạnh mẽ, Bơran là Chủ tịch danh dự Đảng Xã hội - dân chủ ở CHLB Đức đã được bầu làm Chủ tịch Quốc tế Xã hội chủ nghĩa lần thứ hai trong cương vị này và liên tiếp được tín nhiệm cho đến nay. Ngoài ra, Đại hội đã bầu ra 14 phó chủ tịch, trong đó có 7 người đại diện cho các đảng ở châu Âu. Ban lãnh đạo đó gồm những người vừa đại diện cho các Đảng Xã hội dân chủ tiêu biểu, vừa giữ những chức vụ cao trong chính quyền ở các nước đó. Đạc biệt là những người có tên tuổi như Bơran, Mitơrăng, Ôlốp Panmơ, B. Craixki…

- Quốc tế Xã hội chủ nghĩa cố gắng thích nghi với những biến đổi trên thế giới, đã thay đổi cương lĩnh trước đây và đề ra cương lĩnh mới cho giai đoạn hiện nay.

Trong những năm gần đây, trước sự biến động của tình hình thế giới, các Đảng Xã hội - dân chủ muốn đề ra một cương lĩnh mới thay thế cho cương lĩnh 1951. Những người xã hội - dân chủ thường nói đến khái niệm “thời đại Bơran”, có nghĩa rằng, từ khi Bơran trở thành Chủ tịch mới của Quốc tế năm l976, đã mở ra ''một thời kì mới'', có nhiều thay đổi tiến bộ trong hoạt động của trào lưu xã hội - dân chủ hiện đại. Tất nhiên, ngoài Bơran, còn có cả một thế hệ những nhà lãnh đạo mới - Ôlốp Panmơ, Mittơrang, Craixki, B.Craxi, Mariô Soarexơ v.v… đều là những nhân vật có đầu óc thực tế có khả năng tự thẩm định đường lối trước đây của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa và đánh giá sát sự biến đổi của thế giới ngày nay.

Cương lĩnh Phranphuốc 1951 của Quốc tế là cương lĩnh của thời kì "chiến tranh lạnh''. Nó chủ trương ''đa nguyên thế giới quan và đoạn tuyệt với thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân. Công khai thừa nhận và đề cao chế độ dân chủ đại nghị tư sản và từ bỏ yêu sách giai cấp công nhân giành chính quyền, từ bỏ những truyền thống cũ của xã hội – dân chủ trong những thập niên trước đây, cương lĩnh đó thấm đầy tinh thần “chống cộng” và chống chủ nghĩa xã hội khoa học.

Đại hội 13 của Quốc tế ở Giơnevơ năm 1976 đã bắt đầu đề cập đến yêu cầu thay đổi cương lĩnh cho phù hơp với tình hình thế giới đã thay đổi. Nhiều đại hội của Quốc tế trong thập niên 80 tiếp tục thảo luận và dự thảo cương lĩnh. Chủ tịch Bơran nhận định rằng: ''Một hoàn cảnh khác trong nền chính trị thế giới và những vấn đề toàn cầu mới như cuộc xung đột Bắc - Nam, việc chạy đua hạt nhân, các vấn đề về trật tự kinh tế thế giới, tình trạng quyền con người ngày càng bị dồn nén và đe dọa…đòi hỏi ở Quốc tế Xã hội chủ nghĩa một năng lực chính trị mới, nếu nó thực sự muốn tồn tại trên thế giới.''

Sau một thời gian chuẩn bị. Cương lĩnh mới của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã được công bố ở Đại hội 18. Đại hội này họp ở Xtốckhôm (Thụy Điển) vào 6-1989, nhân kỉ niệm 100 năm ngày thành lập Quốc tế II (1889-1989). Bản ''Tuyên ngôn về những nguyên tắc'' của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa, với ý nghĩa là một Cương lĩnh mới đã chỉ đạo hoạt động của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa từ đó cho đến hết thế kỉ XX và chuẩn bị bước sang thế kỉ XXI, đã gây tiếng vang trên thế giới.

So với Tuyên bố Phranphuốc 1951, trong Tuyên bố Xtốckhôm 1989 có những thay đổi đáng kể về quan niệm tư duy và định hướng hoạt động của mình. Nhiều nhận định về thế giới ngày nay đã được đưa ra như: tính chất phụ thuộc lẫn nhau với các nước trên hành tinh, những tác động to lớn của cuộc các mạng khoa học - công nghệ; những khả năng mới đem lại cho con người và đồng thời sự tiềm ẩn những thảm họa; những mâu thuẫn giữa những nước nghèo và nước giàu, giữa những nước đang phát triển và phát triển; mâu thuẫn giữa các nước phương Đông và phương Tây và mâu thuận giữa “khu vực Bắc” và ''khu vực Nam''. Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đặc biệt nhấn mạnh đến những giá trị chung của loài người như: hòa bình, tự do, dân chủ, bình đẳng, công bằng, nhân đạo, đoàn kết…

Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã cố gắng đề ra những kiến giải và biện pháp cụ thể về nhiều vấn đề như: xây dựng trật tự kinh tế và chính trị thế giới mới, đẩy mạnh quá trình hòa dịu, đối thoại và giải trừ quân bị, bảo vệ hòa bình và tránh thảm họa hạt nhân; việc bảo vệ môi trường và giải quyết vấn đề nợ nần giữa các nước trên thế giới; nhấn mạnh sự hợp tác và nỗ lực quốc tế chung để kiếm soát và giải quyết các vấn đề chung của thế giới hiện đại.

Bản Tuyên ngôn có tính cương lĩnh đó cũng nêu lên những tham vọng của ''chủ nghĩa xã hội dân chủ'' nhằm mục tiêu ''đạt được một thiết chế quốc tế có thế tăng cường những giá trị cơ bản, sử dụng những bảo đảm của các quyền công dân và quyền con người trong một xã hội dân chủ''. Tuyên ngôn nhấn mạnh tính đa nguyên trong quan niệm và tổ chức của những người xã hội - dân chủ. Họ kêu gọi thực hiện con đường dân chủ hóa và tự do hóa ở các nước xã hội chủ nghĩa, thực chất là tuyên truyền cho thuyết đa nguyên chính trị mà họ chủ trương, nhằm dẫn đến sư hội tụ thế giới quan, hội tụ quan điểm giữa hai trào lưu.

Quốc tế Xã hội chủ nghĩa cố gắng đáp ứng những vấn đề xã hội và những vấn đề toàn cầu

Các Đảng Xã hội - dân chủ, nhất là những đảng nắm chính quyền trong các nước tư bản, có những chính sách đáp ứng những lợi ích nhất định của người lao động, đặc biệt họ đã đạt được những tiến bộ xã hội trong mấy thập niên gần đây. Họ nhạy cảm với tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, cả những yếu tố tích cực và tiêu cực tới đời sống kinh tế - xã hội. Họ đưa ra những chính sách như tăng lương cho công nhân; giảm thất nghiệp và trợ cấp thất nghiệp; nâng cao trợ cấp hưu trí, giảm giờ lao động trong tuần, tăng thời gian nghỉ ngơi hàng năm cho người lao động v.v... và đòi các giới kinh doanh phải thực hiện những chính sách có lợi cho người lao động. Nhiều Đảng Xã hội - dân chủ cầm quyền như ở Thụy Điển, Áo, CHLB Đức đã có những chỉnh sách hạn chế tư bản độc quyền, đòi chủ tư bản nhân đạo hóa lao động, hoàn thiên cơ chế quản lí kinh tế thị trường và tăng các chính sách xã hội, đáp ứng phần nào đòi hỏi chính đáng của người lao động. ''Liên minh các Đảng Xã hội - dân chủ trong Cộng đồng châu Âu'' gốm 13 Đảng Xã hội - dân chủ, với 4 triệu đảng viên, trong những năm qua đã tăng cường hoạt động theo hướng trên.

Về đường lối quốc tế, các đảng thuộc Quốc tế Xã hội chủ nghĩa ủng hộ việc giữ gìn hòa bình thế giới và tán thành mục tiêu xóa bỏ nguy cơ “chiến tranh lạnh”, chống chạy đua vũ trang, bày tỏ quan điểm thực hiện chính sách hòa dịu. Họ có những sáng kiến tác động tích cực đến các nước lớn, đặc biệt là Mĩ và Liên Xô, để thực hiện quá trình hòa dịu quốc tế.

Họ rút ra những kết luận cần thiết về cuộc khủng hoảng rộng lớn của xã hội công nghiệp đã gây ảnh hưởng xấu đến toàn bộ nền văn minh nhân loại. Từ Đại hội 1976, Quốc tế xã hội chủ nghĩa đã đề cập đến tình trạng môi trường bị suy thoái, cảnh đói nghèo và nợ nần trên thế giới và đề ra chủ trương thực hiện ''ba cuộc tiến công'': cuộc tiến công vì hòa bình; cuộc tiến công vì quan hệ Bắc -Nam, và cuộc tiến công vì các quyền con người.

Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã có chủ trương cải thiện rõ rệt. Họ khuyến khích các Đảng Xã hội - dân chủ tiếp xúc, đối thoại với các Đảng Cộng sản, công nhân dựa trên nguyên tắc của họ. Từ đó đến nay nhiều đại hội của các Đảng Xã hội - dân chủ (cũng như đại hội của các Đảng Cộng sản và công nhân các nước XHCN) đã có đại biểu của hai bên tham dự. Đáng chú ý nhất là tại lễ kỉ niệm 70 năm Cách mạng tháng Mười ở Matxcơva (ll-1987) đã có 26 đoàn đại biểu các Đảng Xã hội - dân chủ tham dự. Nói chung, trên vấn đề bảo vệ hòa bình, an ninh và hợp tác quốc tế ngày nay, lập trường của những người Xã hội - dân chủ rất gắn với lập trường của những người cộng sản. Đó là nhân tố tạo cơ sở xích lại gần nhau giữa hai trào lưu chính của phong trào công nhân quốc tế trong giai đoạn hiện nay.

Tuy nhiên vẫn còn không ít những khó khăn và những bất đồng cơ bản tồn tại giữa trào lưu xã hội - dân chủ và những người cộng sản. Từ nhiều phía khác nhau, người ta đã phê phán và đi đến phủ nhận chủ nghĩa xã hội khoa học, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Những người xã hội – dân chủ cánh hữu đã lợi dụng tình hình khủng hoảng của các nước xã hội chủ nghĩa để lên án và mưu toan loại bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực, phủ nhận chủ nghĩa xã hội khoa học và khẳng định ''con đường thứ ba'' của họ là đúng đắn.

Cương lĩnh mới của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa thể hiện những toan tính, mong muốn các nước xã hội chủ nghĩa cải tổ theo quan điểm của họ, tức là đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội - dân chủ (về thực chất đó là con đường phục hồi chủ nghĩa tư bản). Họ khuyến khích thành lập các Đảng Xã hội - dân chủ ở các nước xã hội chủ nghĩa. Trong Hội nghị ở Cairô (5-1990), ban lãnh đạo Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã công nhận một số Đảng Xã hội - dân chủ mới thành lập ở các nước Cộng hòa Dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Bungari…là thành viên chính thức, đồng thời họ “vui mừng” trước những biến đổi ở Đông Âu và Trung Âu. Họ tích cực tham gia vào các cuộc vận động bầu cử thời gian qua ở các nước xã hội chủ nghĩa và nhiệt thành ủng hộ các Đảng Xã hội- dân chủ ở các nước này tranh thủ quần chúng và nhanh chóng trở thành lực lượng đối lập với các Đảng Cộng sản và công nhân. Đối với các nước đang phát triển, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa thay đổi chiến lược, tích cực tạo mọi điều kiện để thâm nhập vào các nước Á, Phi, Mĩ Latinh. Vấn đề “thế giới thứ ba” đang trở thành đề tài mà Quốc tế quan tâm trong các đại hội gần đây. Ngày 4 và 5-3-1970, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã thành lập Văn phòng Liên lạc với châu Á, châu Đại Dương, và chọn Xingapo là trụ sở đặt văn phòng đó. Từ 1972, Văn phòng này đổi tên thành Tổ chức Xã hội chủ nghĩa châu Á - Thái Bình Dương (Asia Pacific Socialist Organisation, viết tắt là APSO). Thành viên của APSO khu vực này gồm các Đảng Xã hội - dân chủ các nước Ôxtrâylia, Ixraen, Nhật Bản, Malaixia, Niu Dilân, Hàn Quốc. Từ 1/3/1979, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa lập một Ban thư kí khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặt trụ sở thường trực ở Tôkiô làm chức năng Văn phòng liên lạc. Hội nghị lần thứ nhất của Tổ chức Xã hội chủ nghĩa châu Á - Thái Bình Dương họp 2-1991 tại Xitnây đã đề ra phương hướng tăng cường hoạt động hơn nữa của các Đảng Xã hội - dân chủ tại đây và bầu B. Rowling, đại biểu Niu Dilân làm Chủ tịch.

Tháng 2-1981, 9 đoàn đại biểu chính thức và 6 đoàn đại biểu là quan sát viên các nước châu Phi đã họp hội nghị ở Tuynidi để thành lập Quốc tế Xã hội chủ nghĩa châu Phi. Đại biểu Xênêgan (L.S Senghor) được bầu làm Chủ tịch, đại biểu Tuynidi (Mungi AI. Kooli) được cử làm Tổng thư kí của tổ chức Quốc tế Xã hội chủ nghĩa châu Phi.

Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã phối hợp với Đảng Hành động dân chủ ở Vênêxuêla tổ chức Hội nghị Caracát vào tháng 5-1976. Tham dự Hội nghị có 30 đoàn đại biểu các Đảng Xã hội - dân chủ ở 30 nước ( bao gồm các đoàn đại biểu Đảng Xã hội - dân chủ ở châu Âu và 12 đảng thuộc xu hướng xã hội- dân chủ ở Mĩ Latinh). Qua hội nghị này, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa mong muốn bắn một mũi tên trúng hai đích: một – nhằm gạt bỏ ảnh hưởng của Đảng Cộng sản ở khu vực này để họ có thể dần dần thay thế, hai - nhằm cộng tác với các chính đảng tư sản có điều kiện trở thành những đảng nắm chính quyền ở đây để thu hút họ vào trào lưu xã hội – dân chủ./.

 

xxxxx

 

Đệ Nhất Quốc tế tên đầy đủ là Hội Liên hiệp Lao động Quốc tế, tiếng Anh The International Workingmen's Association (IWA, 1864–1876), là tổ chức tranh đấu đầu tiên của các nhóm xã hội quốc tế, được thành lập ở Luân Đôn vào ngày 28 tháng 9 năm 1864, mục đích là để đoàn kết các nhóm xã hội khuynh tả, cộng sản, các nhóm vô chính phủ và các tổ chức công đoàn. Trong thời gian tồn tại, Đệ Nhất Quốc tế tiến hành năm đại hội, thông qua các nghị quyết quan trọng: tán thành bãi công, thành lập công đoàn, đấu tranh đòi ngày làm 8 giờ, đòi cải thiện đời sống công nhân. Do sự ảnh hưởng của Đệ Nhất Quốc tế, công nhân các nước tích cực tham gia vào phong trào đấu tranh chính trị. Vào điểm cao, theo như tường trình của cảnh sát liên hiệp có tới khoảng 5 triệu hội viên [1] Theo những tài liệu chính thức của IWA thì họ có khoảng 8 triệu hội viên.[2]
Năm 1876, tại PhiladelphiaHoa Kỳ, Đệ Nhất Quốc tế tuyên bố giải tán vì sự đối nghịch giữa khuynh hướng mác-xít và Chủ nghĩa cộng sản vô chính phủ mà lãnh tụ là Bakunin.

Đệ Nhị Quốc Tế còn gọi là Quốc tế thứ hai là liên minh quốc tế, với sự kết hợp của các đảng xã hội chủ nghĩa và một số tổ chức công đoàn trên thế giới - chủ yếu là tại châu Âu, được thành lập ngày 14 tháng 07 năm 1889 ở Paris và giải thể năm 1916. Tham dự đại hội thành lập có hầu hết đại biểu các tổ chức công nhân của các nước châu Âu, Mỹ (Gồm 400 đại biểu với 22 quốc gia). Phái vô chính phủ bộc lộ sự bất đồng ý kiến ngay từ đầu, nhưng sau đại hội Luân Đôn (thủ đô Anh) năm 1896, bị loại bỏ hoàn toàn ra khỏi tổ chức quốc tế này.

Cũng như Đệ Nhất Quốc Tế, Đệ Nhị Quốc Tế này tồn tại và hoạt động chủ yếu dưới hình thức đại hội. Đệ Nhị Quốc tế đã thông qua các nghị quyết quan trọng: nêu lên sự cần thiết phải thành lập các chính đảng của giai cấp vô sản, đề cao vai trò đấu tranh chính trị, tăng cường phong trào quần chúng, đòi tăng lương, ngày làm 8 giờ, lấy ngày 1/5 hằng năm làm ngày Quốc tế lao động để đoàn kết và biểu dương lực lượng giai cấp vô sản thế giới. Đệ Nhị Quốc tế có nhiều đóng góp quan trọng vào việc phát triển phong trào công nhân thế giới.

Năm 1895. Frederich Engels qua đời. Các chính trị gia theo chủ nghĩa xét lại, đại diện là Eduard Bernstein, dần dần chiếm ưu thế trong Đệ Nhị Quốc tế. Do không thống nhất về chiến lược, chia rẽ về tổ chức, Đệ Nhị Quốc tế tan rã khi Chiến tranh thế giới I bùng nổ. Hầu hết những người lãnh đạo các đảng dân chủ xã hội của các nước trong Đệ Nhị Quốc tế ủng hộ chính phủ nước họ tham chiến.

 

Đệ Tứ Quốc tế còn gọi là Cộng sản Đệ Tứ là liên minh quốc tế của những người theo Chủ nghĩa Trotsky thành lập năm 1938 tại Paris, theo khuynh hướng "cách mạng thường trực" do Trotsky đưa ra từ sau khi Lenin qua đời (1924) để chống lại đường lối "cách mạng vô sản trong một quốc gia" của Stalin. Kể từ năm 1953, Đệ Tứ Quốc tế phân hóa ra nhiều nhóm nhỏ.Dù tổ chức tự nhận là cộng sản nhưng bị Chính phủ Liên Xô coi là bất hợp pháp vì tính chất cực tả 1 cách rõ ràng của nó.

Các Quốc tế cộng sản trước đây[sửa | sửa mã nguồn]

Đã có một số tổ chức công nhân quốc tế trước đây, và lời kêu gọi thành lập Quốc tế lần thứ năm đề xuất việc công nhận bốn đặc biệt, mỗi người tự coi mình là người kế thừa những người trước đó:

"Hiệp hội công nhân quốc tế là quốc tế cộng sản đầu tiên", được gọi là "Hiệp hội các công nhân quốc tế", được thành lập tại London năm 1864.

"Đệ Nhị Quốc tế", được thành lập vào năm 1889 sau việc trục xuất những Người vô chính phủ từ Đệ Nhất Quốc tế, hoạt động cho đến khi giải thể sau đó vào năm 1916. Quốc tế thứ hai là tiền nhân trực tiếp của Quốc tế Xã hội, tổ chức các đảng chính trị dân chủ chính trị xã hội chủ nghĩa.

"Đệ Tam Quốc tế", được gọi là "Quốc tế Cộng sản" hay "Comintern", được thành lập bởi Vladimir Lenin vào năm 1919 sau sự thất bại của Quốc tế lần thứ hai khi bắt đầu Chiến tranh Thế giới I. Nhóm được giải thể vào năm 1943.

"Đệ Tứ Quốc tế", được thành lập năm 1938 bởi Leon Trotsky đối lập với Chủ nghĩa Stalin. Trotsky coi Quốc tế cộng sản là không thể thay đổi và đã vượt qua phản gián dưới sự kiểm soát của một tầng lớp quan liêu ở Liên bang Xô viết. Mặc dù nó vẫn tồn tại, sự phân mảnh của Chủ nghĩa Trotsky đã dẫn đến việc kêu gọi một quốc tế thứ năm.

Liên đoàn cho quốc tế thứ năm[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2003, Liên đoàn Quốc tế Cộng sản Cách mạng kêu gọi thành lập Tổ chức Quốc tế lần thứ năm "càng sớm càng tốt & nhanh chóng; không phải trong tương lai xa xôi nhưng trong những tháng và năm tới" Nhóm đã trở thành Liên đoàn quốc tế thứ năm (L5I), đến năm 2010 có các hoạt động ở ÁoCộng hòa SécĐứcPakistanThụy ĐiểnSri Lanka (Đảng Xã hội Sri Lanka), Vương quốc Anh và Hoa Kỳ. Liên đoàn tổ chức các chiến dịch quốc tế lần thứ năm trong Diễn đàn Xã hội Châu Âu và phong trào lao động quốc tế để thành lập một quốc tế cộng sản mới. Nhóm Splinter - Nhóm công nhân cộng sản (New Zealand) cũng tranh luận cho một quốc tế thứ năm của họ.

 

 

Quốc tế Xã hội chủ nghĩa ( 1951 )

Quốc tế Xã hội chủ nghĩa (Socialist lnternational, viết tắt là SJ) là một tổ chức quốc tế tập hợp các Đảng Xã hội - dân chủ, các Đảng Xã hội chủ nghĩa và các Đảng Công nhân (hoặc Công đảng) đang hoạt động ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa và một số nước khác trên thế giới. 

Tổ chức này được thành lập tại Đại hội lần thứ nhất họp ở thành phố Phranphuốc trên sông Mainơ (CHLB Đức) từ ngày 30/6 đến 3/7/1951. Đến nay, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã tiến hành được 18 đại hội. Đại hội gần đây nhất là Đại hội lần thứ 18 tại Xtôckhôm (Thụy Điển) từ ngày 20 đến 22/6/1989. Cơ quan ngôn luận chính thức của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa là Bản tin xuất bản bằng tiếng Anh - ''Socialist Affairs'' (Những vấn đề Xã hội chủ nghĩa).

Quốc tế Xã hội chủ nghĩa là hiện thân của trào lưu xã hội - dân chủ hiện đại, tự mình khẳng định sẽ phấn đấu cho những giá trị truyền thống của mình và cố gắng đổi mới để đáp ứng những đòi hỏi của thời đại ngày nay.

Trong Đại hội thành lập của mình, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã ra bản tuyên bố có tính chất cương lĩnh với nhan đề ''Về mục tiêu và nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội dân chủ'', trong đó định hình rõ khái niệm ''chủ nghĩa xã hội dân chủ''. Ở đây, các thành viên của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa muốn thay thế khái niệm ''chủ nghĩa cải lương xã hội'' trước đó, và muốn đề cao vấn đề ''dân chủ'' trong mọi mặt của đời sống xã hội, mà trước hết là dân chủ về xã hội. Các đảng trong Quốc tế này dự định thực hiện ''bằng biện pháp dân chủ'' trong tất cả các lĩnh vực của đời sống để cải cách chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội.

Quốc tế xã hội chủ nghĩa đã không ngừng phát triển về số lượng vàtổ chức của mình. Năm 1976, Quốc tế có 66 đảng và các tổ chức thành viên. Đến năm 1986, số lượng các đảng và tổ chức thành viên là 82. Số lượng đảng viên của tất cả các đảng thuộc trào lưu xã hội - dân chủ năm 1972 gồm 14,4 triệu, năm 1983 là 20 triệu và năm 1986 là 16 triệu. Qua các cuộc bầu cử vào nghị viện, các Đảng Xã hội - dân chủ thu được số phiếu bầu đáng kể của cử tri, chứng tỏ khả năng nhất định về mặt vận động và thu hút quần chúng của họ: năm 1976, họ thu được 80 triệu cử tri; năm 1983, là 210 triệu và năm 1986 là 100 triệu cử tri.

Ngoài các đảng là thành viên hoạt động ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa còn lập ra một hệ thống các tổ chức như: Hội quốc tế của những người xã hội trẻ, Phụ nữ quốc tế xã hội, Quốc tế thể thao công nhân, Hội quốc tế nhà giáo dân chủ - xã hội, Tổ chức xã hội chủ nghĩa châu Á - Thái Bình Dương, Hội liên hiệp sinh viên quốc tế xã hội chủ nghĩa, Liên đoàn công nhân Do Thái quốc tế, v.v…

Tháng 4 - 1974, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã thành lập một tổ chức mới lấy tên là ''Liên minh các Đảng Xã hội - dân chủ thuộc Cộng đồng châu Âu''. Tổ chức này bao gồm các đảng có đại biểu tham gia nghi viện của Cộng đồng châu Âu. Đảng đoàn xã hội - dân chủ là đảng đoàn lớn nhất trong 8 đảng đoàn của nghị viện đó, với 131 đại biểu trong tổng số 434 đại biểu Đảng đoàn xã hội - dân chủ tham gia hoạt động trong tất cả 18 ủy ban của nghị viện Cộng đồng châu Âu, nhằm thực hiện ba mục tiêu:

-Cố tạo ra sự đồng nhất của châu Âu để đối chọi lại với các nước xã hội chủ nghĩa

-Tăng cường vai trò của các nước Tây Âu trên vũ đài quốc tế để đối chọi lại với Mỹ.

-Chủ trương cùng nhau giải quyết các vấn đề hợp tác về kinh tế, chính trị, an ninh chung của các nước trong Cộng đồng châu Âu.

Để tăng cường hoạt động trên bình diện châu Âu, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa còn lập ra các tổ chức khác như: Đảng Nhân dân châu Âu (EVP), Liên minh Dân chủ châu Âu (EDU), Những người dân chủ tự do châu Âu (ELD)… Ngoài ra, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa còn thành lập các ủy ban như: năm 1977, Ủy ban Nam Phi do Ôlốp Panmơ, Phó chủ tịch Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đứng đầu. Năm 1982, Uỷ ban chính sách kinh tế do V.Bơran, Chủ tịch Quốc tế Xã hội chủ nghĩa trực tiếp phụ trách. Một số ủy ban khác cũng được thành lập, như ủy ban các vấn đề Trung Cận Đông do Craixki, Phó chủ tịch Quốc tế Xã hội chủ nghĩa phụ trách; Ủy ban thế giới về môi trường và phát triển do G.H Brulen, nữ Thủ tướng và là Chủ tịch Đảng Công nhân Nauy lãnh đạo; Ủy ban bảo vệ Nicaragoa, v.v.. cũng được thành trong thời gian gần đây.

Tại Đại hội 13 của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa (họp tại Giơnevơ năm 1976), ban lãnh đạo của Quốc tế này đã được kiện toàn với tinh thần đổi mới mạnh mẽ, Bơran là Chủ tịch danh dự Đảng Xã hội - dân chủ ở CHLB Đức đã được bầu làm Chủ tịch Quốc tế Xã hội chủ nghĩa lần thứ hai trong cương vị này và liên tiếp được tín nhiệm cho đến nay. Ngoài ra, Đại hội đã bầu ra 14 phó chủ tịch, trong đó có 7 người đại diện cho các đảng ở châu Âu. Ban lãnh đạo đó gồm những người vừa đại diện cho các Đảng Xã hội dân chủ tiêu biểu, vừa giữ những chức vụ cao trong chính quyền ở các nước đó. Đạc biệt là những người có tên tuổi như Bơran, Mitơrăng, Ôlốp Panmơ, B. Craixki…

- Quốc tế Xã hội chủ nghĩa cố gắng thích nghi với những biến đổi trên thế giới, đã thay đổi cương lĩnh trước đây và đề ra cương lĩnh mới cho giai đoạn hiện nay.

Trong những năm gần đây, trước sự biến động của tình hình thế giới, các Đảng Xã hội - dân chủ muốn đề ra một cương lĩnh mới thay thế cho cương lĩnh 1951. Những người xã hội - dân chủ thường nói đến khái niệm “thời đại Bơran”, có nghĩa rằng, từ khi Bơran trở thành Chủ tịch mới của Quốc tế năm l976, đã mở ra ''một thời kì mới'', có nhiều thay đổi tiến bộ trong hoạt động của trào lưu xã hội - dân chủ hiện đại. Tất nhiên, ngoài Bơran, còn có cả một thế hệ những nhà lãnh đạo mới - Ôlốp Panmơ, Mittơrang, Craixki, B.Craxi, Mariô Soarexơ v.v… đều là những nhân vật có đầu óc thực tế có khả năng tự thẩm định đường lối trước đây của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa và đánh giá sát sự biến đổi của thế giới ngày nay.

Cương lĩnh Phranphuốc 1951 của Quốc tế là cương lĩnh của thời kì "chiến tranh lạnh''. Nó chủ trương ''đa nguyên thế giới quan và đoạn tuyệt với thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân. Công khai thừa nhận và đề cao chế độ dân chủ đại nghị tư sản và từ bỏ yêu sách giai cấp công nhân giành chính quyền, từ bỏ những truyền thống cũ của xã hội – dân chủ trong những thập niên trước đây, cương lĩnh đó thấm đầy tinh thần “chống cộng” và chống chủ nghĩa xã hội khoa học.

Đại hội 13 của Quốc tế ở Giơnevơ năm 1976 đã bắt đầu đề cập đến yêu cầu thay đổi cương lĩnh cho phù hơp với tình hình thế giới đã thay đổi. Nhiều đại hội của Quốc tế trong thập niên 80 tiếp tục thảo luận và dự thảo cương lĩnh. Chủ tịch Bơran nhận định rằng: ''Một hoàn cảnh khác trong nền chính trị thế giới và những vấn đề toàn cầu mới như cuộc xung đột Bắc - Nam, việc chạy đua hạt nhân, các vấn đề về trật tự kinh tế thế giới, tình trạng quyền con người ngày càng bị dồn nén và đe dọa…đòi hỏi ở Quốc tế Xã hội chủ nghĩa một năng lực chính trị mới, nếu nó thực sự muốn tồn tại trên thế giới.''

Sau một thời gian chuẩn bị. Cương lĩnh mới của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã được công bố ở Đại hội 18. Đại hội này họp ở Xtốckhôm (Thụy Điển) vào 6-1989, nhân kỉ niệm 100 năm ngày thành lập Quốc tế II (1889-1989). Bản ''Tuyên ngôn về những nguyên tắc'' của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa, với ý nghĩa là một Cương lĩnh mới đã chỉ đạo hoạt động của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa từ đó cho đến hết thế kỉ XX và chuẩn bị bước sang thế kỉ XXI, đã gây tiếng vang trên thế giới.

So với Tuyên bố Phranphuốc 1951, trong Tuyên bố Xtốckhôm 1989 có những thay đổi đáng kể về quan niệm tư duy và định hướng hoạt động của mình. Nhiều nhận định về thế giới ngày nay đã được đưa ra như: tính chất phụ thuộc lẫn nhau với các nước trên hành tinh, những tác động to lớn của cuộc các mạng khoa học - công nghệ; những khả năng mới đem lại cho con người và đồng thời sự tiềm ẩn những thảm họa; những mâu thuẫn giữa những nước nghèo và nước giàu, giữa những nước đang phát triển và phát triển; mâu thuẫn giữa các nước phương Đông và phương Tây và mâu thuận giữa “khu vực Bắc” và ''khu vực Nam''. Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đặc biệt nhấn mạnh đến những giá trị chung của loài người như: hòa bình, tự do, dân chủ, bình đẳng, công bằng, nhân đạo, đoàn kết…

Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã cố gắng đề ra những kiến giải và biện pháp cụ thể về nhiều vấn đề như: xây dựng trật tự kinh tế và chính trị thế giới mới, đẩy mạnh quá trình hòa dịu, đối thoại và giải trừ quân bị, bảo vệ hòa bình và tránh thảm họa hạt nhân; việc bảo vệ môi trường và giải quyết vấn đề nợ nần giữa các nước trên thế giới; nhấn mạnh sự hợp tác và nỗ lực quốc tế chung để kiếm soát và giải quyết các vấn đề chung của thế giới hiện đại.

Bản Tuyên ngôn có tính cương lĩnh đó cũng nêu lên những tham vọng của ''chủ nghĩa xã hội dân chủ'' nhằm mục tiêu ''đạt được một thiết chế quốc tế có thế tăng cường những giá trị cơ bản, sử dụng những bảo đảm của các quyền công dân và quyền con người trong một xã hội dân chủ''. Tuyên ngôn nhấn mạnh tính đa nguyên trong quan niệm và tổ chức của những người xã hội - dân chủ. Họ kêu gọi thực hiện con đường dân chủ hóa và tự do hóa ở các nước xã hội chủ nghĩa, thực chất là tuyên truyền cho thuyết đa nguyên chính trị mà họ chủ trương, nhằm dẫn đến sư hội tụ thế giới quan, hội tụ quan điểm giữa hai trào lưu.

Quốc tế Xã hội chủ nghĩa cố gắng đáp ứng những vấn đề xã hội và những vấn đề toàn cầu

Các Đảng Xã hội - dân chủ, nhất là những đảng nắm chính quyền trong các nước tư bản, có những chính sách đáp ứng những lợi ích nhất định của người lao động, đặc biệt họ đã đạt được những tiến bộ xã hội trong mấy thập niên gần đây. Họ nhạy cảm với tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, cả những yếu tố tích cực và tiêu cực tới đời sống kinh tế - xã hội. Họ đưa ra những chính sách như tăng lương cho công nhân; giảm thất nghiệp và trợ cấp thất nghiệp; nâng cao trợ cấp hưu trí, giảm giờ lao động trong tuần, tăng thời gian nghỉ ngơi hàng năm cho người lao động v.v... và đòi các giới kinh doanh phải thực hiện những chính sách có lợi cho người lao động. Nhiều Đảng Xã hội - dân chủ cầm quyền như ở Thụy Điển, Áo, CHLB Đức đã có những chỉnh sách hạn chế tư bản độc quyền, đòi chủ tư bản nhân đạo hóa lao động, hoàn thiên cơ chế quản lí kinh tế thị trường và tăng các chính sách xã hội, đáp ứng phần nào đòi hỏi chính đáng của người lao động. ''Liên minh các Đảng Xã hội - dân chủ trong Cộng đồng châu Âu'' gốm 13 Đảng Xã hội - dân chủ, với 4 triệu đảng viên, trong những năm qua đã tăng cường hoạt động theo hướng trên.

Về đường lối quốc tế, các đảng thuộc Quốc tế Xã hội chủ nghĩa ủng hộ việc giữ gìn hòa bình thế giới và tán thành mục tiêu xóa bỏ nguy cơ “chiến tranh lạnh”, chống chạy đua vũ trang, bày tỏ quan điểm thực hiện chính sách hòa dịu. Họ có những sáng kiến tác động tích cực đến các nước lớn, đặc biệt là Mĩ và Liên Xô, để thực hiện quá trình hòa dịu quốc tế.

Họ rút ra những kết luận cần thiết về cuộc khủng hoảng rộng lớn của xã hội công nghiệp đã gây ảnh hưởng xấu đến toàn bộ nền văn minh nhân loại. Từ Đại hội 1976, Quốc tế xã hội chủ nghĩa đã đề cập đến tình trạng môi trường bị suy thoái, cảnh đói nghèo và nợ nần trên thế giới và đề ra chủ trương thực hiện ''ba cuộc tiến công'': cuộc tiến công vì hòa bình; cuộc tiến công vì quan hệ Bắc -Nam, và cuộc tiến công vì các quyền con người.

Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã có chủ trương cải thiện rõ rệt. Họ khuyến khích các Đảng Xã hội - dân chủ tiếp xúc, đối thoại với các Đảng Cộng sản, công nhân dựa trên nguyên tắc của họ. Từ đó đến nay nhiều đại hội của các Đảng Xã hội - dân chủ (cũng như đại hội của các Đảng Cộng sản và công nhân các nước XHCN) đã có đại biểu của hai bên tham dự. Đáng chú ý nhất là tại lễ kỉ niệm 70 năm Cách mạng tháng Mười ở Matxcơva (ll-1987) đã có 26 đoàn đại biểu các Đảng Xã hội - dân chủ tham dự. Nói chung, trên vấn đề bảo vệ hòa bình, an ninh và hợp tác quốc tế ngày nay, lập trường của những người Xã hội - dân chủ rất gắn với lập trường của những người cộng sản. Đó là nhân tố tạo cơ sở xích lại gần nhau giữa hai trào lưu chính của phong trào công nhân quốc tế trong giai đoạn hiện nay.

Tuy nhiên vẫn còn không ít những khó khăn và những bất đồng cơ bản tồn tại giữa trào lưu xã hội - dân chủ và những người cộng sản. Từ nhiều phía khác nhau, người ta đã phê phán và đi đến phủ nhận chủ nghĩa xã hội khoa học, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Những người xã hội – dân chủ cánh hữu đã lợi dụng tình hình khủng hoảng của các nước xã hội chủ nghĩa để lên án và mưu toan loại bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực, phủ nhận chủ nghĩa xã hội khoa học và khẳng định ''con đường thứ ba'' của họ là đúng đắn.

Cương lĩnh mới của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa thể hiện những toan tính, mong muốn các nước xã hội chủ nghĩa cải tổ theo quan điểm của họ, tức là đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội - dân chủ (về thực chất đó là con đường phục hồi chủ nghĩa tư bản). Họ khuyến khích thành lập các Đảng Xã hội - dân chủ ở các nước xã hội chủ nghĩa. Trong Hội nghị ở Cairô (5-1990), ban lãnh đạo Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã công nhận một số Đảng Xã hội - dân chủ mới thành lập ở các nước Cộng hòa Dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Bungari…là thành viên chính thức, đồng thời họ “vui mừng” trước những biến đổi ở Đông Âu và Trung Âu. Họ tích cực tham gia vào các cuộc vận động bầu cử thời gian qua ở các nước xã hội chủ nghĩa và nhiệt thành ủng hộ các Đảng Xã hội- dân chủ ở các nước này tranh thủ quần chúng và nhanh chóng trở thành lực lượng đối lập với các Đảng Cộng sản và công nhân. Đối với các nước đang phát triển, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa thay đổi chiến lược, tích cực tạo mọi điều kiện để thâm nhập vào các nước Á, Phi, Mĩ Latinh. Vấn đề “thế giới thứ ba” đang trở thành đề tài mà Quốc tế quan tâm trong các đại hội gần đây. Ngày 4 và 5-3-1970, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã thành lập Văn phòng Liên lạc với châu Á, châu Đại Dương, và chọn Xingapo là trụ sở đặt văn phòng đó. Từ 1972, Văn phòng này đổi tên thành Tổ chức Xã hội chủ nghĩa châu Á - Thái Bình Dương (Asia Pacific Socialist Organisation, viết tắt là APSO). Thành viên của APSO khu vực này gồm các Đảng Xã hội - dân chủ các nước Ôxtrâylia, Ixraen, Nhật Bản, Malaixia, Niu Dilân, Hàn Quốc. Từ 1/3/1979, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa lập một Ban thư kí khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặt trụ sở thường trực ở Tôkiô làm chức năng Văn phòng liên lạc. Hội nghị lần thứ nhất của Tổ chức Xã hội chủ nghĩa châu Á - Thái Bình Dương họp 2-1991 tại Xitnây đã đề ra phương hướng tăng cường hoạt động hơn nữa của các Đảng Xã hội - dân chủ tại đây và bầu B. Rowling, đại biểu Niu Dilân làm Chủ tịch.

Tháng 2-1981, 9 đoàn đại biểu chính thức và 6 đoàn đại biểu là quan sát viên các nước châu Phi đã họp hội nghị ở Tuynidi để thành lập Quốc tế Xã hội chủ nghĩa châu Phi. Đại biểu Xênêgan (L.S Senghor) được bầu làm Chủ tịch, đại biểu Tuynidi (Mungi AI. Kooli) được cử làm Tổng thư kí của tổ chức Quốc tế Xã hội chủ nghĩa châu Phi.

Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã phối hợp với Đảng Hành động dân chủ ở Vênêxuêla tổ chức Hội nghị Caracát vào tháng 5-1976. Tham dự Hội nghị có 30 đoàn đại biểu các Đảng Xã hội - dân chủ ở 30 nước ( bao gồm các đoàn đại biểu Đảng Xã hội - dân chủ ở châu Âu và 12 đảng thuộc xu hướng xã hội- dân chủ ở Mĩ Latinh). Qua hội nghị này, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa mong muốn bắn một mũi tên trúng hai đích: một – nhằm gạt bỏ ảnh hưởng của Đảng Cộng sản ở khu vực này để họ có thể dần dần thay thế, hai - nhằm cộng tác với các chính đảng tư sản có điều kiện trở thành những đảng nắm chính quyền ở đây để thu hút họ vào trào lưu xã hội – dân chủ./.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét